Tải bản đầy đủ (.docx) (179 trang)

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.2 KB, 179 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2022


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9 38 01 07

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

Hà Nội, 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi Các kết quả
nghiên cứu, trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác
và đã được cơng bố Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa từng


được cơng bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào
Nghiên cứu sinh

i


LỜI CẢM ƠN
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lời cám ơn sâu sắc
nhất, chân thành nhất tới PGS, TS, một nhà khoa học nhiệt
huyết đã tận tình hướng dẫn tơi nghiên cứu, học tập, và động viên khích lệ tơi hồn
thành luận án tiến sỹ này
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Ngoại Thương, Khoa Luật đã
luôn tạo điều kiện để tơi hồn thành luận án
Tơi vơ cùng biết ơn những người thân trong gia đình, những đồng nghiệp,
bạn bè ln khuyến khích, động viên, cảm thơng, chia sẻ cả về thời gian và các
nguồn lực khác trong suốt quá trình hoàn thành luận án
Nghiên cứu sinh

ii


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT


7

1 1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

7

1 1 1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến khái niệm, đặc điểm, vai trò của
Doanh nghiệp xã hội

7

1 1 2 Tình hình nghiên cứu về pháp luật về doanh nghiệp xã hội, hình
thức pháp lý, nội dung quan hệ pháp luật doanh nghiệp xã hội

11

1 1 3 Một số nghiên cứu khác có liên quan đến luận án:

14

1 1 4 Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

16

1 2 Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu

19

1 2 1 Cơ sở lý thuyết


19

1 2 2 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

19

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

20

Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI

21

2 1 Tổng quan về doanh nghiệp xã hội

21

2 1 1 Quan niệm về doanh nghiệp xã hội

21

2 1 2 Chức năng, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp xã hội

42

2 1 3 Các loại hình tổ chức của doanh nghiệp xã hội

49


2 1 4 Nhu cầu phát triển của doanh nghiệp xã hội trong nền kinh tế thị trường
2 2 Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội

55

2 2 1 Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về doanh nghiệp xã hội

55

2 2 2 Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp xã hội

58

2 2 3 Nội dung pháp luật về Doanh nghiệp xã hội

60

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

71

iii

51


Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


72

3 1 Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay

72

3 1 1 Về khái niệm doanh nghiệp xã hội

72

3 1 2 Về thành lập doanh nghiệp xã hội

82

3 1 3 Các vấn đề pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp xã hội

91

3 1 4 Các vấn đề về giải thể và tổ chức lại doanh nghiệp xã hội

106

3 2 Thực tiễn thi hành pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay 108
3 2 1 Tổng quan doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay

108

3 2 2 Thực tiễn thi hành pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam


110

3 2 3 Đánh giá

119

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

124

Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

125

4 1 Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt
Nam hiện nay

125

4 2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam
hiện nay

130

4 2 1 Nhóm giải pháp về hồn thiện pháp luật về Doanh nghiệp xã hội

130

4 2 2 Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng thực thi


145

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

151

KẾT LUẬN

152

DANH MỤC CÁC C NG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢ C C NG

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

154

PHỤ LỤC

166

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Công ty Cổ phần

Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp

CTTNHH
DN

Doanh nghiệp xã hội

DNXH

Doanh nhân xã hội

DNhXH

Hợp tác xã

HTX

Luật Doanh nghiệp

LDN

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng
(tên Tiếng Anh là: Centre for Social Innitiatives Promotion)

v

CTCP


TNXHCDN
CSIP


DANH MỤC ẢNG – IỂU – SƠ ĐỒ
Bảng 3 1 Số lượng DNXH ở Việt Nam từ 2015-2018

110

Bảng 3 2: Số lượng các DNXH có cụm từ “xã hội” trong tên riêng

111

Bảng 3 3 Các loại hình pháp lý của DNXH ở Việt Nam

112

Bảng 3 4: Địa bàn hoạt động của các DNXH ở Việt Nam

112

Bảng 3 5: Lĩnh vực hoạt động của các DNXH

114

Bảng 3 6: Quy mô vốn chủ sở hữu của các DNXH năm 2019

114

Bảng 3 7: Cơ cấu nguồn vốn vay và tài trợ của các DNXH ở Việt Nam


115

Bảng 3 8 Tình hình kinh doanh của các DNXH ở Việt Nam

117

Bảng 3 9: Số lượng việc làm trong các DNXH ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019

118

Biểu đồ 3 1 Các khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay của DNXH

116

Biểu đồ 3 2: Các mục tiêu xã hội mà DNXH ở Việt Nam hướng tới

117

Biểu đồ 3 3: Tỷ lệ các DNXH nhận hỗ trợ từ các chương trình hỗ trợ DNXH

119

Sơ đồ 1 1 Vị trí của DNXH đối với tổ chức lai và doanh nghiệp thương mại theo cách
định nghĩa của Ofer Eldar [122]

34

Sơ đồ 1 2 Phổ DNXH [103]


43

Sơ đồ 1 3 Quan hệ pháp luật DNXH [120]

60

vi


MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của luận án
Cùng với phong trào bảo vệ người tiêu dùng, DNXH là một trong loại hình
doanh nghiệp đặc biệt được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ trước Mặc dù
vậy, DNXH vẫn tiếp tục đặt ra những thách thức về nhận thức, về vai trị của nó trong
nền kinh tế thị trường cũng như các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nó trong xã
hội hiện đại Tuy cịn có sự khác biệt trong pháp luật của mỗi quốc gia, song từ
phương diện pháp lý, DNXH được tiếp cận là loại hình doanh nghiệp được hình
thành từ các sáng kiến xã hội, trên nền tảng nhu cầu giải quyết một vấn đề xã hội cụ
thể của cộng đồng, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân của những người sáng lập
Tính tự phát, năng động đặc thù này khiến cho nhận thức của xã hội luôn bị bỏ lại rất
xa so với thực tiễn sinh động của mơ hình doanh nghiệp xã hội Từ phương diện mục
tiêu, DNXH được hiểu đơn giản hơn là những doanh nghiệp hoạt động khơng vì mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận, được hình thành để giải quyết một vấn đề xã hội nào đó mà
doanh nghiệp đó theo đuổi, phần lớn lợi nhuận thu được dùng để phục vụ các mục
tiêu xã hội và môi trường Thực tiễn phong phú của các DNXH cũng làm cho các
quan điểm về khái niệm về doanh nghiệp xã hội rất đa dạng, nhiều chiều Tuy nhiên,
dù ở cách tiếp cận nào thì DNXH cũng mang ba đặc điểm then chốt đó là: Có mục
tiêu, sứ mệnh xã hội được đặt lên hàng đầu, ngay từ khi thành lập; sử dụng các hoạt
động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng như một phương tiện để đạt mục tiêu xã hội
đó; Tái phân bổ phần lớn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trở lại cho tổ chức, cộng

