Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

PHÁP LUẬT về ĐĂNG kí THÀNH lập DOANH NGHIỆP THỰC TIỄN tại THÀNH PHỐ đà NẴNG (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.17 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA LUẬT
~~~~~~*~~~~~~

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHÓA 24
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÍ THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP - THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG

NGUYỄN THẢO VI

ĐÀ NẴNG – 3/2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA LUẬT
~~~~~~*~~~~~~

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÍ THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP - THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG

Giáo viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thị Thanh Tâm
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thảo Vi

Lớp


: K24LKT2

Mã số sinh viên

: 24208607622

ĐÀ NẴNG – 3/2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan: Khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
thơng tin là hồn tồn trung thực. Các tài liệu trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tác giả.


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài nghiên cứu khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc đến quý thầy cô giảng viên khoa luật – trường Đại học Duy Tân đã giảng dạy tận tình,
giúp đỡ và hỗ trợ em rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu, trang bị cho em vốn kiến
thức để làm nền tảng cho em vận dụng trong q trình nghiên cứu khóa luận cũng như chuẩn
bị hành trang cho em khi bước vào môi trường làm việc.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến ThS. Phạm Thị
Thanh Tâm – người cô giáo đầy nhiệt huyết đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho
em với những hướng đi, định hướng đúng đắn, giúp đỡ em về kiến thức, tài liệu cũng như
phương pháp nghiên cứu hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành tốt nghiên
cứu khóa luận này. Dưới sự hướng dẫn của cô em đã học hỏi được rất nhiều, đồng thời tự bản
thân em nhận thấy còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Đây là tiền đề cho em hoàn thiện kĩ
năng nghiên cứu của mình sau này.
Mặc dù em đã cố gắng thực hiện và nghiên cứu đề tài một cách nghiêm túc, trong q
trình nghiên cứu, khóa luận chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong

Q thầy giáo, cơ giáo và những người quan tâm đến đề tài này tiếp tục giúp đỡ, đóng góp
thêm những ý kiến đề cơng trình nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACRA
TNHH
DNTN
QPPL
UBND
LDN
DN
TT ĐKDNQG
VBPL DN

Cơ quan quản lí kế toán và doanh nghiệp của Singapore
Trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp tư nhân
Quy phạm pháp luật
Ủy ban nhân dân
Luật doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Thơng tin đăng kí doanh nghiệp quốc gia
Văn bản Pháp luật Doanh nghiệp


DANH MỤC BIỂU ĐỒ



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ năm 2020, đại dịch Covid-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội,
song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, đất nước ta đã
từng bước kiểm sốt có hiệu quả đại dịch Covid-19 từng bước phục hồi sản xuất,
kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân; góp phần
củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc
ta.
Đứng trước sự phát triển không ngừng của kinh tế thị trường nhà nước luôn
đưa ra những chủ trương, chính sách nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ
thể sắp đang và đã tham gia vào hoạt động kinh doanh. Cụ thể là, luật Doanh nghiệp
năm 2020 được Quốc hội thơng qua đóng vai trị rất quan trọng, đặc biệt có tính đột
phá và mới mẻ cao trong hoạt động quản lí của Nhà nước về đăng ký thành lập
doanh nghiệp, một trong những điểm nổi bật là đã đề cao được quyền tự do kinh
doanh của công dân, doanh nghiệp, khi quy định rằng ngồi những gì khơng cấm thì
doanh nghiệp được phép tự do kinh doanh. Tạo ra một môi trường kinh doanh hiện
đại hơn, hòa nhập với xu hướng thế giới. Bởi vì, thủ tục đăng ký kinh doanh là một
thủ tục pháp lý quan trọng, nó có thể hiểu đơn giản giống như việc chúng ta làm thủ
tục đăng ký giấy khai sinh cho một đứa bé sơ sinh vậy.
Ngồi những thành tựu đã đạt được, vẫn cịn tồn tại những điểm hạn chế như
trình tự thủ tục đăng kí vẫn cịn rườm rà, vịng vo, phức tạp. Các hệ thống văn bản
pháp luật chưa được thi hành đồng bộ. Ngồi ra, trong thực tiễn kinh doanh cịn gặp
những rào cản lớn đối với các doanh nghiệp mới khởi nghiệp về thuế, bảo hiểm, lao
động…, mặc dù trong Luật Doanh Nghiệp 2020 và những nghị định, thông tư đã có

những chính sách khuyến khích dành riêng cho những đối tượng này. Song, những
chính sách ấy vẫn chưa được áp dụng vào thực tiễn hiệu quả.
Trước những bất cập như vậy, đó là lí do tơi lựa chọn đề tài:” Pháp luật về
đăng ký thành lập doanh nghiệp - thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng”. Nhằm tìm