đồng và mục tiêu xã hội
DNXH là một hiện tượng mới trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam Trong
giai đoạn trước đổi mới, Việt Nam cũng đã có một số mơ hình có thể được coi là các
DNXH, đó là các Hợp tác xã tạo việc làm cho người khuyết tật Sau năm 1986,
đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của Nhà nước đã thực sự tạo điều kiện phát
triển mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, các tổ chức từ thiện,
phát triển cộng đồng trong và ngoài nước Từ giữa những năm 1990, một số DNXH
thực thụ đã bắt đầu xuất hiện như trường Hoa Sữa, Nhà hàng KOTO tại Hà Nội, Mai
Handicrafts tại thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, nhận thức xã hội vẫn in đậm sự
tách bạch giữa hai loại hình doanh nghiệp vì lợi nhuận và các tổ chức khơng vì lợi
nhuận, do đó, các DNXH chỉ mới phát triển ở mức độ đơn lẻ, quy mô hạn chế Từ
năm 2010, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, dịng vốn tài trợ có
xu hướng giảm, khơng ít tổ chức phi lợi nhuận đã chuyển đổi thành DNXH để tìm

1


hướng đi mới cho mình Mặc dù ở thời điểm sau khi Luật Doanh nghiệp Việt Nam
mới được ban hành, chính thức được thơng qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, trên cả
nước đã có ít nhất 200 tổ chức [55] được cho là đang hoạt động đúng theo mô hình
DNXH1 và một trong các DNXH điển hình và tiên phong được biết đến rộng rãi là
Nhà hàng KOTO được thành lập ở Hà Nội từ năm 1999 Rõ ràng, nhiều tổ chức được
thành lập và hoạt động mà không biết bản thân mình là một DNXH, do đó số lượng
DNXH thực tế ở nước ta cịn có thể lớn hơn rất nhiều con số trên Bên cạnh đó, trước
khi Luật doanh nghiệp 2014 chính thức được thơng qua, Việt Nam chưa có một văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của DNXH cũng như chưa có một
loại hình doanh nghiệp hay một địa vị pháp lý dành riêng cho DNXH Các loại hình
tổ chức pháp lý của DNXH đến thời điểm hiện nay chia làm hai nhóm chính là Doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp; và Tổ chức xã hội (NGO) hoạt động theo
một số văn bản dưới luật điều chỉnh các loại hình tổ chức tự nguyện của nhân dân,

các hội, các quỹ từ thiện, quỹ xã hội, các tổ chức khoa học công nghệ [21] Vì thế,
việc lựa chọn đi theo một khung khổ pháp lý nhất định là Doanh nghiệp hoặc tổ chức
NGO cho một thực thể tổ chức mang đặc tính hỗn hợp của DNXH gây nên nhiều trở
ngại trong quá trình thành lập, vận hành và phát triển của các DNXH
Thực tế, ở Việt Nam, Nhà nước vẫn chưa đủ nguồn lực để giải quyết tất cả
những vấn đề xã hội Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2012 cho thấy, Việt Nam
đã đạt tiến độ đáng kể trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo Tỷ lệ đói nghèo giảm từ
60% xuống còn 20,7% trong vòng 20 năm [42] Tuy nhiên, với tỷ lệ 20,7% dân số đói
nghèo vẫn là một con số cao Sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung
bình, nhiều tổ chức phi chính phủ, các nguồn viện trợ ODA sẽ rút dần khỏi Việt Nam
Vì vậy, việc phát triển DNXH là rất cần thiết để tăng cường các nguồn lực cho giải
quyết các vấn đề xã hội
Một trong điểm mới của Luật doanh nghiệp năm 2014 là quy định về tiêu chí,
quyền và nghĩa vụ của DNXH Sau rất nhiều năm chờ đợi, cộng đồng DNXH ở Việt
Nam đã đứng trước một cơ hội mang tính chất bước ngoặt, lần đầu tiên DNXH được
công nhận về mặt pháp lý Đến Luật doanh nghiệp năm 2020, dù đã có những sửa đổi
nhưng các quy định dành cho DNXH chưa nhiều Về mặt nhận thức của xã hội, khái
niệm này vẫn còn mới mẻ, thậm chí gây tranh luận, nhất là khi bàn về ý nghĩa cũng
như các giải pháp về chính sách và pháp luật liên quan đến các thực thể kinh tế - xã
hội đặc thù này
Thuật ngữ tiếng Anh của DNXH là Social Enterprise (SE),

2


Sự phát triển của DNXH sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn
minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, vì vậy đây
khơng chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam Kinh nghiệm
thế giới chỉ ra rằng vai trò của nhà nước với hệ thống pháp luật và chính sách là
những điều kiện thiết yếu để các DNXH phát triển Với những lý do trên đây, tôi đã

lựa chọn đề tài “Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay” thực hiện
trong khuôn khổ của Luận án tiến sĩ luật học
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận án là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về DNXH và pháp luật về DNXH phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực thi pháp luật về DNXH ở Việt Nam hiện nay; và để từ đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật về DNXH ở Việt Nam trong thời gian tới
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả sẽ thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu cơ bản như sau :
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về DNXH và pháp luật về
doanh nghiệp xã hội;
- So sánh, phân tích, đánh giá kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc
gia: Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Thái Lan, Trung Quốc và Hàn Quốc về doanh nghiệp
xã hội;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về DNXH ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về DNXH ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNXH ở Việt
Nam trong thời gian tới
3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là DNXH, pháp luật về DNXH; kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật về DNXH ở một số quốc gia trên thế giới;
Thực tiễn pháp luật và áp dụng pháp luật về DNXH ở Việt Nam hiện nay
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả tập trung nghiên
cứu ở những vấn đề chung về DNXH và pháp luật về DNXH theo quan điểm chung
trên thế giới và ở Việt Nam; nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về DNXH về


3


khía cạnh địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các DNXH ở nước ta; nghiên cứu
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của DNXH ở một số
nước trên thế giới để đề xuất pháp luật điều chỉnh pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về DNXH cho Việt Nam
- Về không gian: Luận án giới hạn ở việc tìm hiểu thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về DNXH theo pháp luật của Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Thái
Lan, Trung Quốc và Hàn Quốc Hoa Kỳ và Vương Quốc Anh là những quốc gia phát
triển, tồn tại DNXH đầu tiên trên thế giới, đồng thời, đến nay cũng là những quốc gia
có hệ thống pháp lý phù hợp phát triển DNXH tương đối tốt Thái Lan là một trong
những nước đi tiên phong trên lĩnh vực phát triển DNXH trong khu vực Đông Nam
Á Cịn Trung Quốc là quốc gia có hệ thống chính trị và luật pháp tương đồng với
Việt Nam, đồng thời cũng là quốc gia có được mơ hình DNXH phát triển Hàn Quốc
là một trong các quốc gia châu Á công nhận DNXH và cho ra đời đầu tiên các quy
định pháp lý dành cho DNXH
- Về thời gian: DNXH đầu tiên xuất hiện manh nha ở Việt Nam là vào những năm
80, thời kỳ của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Vì vậy, luận án sẽ giới thiệu về
DNXH ở Việt Nam từ thời điểm này đến hiện nay, tuy nhiên, cũng chỉ tập trung phân
tích sâu pháp luật và áp dụng chính sách pháp luật về DNXH ở Việt Nam hiện nay
4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, Luận án còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, hệ thống, luật học so sánh, liên ngành và dự báo qua các tài liệu thứ cấp để làm
sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận án
Cơ sở lý luận của luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, đường
lối, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Để đạt
được kết quả nghiên cứu, làm rõ những vấn đề nghiên cứu đặt ra, luận án chú trọng
sử dụng các phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá, bình luận các quy định
của pháp luật cũng như thực tiễn về DNXH làm cơ sở cho những kết luận khoa học
Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá nhằm rút ra những kết luận
tổng quan, những quan điểm, các đề xuất, kiến nghị
+ Phương pháp đối chiếu - so sánh luật học được sử dụng khi phân tích, đánh
giá các quy định của pháp luật có liên quan đến DNXH của pháp luật Việt Nam với

4


pháp luật của một số nước trên thế giới; giữa thực tiễn áp dụng pháp luật về DNXH
của Việt Nam và của các quốc gia trên thế giới nhằm tìm ra các điểm chung, những
điểm khác biệt trong các quy định và thực tiễn áp dụng của pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật của các nước trên thế giới
+ Phương pháp phân tích logic quy phạm được sử dụng khi đánh giá thực trạng
pháp luật, xem xét về tính thống nhất, phát hiện mâu thuẫn trong nội dung quy định
pháp luật có liên quan về DNXH
+ Phương pháp thống kê được sử dụng để đánh giá các tài liệu thu thập được
một cách trung thực, khách quan nhằm đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về địa
vị pháp lý của DNXH, trên cơ sở đó, tác giả có những khuyến nghị về pháp luật điều
chỉnh DNXH
Trong quá trình viết luận án, các phương pháp này có thể sử dụng đan xen và
tiếp cận cả theo hướng đa ngành và liên ngành để thuận tiện cho việc phân tích, đánh
giá toàn bộ các vấn đề được đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của luận án
5 Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề có liên quan
đến luận án, làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, những vấn đề còn đang tiếp
tục nghiên cứu cũng như khoảng trống nghiên cứu mới cho luận án
- Luận án đã hệ thống hoá và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về DNXH và

pháp luật về DNXH theo các nội dung như Tổng quan về DNXH, pháp luật về
DNXH
- Luận án làm rõ thực trạng pháp luật về DNXH và thực tiễn thực hiện pháp luật
về DNXH ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra đánh giá, nhận xét về pháp luật và thực
hiện pháp luật về DNXH để làm căn cứ cho các giải pháp hoàn thiện
- Luận án sau khi làm rõ phương hướng hoàn thiện pháp luật về DNXH ở Việt
Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về DNXH ở Việt
Nam, những giải pháp là có cơ sở khoa học và có tính khả thi
6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu DNXH và pháp luật về DNXH, có thể khẳng định rằng
luận án được nghiên cứu sẽ góp phần vào việc làm phong phú thêm về lý luận và thực
tiễn pháp luật về DNXH, đồng thời góp phần hồn thiện pháp luật về DNXH ở Việt
Nam hiện nay
Những đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn,
có ý nghĩa đối với việc xây dựng và hoàn thiện về DNXH ở Việt Nam

5


Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn về DNXH và pháp luật về DNXH, làm tài liệu giảng dạy và học tập trong chuyên
ngành luật học, chuyên ngành quản trị kinh doanh và quản lý kinh tế Luận án cũng là
luận chứng khoa học cho việc xây dựng pháp luật về DNXH trong thời gian tới
7 Kết cấu của Luận án
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật liên quan đến vấn đề
này, Luận án dự kiến được kết cấu thành năm chương và tập trung vào những nội
dung chính cần nghiên cứu như sau:
Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Những vấn đề lý luận về Doanh nghiệp xã hội và pháp luật về doanh
nghiệp xã hội

Chương 3: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội và thực tiễn áp dụng
pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã
hội ở Việt Nam

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1 1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
DNXH là chủ thể được công nhận từ rất lâu ở các nước trên thế giới Vì thế, các
nghiên cứu chun sâu về mơ hình này cũng hình thành từ rất sớm, khoảng nửa cuối
những năm 90 Với những ưu điểm không thể nào bác bỏ và với những đóng góp cho
cộng đồng, mơ hình DNXH đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nổi
tiếng, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu sau đây:
1 1 1 Tình hình nghiên cứu liên quan đến khái niệm, đặc điểm, vai trò của Doanh
nghiệp xã hội
- Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngồi:
+ Khi nghiên cứu các tài liệu nước ngồi về DNXH, khơng thể khơng nhắc đến
nghiên cứu “The Meaning of Social Entrepreneurship” của Gregory Dees được viết
lần đầu năm 1998, bản chỉnh sửa gần đây nhất vào năm 2011 nói về Ý nghĩa của tinh
thần doanh nhân xã hội [103] [104] Trong nghiên cứu này, ơng đã chỉ ra rằng, những nỗ
lực của chính phủ và các tổ chức từ thiện đã không đạt được những gì mà xã hội kỳ
vọng; các trung tâm xã hội cũng không chứng tỏ được hiệu quả Ngược lại, các doanh
nhân xã hội ngày càng chứng tỏ vai trị to lớn trong việc phát triển các mơ hình mới cho
một thế kỷ mới Khái niệm “tinh thần doanh nhân xã hội” (TTDNXH - social
entrepreneurship) có thể mới mẻ, nhưng bản thân hiện tượng này thì khơng Các doanh
nhân xã hội đã ln hiện diện, dù chúng ta có thể gọi họ bằng cái tên này hoặc cái tên
khác Tuy nhiên, việc đưa ra một khái niệm mới là rất quan trọng, vì ngồi các hoạt