8


hiểu sâu hơn về hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp qua hoạt động thực thi.
Để từ đó làm rõ những điểm mới đột phá, những điểm còn hạn chế và đề xuất các
phương án giải quyết phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước và cải
thiện việc áp dụng ngoài thực tiễn về đăng kí thành lập doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Theo Hiến pháp 1992 quy định: “Cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật.” đến Hiến pháp 2013, điều này được đổi thành: “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Sự
thay đổi về câu từ này có thể hiện ý chí của chính sách nhà nước chuyển từ cơ chế
“chọn cho” sang “chọn bỏ”. Các chế định riêng về đăng ký thành lập doanh nghiệp
trong các văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua vào năm 1990 như
một dấu ấn quan trọng, có những bước cải tiến lớn trong các thủ tục đăng ký về hồ
sơ đăng ký bao gồm những gì, trình tự, thủ tục và các điều kiện đăng ký hợp lệ.
Những quy định như một lần nữa khẳng định về quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh. Các vấn đề pháp lý xoay quanh về việc đăng ký kinh doanh,
giấy phép kinh doanh, điều kiện kinh doanh luôn là chủ đề được quan tâm trong
việc cải cách pháp lý. Vì vậy, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, thuộc
nhiều tác giả ở nhiều cấp độ khác nhau về chủ đề này. Cụ thể như:
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về
đăng ký thành lập doanh nghiệp từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La” của Th.S
Phan Như Cường, Đại học Luật Hà Nội, năm 2020.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa

bàn Hà Nội” của Nguyễn Thị Thủy, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2015.
Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp thực
trạng và phương hướng hoàn thiện ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Thảo, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2018.
Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật Việt Nam về thành lập doanh nghiệp thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” của Phạm Thị Cẩm Lệ, Đại học Nam Cần Thơ,
năm 2020.
Luật án Tiến sĩ Luật học “Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện
nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2016.

9


Có thể thấy, các vấn đề pháp lý liên quan đến việc đăng ký thành lập doanh
nghiệp luôn là đề tài được giới kinh doanh quan tâm, thế nhưng những vấn đề cụ thể
của nó thì chưa được nghiên cứu nhiều. Vẫn còn tồn tại rất nhiều sự ràng buộc,
cứng nhắc trong ứng dụng thực tiễn về điều kiện thành lập doanh nghiệp, dẫn đến
nhiều khó khăn, bất cập cho doanh nghiệp khi có mong muốn hợp thức hóa tổ chức
của mình một cách hợp pháp. Các doanh nghiệp cịn gặp trở ngại trong việc xác
định các ngành nghề cấm kinh doanh và không cấm kinh doanh, đây cũng là điểm
hạn chế lớn chưa được giải quyết. Khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong
việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp. Dựa trên cơ sở này, đề tài “Pháp
luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp – thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng” Để
làm rõ về cơ sở lý luận chung về đăng kí thành lập doanh nghiệp, từ đó đưa ra thực
trạng pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp và thực tiễn thi hành tại thành
phố Đà Nẵng, qua đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về đăng kí thành lập doanh nghiệp tại thành phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề lý luận và pháp luật về đăng

ký thành lập doanh nghiệp tại sở Kế hoạch và Đầu tư và thực tiễn về đăng ký thành
lập doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, phạm vi nghiên cứu của đề tài này là các quy phạm pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật ở thành phố Đà Nẵng từ luật Doanh nghiệp 1999 đến
nay là luật Doanh nghiệp 2020.
Về không gian, hệ thống pháp luật doanh nghiệp Việt Nam với hệ thống pháp
luật doanh nghiệp của một số nước như Trung Quốc, Singapore,…quy định về chủ
đề của đề tài khóa luận để học hỏi từ đó kiến nghị một số giải pháp giúp hồn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng kí thành lập doanh nghiệp
tại thành phố Đà Nẵng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đi sâu vào việc nghiên cứu và khảo sát thực trạng đề tài nêu trên, cần vận
dụng những phương pháp phân tích, lập luận, tổng hợp một cách logic, khoa học.