động phi lợi nhuận mang tính sáng tạo, TTDNXH có thể bao gồm các dự án kinh doanh
xã hội và các tổ chức lai trong đó trộn lẫn các yếu tố phi lợi nhuận và vị lợi nhuận Để
mở rộng sân chơi dành cho TTDNXH, chúng ta cần đưa ra một cách định nghĩa phù hợp
Từ cách dẫn dắt đó, G Dees đã đưa ra các lý thuyết về tinh thần doanh nhân Cụ thể,
theo quan điểm của một vài học giả nổi tiếng trước đó cho rằng “doanh nhân” khơng
nhất thiết là những người tạo ra sự thay đổi, tuy nhiên họ phải ln ln “tìm kiếm sự
thay đổi, đáp ứng và khai thác nó như một cơ hội” Khái niệm "cơ hội" đã trở thành trụ
cột của nhiều định nghĩa về TTKD hiện nay Doanh nhân là những người có thiên hướng
nhìn nhận sự thay đổi là cơ hội chứ không phải là rắc rối Đồng thời, đối với một doanh
nhân, khởi nghiệp là khơng nhất thiết và cũng khơng đủ, có nghĩa là khơng phải mọi
doanh nghiệp đều có thể đại diện cho TTDN Drucker cũng chỉ rõ rằng hoạt động kinh
doanh được nói đến ở đây khơng địi hỏi động cơ lợi nhuận

7


Tiếp theo, G Dees cũng so sánh sự khác nhau giữa doanh nhân xã hội và doanh
nhân thông thường Theo đó, nếu doanh nhân thơng thường với mục tiêu là tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, từ đó tìm kiếm và tối đa lợi nhuận thu về; Thì đối với các doanh
nhân xã hội, sứ mệnh xã hội là rõ ràng và thống trị Sứ mệnh xã hội ảnh hưởng đến cách
các doanh nhân xã hội nhận thức và đánh giá các cơ hội Tiêu chí trung tâm ở đây là
những tác động liên quan đến sứ mệnh đó, chứ khơng phải là việc tạo ra của cải Với các
doanh nhân vị lợi nhuận, của cải là một cách để đo lường giá trị được tạo ra; đó là bởi họ
phải tuân theo quy luật thị trường Nếu họ không thuyên chuyển các nguồn lực để sử
dụng một cách có hiệu quả kinh tế, họ sẽ gặp phải nguy cơ bị loại khỏi vịng xốy kinh
doanh Ví dụ, nếu một doanh nhân không thể thuyết phục được đủ số lượng khách hàng
trả một mức giá hợp lý để tạo ra lợi nhuận, thì đây là một dấu hiệu cho thấy rằng khơng
có đủ giá trị được tạo ra để biện minh cho việc sử dụng các nguồn lực này Tuy nhiên, thị
trường không tạo thuận lợi cho các doanh nhân xã hội Trong trường hợp cụ thể, thị
trường không làm tốt công tác đánh giá các cải thiện xã hội, hàng hố cơng cộng và các

thiệt hại cùng lợi ích cho những người khơng có khả năng chi trả Những yếu tố này
thường rất cần thiết cho việc kinh doanh xã hội, và đó cũng chính là điều làm cho một
doanh nhân trở thành một doanh nhân xã hội Thực tế, rất khó xác định liệu một doanh
nhân xã hội đang tạo ra giá trị xã hội đầy đủ để biện minh cho các nguồn lực được sử
dụng trong việc tạo ra giá trị đó Sự duy trì hoặc tăng trưởng của một DNXH chỉ là một
bằng chứng rất yếu ớt về sự hiệu quả trong việc cải thiện các điều kiện xã hội Cuối
cùng, ông tổng kết để đưa ra khái niệm về tinh thần doanh nhân xã hội, trong đó hội tụ từ
rất nhiều các quan điểm của các học giả nổi tiếng trước đó Cụ thể, ông đưa ra một khái
niệm tinh thần doanh nhân xã hội bao gồm các tiêu chí đó là: Doanh nhân xã hội đóng
vai trị nhân tố đổi mới trong các lĩnh vực xã hội, bằng cách: thông qua một sứ mệnh để
tạo ra và duy trì giá trị xã hội; nhận thức và không ngừng theo đuổi các cơ hội mới để
phục vụ cho sứ mệnh đó; tham gia vào các q trình đổi mới liên tục, thích nghi và rút
ra bài học; hoạt động mạnh mẽ và không bị giới hạn vào nguồn lực sẵn có; và thể hiện
trách nhiệm giải trình cao hơn đối với thành viên và đối với kết quả đầu ra
The meaning of social entrepreneurship của Gregory Dees được coi là một trong
những nghiên cứu đầu tiên trên thế giới tách bạch DNXH ra khỏi các mơ hình doanh
nghiệp truyền thống khác Cũng từ đó, ơng xuất bản thêm hai cuốn sách và rất nhiều bài
báo khác về chủ đề này – là những cơng trình nền móng có đóng góp to lớn đối với việc
tiếp cận các vấn đề lý luận về DNXH ngày nay [104], trong đó phải kể đến mơ hình phổ
DNXH sẽ được tác giả sử dụng nghiên cứu, đề cập trong luận án (phần lý luận)

8


+ Trong cuốn sách nổi tiếng “The power of unreasonable people” của hai tác
giả John Elkington và Pamela Hartigan năm 2008, giáo sư trường Đại học Cambridge
Publishing, Vương quốc Anh [101], đã có bản dịch tiếng Việt “Sức mạnh của những
người phi lý” [30] đã miêu tả sự trỗi dậy của một thế hệ những người tạo ra sự thay đổi,
những người không chấp nhận thế giới như trong thực tại, những người biết họ có thể
làm được điều gì, và họ bắt tay vào làm việc Trong cuốn sách này, các tác giả đã đưa ra

rất nhiều các câu chuyện dẫn chứng về lịch sử hình thành cũng như con đường mà phong
trào DNXH được thừa nhận ở các nước phát triển châu Âu như Đức, Pháp Đặc biệt,
trong nghiên cứu này, dễ dàng nhận thấy yếu tố then chốt khiến phong trào DNXH được
thúc đẩy lan rộng một cách nhanh chóng trên thế giới đó là việc dịch chuyển các chức
năng xã hội từ phía chủ thể cơng sang các chủ thể tư và các chủ thể thứ ba (còn được biết
đến là các chủ thể trong hệ sinh thái xã hội dân sự)
+ Nghiên cứu “How to change the world: Social entrepreneurs and the power
of New Ideas”, Oxford University Press, 2007 của tác giả David Bornstein [88] nhận
định rằng DNXH sẽ là những mơ hình giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội đồng thời
làm thay đổi bộ mặt thế kỷ 21 Trong đó, tác phẩm cũng thể hiện quan điểm cá nhân về
khái niệm DNXH đã mở rộng và mở ra như thế nào trong vài năm gần đây, gồm quan hệ
đối tác từ thiện Gates-Buffetts, sự gia tăng của Google và sự lan rộng của các tổ chức
kinh tế có hoạt động từ thiện thường xuyên Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích
phục vụ cho hoạt động so sánh các quan điểm về DNXH
+ Luận án cũng không thể không tham khảo nghiên cứu “The role of social
enterprise and hybrid organizations” của học giả Ofer Eldar đến từ trường đại học
Yale law school, Mỹ [122], nghiên cứu này đã đưa ra được một cách định nghĩa rất cẩn
trọng và khoa học cho khái niệm DNXH Trong nghiên cứu này, Elder đã tiếp cận khái
niệm DNXH một cách thuyết phục và có hệ thống bằng cách sử dụng phương pháp định
nghĩa qua loại gần nhất và khác/ biệt chủng Ông chọn khái niệm xuất phát là doanh
nghiệp thương mại, từ đó định nghĩa tổ chức lai và cuối cùng chạm đến khái niệm
DNXH Nghiên cứu cũng chỉ ra cơ hội và thách thức của DNXH, đồng thời đưa ra các
đề xuất phục vụ các DNXH Hoa Kỳ trong việc quản trị doanh nghiệp và lựa chọn mơ
hình pháp lý phù hợp theo pháp luật hiện hành
+ Nghiên cứu “The role of social enterprise” của 02 học giả Robert Katz và
Antony Page từ đại học Ấn Độ [131] phân tích về vai trị của các loại hình DNXH Theo
đó, nghiên cứu đưa ra ba phần rõ ràng Thứ nhất là chỉ rõ vai trò của các tổ chức phi lợi
nhuận và các DNXH đối với pháp luật và nền kinh tế Theo đó; Ở các nước phát triển, thị

9



trường hoạt động khá tốt trong việc phân phối hàng tiêu dùng (chẳng hạn như TV, điện
thoại) cho hầu hết mọi người tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân tối thiểu Tuy
nhiên, thị trường có ít nhất hai sai sót nghiêm trọng, khiến cho nó khơng phải cơng cụ
hiệu quả nhằm cải thiện phúc lợi xã hội và hạnh phúc của con người nói chung (một là,
có thể dự đốn được là thị trường sẽ khơng cung cấp đầy đủ các hàng hóa cơng cộng; hai
là các thị trường tự do thường khó giải quyết sự bất bình đẳng về tài sản và các nguồn
lực khác giữa những người khác nhau) Trong bối cảnh đó, vai trị của các tổ chức phi lợi
nhuận là rất tiềm năng, ví dụ, đây có thể là một cổng giao lưu cho các doanh nhân xã hội
và như là công cụ thay đổi xã hội - cụ thể là các DNXH phi lợi nhuận Các tổ chức phi
lợi nhuận có thể vận động sự tối ưu hóa phúc lợi xã hội và giảm bất bình đẳng về kinh tế
Thứ hai, nghiên cứu phân tích rõ vai trị của doanh nghiệp vị lợi nhuận Thứ ba, nghiên
cứu phân biệt giữa hai cách tiếp cận với giá trị đặc thù của DNXH vị lợi nhuận, theo đó,
mỗi cách tiếp cận sẽ tạo ra thay đổi trong luật về DNXH theo một hướng khác nhau
- Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:
+ Báo cáo quy mô nhất về DNXH tại Việt Nam mà được công bố rộng rãi là Báo
cáo Nghiên cứu “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – Khái niệm, bối cảnh và chính
sách” năm 2012 được thực hiện bởi Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cùng sự
hợp tác của Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng
(CSIP) [34] Trong nghiên cứu này, các tác giả tập trung phân tích và đưa ra khái niệm
về DNXH, trong đó có đưa ra các quan điểm khác nhau về chủ thể này; đồng thời tìm
hiểu lịch sử hình thành và phát triển của các DNXH ở Việt Nam theo từng giai đoạn
Ngoài ra, các tác giả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế từ Anh, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thái
Lan, Singapore; từ đó phân tích thực trạng DNXH ở Việt Nam từ đó đưa ra các kiến nghị
về cơ chế, chính sách để phát triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam Đặc biệt, nghiên
cứu chỉ ra rằng: “Việt Nam tuy bước qua một ngưỡng phát triển mới, nhưng vẫn nằm
trong nhóm nước đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp Đất nước vẫn cịn nghèo,
trong khi đó q trình tăng trưởng kinh tế lại đặt ra rất nhiều vấn đề xã hội – môi trường
mới nảy sinh Ước tính có đến 24 triệu người (28%) thuộc diện đối tượng cần hỗ trợ, bao

gồm: hộ nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, người mãn hạn tù, người
bị nhiễm HIV/AIDS, người già neo đơn Bên cạnh đó là hàng loạt các vấn đề khác như
bạo lực xã hội, lối sống không lành mạnh, stress của dân đô thị, giáo dục và y tế đều ở
tình trạng quá tải, bất hợp lý, thực phẩm an tồn, xử lý rác thải, ơ nhiễm khơng khí, tiết
kiệm năng lượng, bảo tồn văn hóa… Rõ ràng đã đến lúc để Chính phủ cần coi các
DNXH như những đối tác chia sẻ gánh nặng, giúp Chính phủ thực hiện các mục tiêu xã

10


hội Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo lập khung khổ pháp lý, chính thức cơng
nhận và đề ra các chính sách cụ thể khuyến khích, hỗ trợ các DNXH, cũng như thể chế
thực hiện các chính sách đó là vơ cùng cần thiết” Tuy nhiên, tài liệu này khơng thực sự
hệ thống hóa và đào sâu khía cạnh pháp ý cũng như áp dụng pháp luật về DNXH, hơn
nữa vì tài liệu được nghiên cứu và xuất bản năm 2012, nên những thơng tin mà nó cung
cấp đã khơng cịn cập nhật, nhất là trong bối cảnh môi trường DNXH Việt Nam hiện tại
và đặc biệt là pháp luật về DNXH đã thay đổi rất nhiều trong vài năm qua
+ Nghiên cứu: “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – cần một mơ hình để phát
triển” của tác giả Vũ Phương Đơng đăng trên tạp chí Luật học số tháng 9 năm 2012 [28]
đã giới thiệu một số quan niệm về DNXH trên thế giới và kinh nghiệm xây dựng mơ
hình DNXH tại Vương quốc Anh cũng như quan niệm về DNXH tại Việt Nam Từ đó,
tác giả góp ý về hồn thiện khung pháp lý cho DNXH ở Việt Nam từ việc học tập mơ
hình pháp lý từ Vương quốc Anh, như việc xây dựng khái niệm mơ hình DNXH; hay
góp ý về việc sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2005 như việc ghi nhận về khái niệm
DNXH, sau đó hướng dẫn chi tiết bằng Nghị định về DNXH;
1 1 2 Tình hình nghiên cứu về pháp luật về doanh nghiệp xã hội, hình thức pháp lý,
nội dung quan hệ pháp luật doanh nghiệp xã hội
- Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngồi:
+ Nghiên cứu “Law and Choice of entity on the social enterprise frontier” của
Thomas Kelly [140], giáo sư trường đại học bắc Carolina Chapel Hill, và nghiên cứu đã