10


Nhằm đưa ra những so sánh khách quan giữa những quy định lý luận với thực tiễn
nhằm làm sáng tỏ vấn đề.
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể cũng được vận dụng khi nghiên
cứu đề tài này như là: phương pháp phân tích, phương pháp luận giải, phương pháp
thống kê, phương pháp so sánh,… Cụ thể ở từng chương như sau:
Chương 1. Khóa luận sử dụng chủ yếu các phương pháp tổng hợp, phân tích
và phương pháp hệ thống, sâu chuỗi để làm rõ khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết
của việc đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Chương 2. Khóa luận sử dụng chủ yếu các phương pháp như phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích thống kê để đưa ra những
lập luận qua đó làm rõ, đưa ra các thực trạng thực thi pháp luật của hoạt động đăng
ký kinh doanh. Gồm những thành tựu đạt được, những hạn chế, nguyên nhân của

những hạn chế nêu trên.
Chương 3. Khóa luận sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh và
tổng hợp để định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động đăng
kí thành lập doanh nghiệp tại thành phố Đà Nẵng.
5. Cấu trúc khóa luận
Ngồi Lời cam đoan, lời cảm ơn, phần mở đầu và phần kết thúc thì nội dung
luận án này được chia thành các chương 3:
Chương 1. Lý luận chung về đăng kí thành lập doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng kí thành lập doanh nghiệp và thực
tiễn thi hành tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về đăng kí thành lập doanh nghiệp tại thành phố đà nẵng

11


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACRA
TNHH
DNTN
QPPL
UBND
LDN
DN

Cơ quan quản lí kế tốn và doanh nghiệp của Singapore
Trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp tư nhân
Quy phạm pháp luật
Ủy ban nhân dân

Luật doanh nghiệp
Doanh nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 2.1. Tình hình đăng kí doanh nghiệp tại thành phố Đà Nẵng quý I năm 2021
và 2022
Biểu đồ 2.2. Tình hình đăng kí doanh nghiệp q I/2022 tại thành phố Đà Nẵng

12


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐĂNG KÍ THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP
1.1.
Khái quát về đăng kí thành lập doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp

Khái niệm
Thuật ngữ doanh nghiệp đã được sử dụng dựa theo Sắc lệnh số 104/SL ngày
01.01.1948 về doanh nghiệp quốc gia, thế nhưng càng về sau này nó bị lãng quên và
dần thay thế bằng các cụm từ khác như xí nghiệp, đơn vị kinh tế,… Mặc dù, thuật
ngữ “Doanh nghiệp” đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp vẫn
chưa có sự thống nhất chung, doanh nghiệp được xem như là một yếu tố quan trọng
cấu thành nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác. Sự phát triển
của doanh nghiệp gắn liền với sự phát triển của các phương thức sản xuất. Có thể
hiểu doanh nghiệp dưới các góc nhìn sau:
Dưới góc độ pháp lý thay đổi như thế nào qua các năm như sau:
Theo Luật Công ty năm 1990 định nghĩa “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh
được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Có

thể thấy, định nghĩa về doanh nghiệp ở nằm này cịn cơ bản và chung chung vì chỉ
cần xác định mục đích là hoạt động kinh doanh và đơn vị kinh doanh là được công
nhận là doanh nghiệp.
Theo Luật doanh nghiệp 1999 định nghĩa “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Có thể
thấy được định nghĩa về doanh nghiệp ở năm 1999 đã chi tiết hơn so với năm 1990
điều kiện về tên riêng, tài sản, trụ sở chính. Ở đây có sự thay đổi là đơn vị kinh
doanh thay bằng tổ chức kinh tế.
Theo luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Có thể
thấy, Định nghĩa về doanh nghiệp 2005 có điểm mới hơn so với luật cũ là doanh
nghiệp được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật.