chứng minh vì sao cần tìm ra một hệ thống pháp luật hay vấn đề lựa chọn thể chế trước
ngưỡng DNXH Bởi lẽ, các học giả mặc dù có các quan điểm khác nhau về việc có xem
sự phát triển về doanh nghiệp xã hội có phải là một bước tiến mới hay không nhưng họ
lại đồng thuận rằng vai trị của DNXH có tính lai ngày càng tăng Theo họ, các khái niệm
về xã hội đang vượt ra khỏi lề lối truyền thống- từ ba lĩnh vực kinh doanh, phi lợi nhuận
và chính phủ, đang xuất hiện thêm một lĩnh vực thứ tư, bao gồm sự pha trộn các yếu tố
kinh doanh và phi lợi nhuận Tại sao sự xuất hiện của ngành xã hội mới này lại giành
được sự quan tâm đặc biệt của luật sư? Đó là bởi vì các doanh nhân thế hệ mới tuyên bố
rằng họ đang sống trong một ngưỡng cửa xã hội mới, nơi luật pháp đã lỗi thời và những
thực thể pháp lý cũ đã khơng cịn phù hợp đối với kế hoạch cải thiện xã hội của họ Với
tốc độ phát triển đáng ngạc nhiên, họ đòi hỏi luật pháp và các luật sư phải bắt kịp mình
Từ đó, Thomas chứng minh sự cần thiết cần có khung pháp lý dành cho loại hình doanh
nghiệp này từ các thách thức mà chính các DNXH gặp phải trong quá trình hoạt động, cụ
thể như: vấn đề gọi vốn; Thách thức trong cơ chế đóng băng tài sản đối trong dòng chảy

11


DNXH; thách thức trong xây dựng thương hiệu; Thách thức trong việc thỏa mãn các cổ
đông vị lợi nhuận; và sự không rõ ràng về mức thuế đối với các tổ chức lai Từ đó, ơng
cũng đề xuất một số hình thức pháp lý để hỗ trợ cho DNXH
+ Hai nghiên cứu nổi tiếng khác tác giả cũng sử dụng tham khảo trong luận án
đó là: “Theorizing forms for social enterprise” [86] và “Regulating social
enterprise” của học giả Dana Brakman Reiser [87], nói về các hình thức lý thuyết và
các quy định pháp lý dành cho DNXH Theo đó, các tác giả cho rằng việc đưa ra hình
thức chuyên biệt dành cho DNXH thì khơng nhất thiết có nghĩa là pháp luật tạo nên
một pháp nhân hoàn toàn mới, mà có thể từ các cấu trúc sẵn có (tổ chức phi lợi nhuận
hoặc doanh nghiệp vị lợi nhuận) phát triển thêm các chức năng riêng Đặc biệt, pháp
luật phải cung cấp phương tiện đảm bảo rằng các mục tiêu xã hội cần nêu ra khi
DNXH đăng ký địa vị pháp lý phải đảm bảo vượt qua mục đích kinh doanh của họ

Và để áp dụng yêu cầu này lên các nhà lãnh đạo và quản lý một DNXH, pháp luật cần
thiết lập một cấu trúc thực hiện các nghĩa vụ ủy thác nhằm ưu tiên cho lợi ích xã hội
Thực chất, các cấu trúc pháp lý này là một dạng công cụ dưới dạng hợp đồng để các
DNXH thực hiện nghĩa vụ cam kết về phúc lợi xã hội
+ Nghiên cứu “Social enterprise in South Korea: History and Diversity, social
enterprise journal”, Vol 7 của tác giả Eric Bidet và Eum Hyung-sik [94] đã cho thấy lịch
sử phát triển và sự đa dạng các mơ hình DNXH tại Hàn Quốc Trong đó đã nghiên cứu
chi tiết các khía cạnh pháp lý về DNXH trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới các hình thức
tồn tại của DNXH được ghi nhận trong đạo luật Social Enterprise Promotion Act in 2006
(Đạo luật xúc tiến DNXH năm 2006 Bài viết là tài liệu tham khảo có giá trị phục vụ cho
hoạt động học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về DNXH
- Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:
+ Báo cáo nghiên cứu khoa học cấp trường: “Pháp luật về Doanh nghiệp xã hội
và thực tiễn thi hành tại Việt Nam” của TS Nguyễn Thị Yến, 2017, Đại học Luật Hà
Nội [64], là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về DNXH dưới góc độ pháp
lý sau khi Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực thi hành Trong cơng trình này, các tác
giả đã làm rõ bản chất pháp lý, những quy định đặc thù điều chỉnh loại hình doanh
nghiệp mới này, phân tích những bất cập, vướng mắc của các quy định pháp luật khi áp
dụng vào thực tiễn
+ Báo cáo nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu so sánh chế định doanh nghiệp xã
hội trong hệ thống pháp luật của một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam” của TS Nguyễn Toàn Thắng, 2017, đại học Luật Hà Nội [48], là công

12


trinh nghiên cứu về DNXH dưới góc độ luật học so sánh, nhằm nghiên cứu kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật đối với DNXH ở một số nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện chế định DNXH
+ Bài viết “Đánh giá khả năng thực thi pháp luật hiện hành về doanh nghiệp

xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Dung, tạp chí Luật học, số 1/2017, tr 12-20
[25] đã phân tích về tư cách pháp lý của DNXH trước và sau khi có Luật doanh nghiệp
2014, từ đó đánh giá khả năng thực thi hiệu quả pháp luật về DNXH ở Việt Nam
+ Bài viết: “Pháp luật về doanh nghiệp xã hội – bất cập và kiến nghị hoàn
thiện”, của tác giả Nguyễn Thị Yến, Trần Thị Bảo Ánh, đăng trên tạp chí Luật học số
4/2017, tr 84-91 [66] đã có các tổng kết những bất cập tiêu biểu của pháp luật hiện hành
về DNXH, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về DNXH
+ Bài viết: “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp xã
hội” của tác giả Vũ Thị Hịa Như đăng trên tạp chí Luật học số tháng 3/2015 [43]
Bài viết đã khái quát về sự phát triển của DNXH và pháp luật về DNXH ở Việt Nam
Từ đó, đưa ra quan điểm về phương hướng hoàn thiện pháp về DNXH ở Việt Nam
như: cần tiếp tục làm rõ các tiêu chí nhận diện DNXH; Xây dựng lộ trình mở rộng
phạm vi hoạt động của DNXH sang một số ngành nghề Nhà nước giữ vị trí độc
quyền; Quy định chi tiết về chính sách hỗ trợ và ưu đãi phát triển của Nhà nước đối
với DNXH;
+ Bài viết: “Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” của
tác giả Phan Thị Thanh Thủy đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6 năm 2015
[49] Trong bài viết này, tác giả cũng phân tích về khái niệm của DNXH; đưa ra các
đặc trưng pháp lý, quyền và nghĩa vụ của DNXH, ngoài ra tác giả cịn phân biệt
DNXH với doanh nghiệp cơng ích và doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội Từ
đó, tác giả cũng đặt ra một số vấn đề với DNXH ở VIệt Nam hiện nay, chẳng hạn như
về hình thức pháp lý và phân loại DNXH, vấn để huy động và quản lý vốn đến từ
nguồn tài trợ nước ngồi, vấn đề thực hiện các chính sách ưu đãi đối với DNXH, và
cuối cùng là xây dựng khung pháp lý và thiết lập hệ thống thiết chế khuyến khích
phát triển DNXH;
+ Bài viết: “Doanh nghiệp xã hội và giải pháp phát triển doanh nghiệp xã
hội tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Yến đăng trên tạp chí Luật học số 11/2015
[65] Bài viết cho người đọc một số nhận thức chung về DNXH từ việc đưa ra các
quan điểm về khái niệm đến phân tích cụ thể các đặc điểm của DNXH Từ đó, tác giả
cũng đưa ra một số giải pháp phát triển DNXH tại Việt Nam;


13


1 1 3 Một số nghiên cứu khác có liên quan đến luận án:
Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi: tác giả cũng tham khảo các bài viết, bài bình
luận liên quan khác để hỗ trợ cho việc nghiên cứu hồn thành luận án Có thể kể đến các
bài viết như: Toward an improved legal form for social enterprise [112] của tác giả
Keren G Raz trong tạp chí Review of law and social change; The social enterprise law
market [106] của tác giả J Haskell Murray; Purpose with Profit: Governance,
Enforcement, Capital-raising and capital-locking in low-profit limited liability
companies [107] của tác giả Haskell Murray và EdwardI Hwang trong tạp chí University
of Miami Law Review; Taxing social enterprise [116] của tác giả Loyd Hitoshi Mayer
and Josep R Ganah trong tạp chí Standford law review; Fostering social enterprise: a
historical and international alnalysis [80] của học giả Mathew WF Doeringer; Social
enterpreneurship: new models of sustainable social change [116] của tác giả Nicholls
Alex… Và rất nhiều các bài viết, nghiên cứu có liên quan quý giá khác, hỗ trợ tác giả
nghiên cứu luận án của mình
Ngồi ra, phải kể đến các báo cáo, khảo sát về thực trạng phát triển của DNXH:
DNXH đã dành được sự quan tâm lớn của những chương trình phát triển cộng
đồng được tiến hành bởi các chính phủ và cả các tổ chức phi chính phủ có uy tín trên
tồn thế giới Nhận được khả năng đem lại những biến chuyển to lớn đối với xã hội, môi
trường của DNXH, các chương trình này đã thực hiện những nghiên cứu với quy mơ lớn,
đưa ra được cái nhìn tồn cảnh về DNXH ở rất nhiều phương diện, như bối cảnh kinh tế
- xã hội, các vấn đề pháp lý, chính sách phát triển, tốc độ và xu hướng phát triển, tiềm
năng trong tương lai, v v
+ Trên quy mơ tồn cầu, phải kể đến nghiên cứu “Think Global – Trade
Social” của British Council [77] đã đưa được rất nhiều số liệu q giá có tính chất so
sánh giữa các quốc gia về tốc độ và xu hướng phát triển DNXH Hay cơng trình
“Mapping social enterprise: do social enterprise actors draw straight lines or

circles?” của Seanor P Bull, M and Ridley-Duff [134] được đăng trong kỷ yếu hội
thảo Nghiên cứu về DNXH Tồn cầu lần thứ tư, trong đó, các nhà nghiên cứu cũng
trình bày rất nhiều khảo sát và số liệu thực tế về quan điểm của những người trong
cuộc Đặc biệt ở các báo cáo này, các chuyên gia cũng thể hiện sự kêu gọi minh bạch
hơn từ các nhà đầu tư, hay đòi hỏi một cách tiếp cận trực diện hơn đối với mảng đầu
tư xã hội, đặt trọng tâm vào các tổ chức từ thiện và DNXH Hơn nữa, trong các báo
cáo cũng liệt kê về các chính sách cụ thể mà một số nước có hệ thống DNXH phát
triển từ các chính sách phát triển nguồn cung DNXH như việc thiết lập các quỹ hỗ trợ

14


tài chính: Quỹ xây dựng cộng đồng (Community Builders Fund), Quỹ Đầu tư và Chuẩn
bị hợp đồng (Investment and Contract Readiness Fund); Hay các chính sách xúc tiến
nguồn cầu DNXH; Và các chính sách phát triển trung gian cung-cầu
+ Ngồi ra, cũng có thể kể đến các nghiên cứu, báo cáo khác như: Supporting the
Not-for-Profit Sector: The Government’s Review of Charitable and social enterprise [74]
của các nhà nghiên cứu A Dunn and C A Riley; Representing social enterprise [75]
của tác giả Alicia E Plerhoples; Social enterprise: who need it? [76] của tác giả Brian
Galle; Social enterprise and social innovation:strategies for the next ten years [81] của
tác giả Charles Leadbeater; How to change the world: Social entrepreneurs and the
power of new ideas [88] của tác giả David Bornstein; The social enterprise sector: A
conceptual Framework [123]; Social enterprise in Asia: Context and Opportunities
[125]; Social enterprise: A new model for poverty reduction and employment generation
[120];… Các nghiên cứu, báo cáo khảo sát này cũng đều là nguồn tư liệu quý giá hỗ trợ
tác giả trong q trình hồn thành luận án
- Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:
+ Trong quá trình tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến luận án, tác giả cũng tìm
hiểu thêm được một số tài liệu khác hỗ trợ như: bài phát biểu Doanh nghiệp xã hội dần
tìm được chỗ đứng của tác giả Khánh An, đăng trên báo Đầu tư [19]; Chính danh cho

Doanh nghiệp xã hội của tác giả Nguyễn Đình Cung, đăng trên báo đầu tư [22]; Bàn
thêm về doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 của tác giả Bùi Huyền
đăng tại website moj gov vn [37]; Luật hóa để doanh nghiệp xã hội phát triển của tác giả
Thanh Thủy đăng trên báo điện tử [52]; Cần khuyến khích phát triển doanh nghiệp xã
hội của tác giả Trần Tiến đăng trên báo hải quan [53]; Cẩm nang pháp lý cho doanh
nhân và doanh nghiệp xã hội của trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng – Investconsults
[23]; Gọi vốn cộng đồng – Hình thức mới mẻ ở Việt Nam của tác giả Hải Thuận đăng
trên báo doanh nhân sài gòn; Đề xuất miễn thuế để phát triển loại hình doanh nghiệp xã
hội của tác giả Tuệ Văn đăng trên báo Chính phủ Việt Nam…
Bên cạnh đó, cịn có các cơng trình nghiên cứu khác liên quan đến DNXH, dù
không hoặc rất ít đề cập đến vấn đề pháp lý nhưng đã làm rõ khía cạnh tổ chức quản lý
của DNXH trên thế giới cũng như DNXH tại Việt Nam, hơn thế cịn cung cấp những
trường hợp nghiên cứu có giá trị tham khảo cao Chẳng hạn như: Thực trạng về vấn đề
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tham luận tại hội thảo quốc tế
Kinh doanh và quyền con người, tháng 6/2013 của tác giả Bùi Nguyên Khánh [38];…

15


1 1 4 Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Thông qua việc tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến DNXH và pháp
luật về DNXH ở nước ngoài cũng như trong nước như đã đề cập ở trên, tác giả có một số
nhận xét, đánh giá về các kết quả nghiên cứu như sau:
Những kết quả trong nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển:
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu mà tác giả thu thập cịn khiêm tốn về mặt số
lượng nhưng tổng quan tình hình nghiên cứu về DNXH và các vấn đề pháp lý liên quan
đến DNXH cho phép đi đến những kết luận mang tính khái quát trạng thái nghiên cứu về
DNXH và pháp luật về DNXH và xu hướng nghiên cứu về pháp luật về DNXH hiện
nay Cụ thể:
- Các cơng trình nghiên cứu mà tác giả được tiếp cận mặc dù có những cách diễn

đạt khác nhau nhưng đều đề cập, nhận diện và phân tích những vấn đề lý luận về DNXH
như khái niệm, đặc điểm, bản chất, vai trò, nhận diện DNXH, lịch sử hình thành và phát
triển của DNXH … Những vấn đề lý luận chung về DNXH đã được đặt ra và nghiên cứu
ở một phạm vi nhất định Cụ thể:
- Các bài viết, cơng trình nghiên cứu đã có những quan niệm riêng về khái niệm
Tinh thần doanh nhân xã hội và DNXH DNXH ra đời xuất phát chính từ tinh thần doanh
nhân xã hội; phân biệt được sự khác nhau giữa tinh thần doanh nhân xã hội và doanh
nhân thơng thường; Từ đó nêu bật được những lợi ích, ưu điểm của các doanh nhân xã
hội; và khẳng định các doanh nhân xã hội chính là những người đóng góp vai trị to lớn
trong đổi mới xã hội, cải tiến xã hội trước thế kỷ mới, bằng cách: thông qua một sứ
mệnh để tạo ra và duy trì giá trị xã hội; nhận thức và không ngừng theo đuổi các cơ hội
mới để phục vụ cho sứ mệnh đó; tham gia vào các q trình đổi mới liên tục, thích nghi
và rút ra bài học; hoạt động mạnh mẽ và không bị giới hạn vào nguồn lực sẵn có; và thể
hiện trách nhiệm giải trình cao hơn đối với thành viên và đối với kết quả đầu ra
- Các nghiên cứu cũng đưa ra được một số quan điểm khác nhau về việc quan niệm
thế nào là DNXH, trong đó các nhà nghiên cứu cũng rất cẩn trọng khi đưa ra khái niệm
về DNXH Đặc biệt đều nguồn tư liệu thực sự quý giá cho tác giả luận án khi nghiên cứu
tìm hiểu khái niệm DNXH Các nghiên cứu đã đưa ra được cách định nghĩa rất cẩn trọng
và khoa học cho khái niệm DNXH, bằng việc chọn khái niệm xuất phát là doanh nghiệp
thương mại, từ đó định nghĩa tổ chức lai và cuối cùng chạm đến khái niệm DNXH Dù
có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các quan điểm đều cho thấy họ nhấn
mạnh mối quan hệ phương tiện cứu cánh giữa chiến lược/giải pháp kinh doanh và mục
tiêu/giải pháp xã hội trong mơ hình DNXH

16


- Các nghiên cứu còn chỉ ra được những vai trò/chức năng của DNXH đối với nền
kinh tế xã hội Nhìn chung các chức năng mà các DNXH cũng như các tổ chức phi lợi
nhuận có thể đảm đương trong nền kinh tế thị trường bao gồm: Thứ nhất, giảm thiểu chi

phí vận hành phát sinh trong trường hợp có sự bất đối xứng về thông tin nghiêm trọng
giữa nhà cung cấp hàng hóa/dịch vụ và khách hàng, và các chi phí này khơng thể được
giải quyết thỏa đáng bằng cơ chế hợp đồng thông thường Thứ hai, Cung cấp hàng hóa,
dịch vụ bao gồm cả yếu tố cơng và tư, tức là hàng hóa tư nhân để bên mua tiêu dùng cá
nhân, và có tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến các bên khác nhau mà không được phản
ánh trong chi phí của hàng hóa, dịch vụ liên quan
- Các nghiên cứu đã giới thiệu cách nhận diện DNXH thơng qua việc phân chia
một số loại hình DNXH bao gồm: DNXH phi lợi nhuận, DNXH khơng vì lợi nhuận và
Doanh nghiệp có định hướng xã hội, có lợi nhuận
- Các bài viết, cơng trình nghiên cứu cũng đã giới thiệu nguồn gốc, quá trình hình
thành và phát triển của DNXH Các nghiên cứu chỉ ra rằng, châu Âu và Hoa Kỳ là nơi
xuất hiện đầu tiên các DNXH Tại châu Âu, DNXH đầu tiên được ghi nhận xuất hiện
vào năm 1665 ở London, Vương quốc Anh Tiếp sau đó là các DNXH xuất hiện ở Hoa
Kỳ và lan rộng ra các khu vực trên thế giới như Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La tinh,
Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á Đây thực sự là nguồn tài liệu q giá giúp
tác giả có thể tìm hiểu rõ hơn trong phần lịch sử hình thành và phát triển DNXH; từ đó
đưa ra được khái niệm riêng về DNXH trong luận án của mình
- Các bài viết, nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức mà DNXH có thể gặp phải
trong nền kinh tế, như: vấn đề gọi vốn; Thách thức trong cơ chế đóng băng tài sản đối
trong dòng chảy DNXH; thách thức trong xây dựng thương hiệu; Thách thức trong việc
thỏa mãn các cổ đông vị lợi nhuận; và sự không rõ ràng về mức thuế đối với các tổ chức
lai Từ đó, học giả đưa ra gợi ý về việc hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ cho các DNXH
Đây thực sự là tài liệu hữu ích hỗ trợ tác giả luận án khi Đề xuất Giải pháp hoàn thiện
pháp lý cho DNXH ở Việt Nam
- Các bài viết, nghiên cứu cũng đề cập đến các nội dung chủ yếu của pháp luật
DNXH thực trạng của nó ở Việt Nam hiện nay; rút ra được những ưu điểm và những tồn
tại, hạn chế của pháp luật về DNXH, nêu ra được những nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó Từ đó đưa ra được những kiến nghị góp phần hồn thiện chế định pháp lý
dành cho DNXH Tác giả luận án sẽ dựa vào những nghiên cứu này để hoàn thành phần
thực trạng của pháp luật về DNXH ở Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị


17


×