13


Theo luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Có thể thấy điểm mới ở luật này định nghĩa
về doanh nghiệp là mục đích kinh doanh so với luật cũ.
Theo Luật Doanh nghiệp 2020 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Có thể thấy, định nghĩa về
doanh nghiệp năm này khơng có gì thay đổi so với năm 2014.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm “Doanh nghiệp là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hợp pháp và hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi nhuận”
1.1.1 Đặc điểm

Khi bắt đầu thành lập rất nhiều chủ thể kinh doanh gặp nhiều vướng mắc trong
việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với hoạt động kinh doanh, quy mô
ngành nghề kinh doanh và khả năng tài chính của cá nhân, tổ chức. Vì thế mà việc
lựa chọn đúng, chuẩn, phù hợp sẽ giúp định hướng được sự phát triển của doanh
nghiệp. Mỗi loại hình sẽ có những đặc điểm nổi bật và phù hợp với từng nhóm chủ
thể kinh doanh, vì vậy thơng qua tìm hiểu ta có thể nắm được đặc điểm chung của
doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng
Tên doanh nghiệp thơng thường bao gồm: Tên tiếng việt, tên viết tắt và tên
nước ngoài. Đối với tên nước ngoài và tên viết tắt doanh nghiệp có thể khơng đặt
tùy vào chủ ý của chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc phát triển
mơ hình, hoạt động của doanh nghiệp thì việc có đầy đủ 03 tên nêu trên là một lợi
thế sau này.[16, tr.12]
Dựa trên góc độ pháp lý, việc đặt tên doanh nghiệp phải đảm bảo thỏa mãn
một số yêu cầu được quy định trong luật, cụ thể là:
Tên doanh nghiệp phải được viết bằng tiếng việt. Căn cứ tại Điều 37 luật
Doanh Nghiệp 2020. Tên tiếng Việt của doanh nghiệp bao gồm hai thành tố theo
thứ tự sau đây:Loại hình doanh nghiệp + Tên riêng. Ví dụ: Công ty cổ phần truyền
thông và thương mại Conando.[9, Điều 37]

14


Ở đặc điểm này có một điểm bất cập khi áp dụng thực tế mà quy phạm pháp
luật còn bỏ ngỏ về quy định đặt tên tiếng Việt, tại điều 31 luật doanh nghiệp 2005
quy định” tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số
và ký hiệu, phải phát âm được”. Tức là, tên doanh nghiệp bắt buộc phải phát âm
được, hiểu được nghĩa của nó.[17,tr.12]
Lấy ví dụ, Ơng H mở qn ăn bán món Huế, nên ơng đặt tên qn là Mi tau,
thế nhưng khi quán đi vào hoạt động thì người ở quận đến lập biên bản xử phạt

hành chính. Vấn đề ở đây là “mi tau” là ngôn ngữ địa phương nằm trên lãnh thổ
Việt Nam nên vẫn được xem là tiếng Việt, vậy sao lại bị xử phạt hành chính. Trích
dẫn nguồn: Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12-09-2007.
Qua hai lần cải cách Luật Doanh nghiệp cụ thể là ở Khoản 1 Điều 38 Luật
Doanh nghiệp 2014 và Điều 37 Luật doanh nghiệp 2020 đã có bước tiến rõ nét hơn
quy định về tên doanh nghiệp cụ thể là “Tên tiếng Việt của doanh nghiệp được viết
bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F,J,Z,W chữ số và ký
hiệu.”.[9, Điều 37] Điểm mới ở đây là khơng cịn bắt buộc là tên doanh nghiệp phải
có nghĩa, và phát âm được. Chỉ cần tên doanh nghiệp được viết bằng các chữ cái
thuộc bảng chữ cái tiếng Việt và các chữ cái F,J,Z,W, chữ số và ký hiệu là hợp lệ.
Tên doanh nghiệp không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm.
Trường hợp tên doanh nghiệp không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
các doanh nghiệp khác.[17,tr.15]
Để xác định được thế nào là tên trùng, căn cứ tại Điều 41 Luật doanh nghiệp
2020 hiểu:”Tên trùng là tên tiếng Việt của doanh nghiệp đề nghị đăng kí được viết
hồn tồn giống với tên tiếng Việt của doanh nghiệp đã đăng ký”. [9, Điều 41]
Ngoài ra, các tên doanh nghiệp dự kiến đăng ký sau sẽ khơng được chấp nhận
vì nó sẽ gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng ký trước đó. Lấy ví dụ, 2006
chị T đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân Thiên Tín, đến năm 2020 ơng C dự
định đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân Thiên Tín sẽ khơng được chấp nhận vì
lí do tên doanh nghiệp gây nhầm lẫn với thương hiệu công ty của chị T.
Trường hợp tên doanh nghiệp sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống
lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc
Đây là một tiêu chí gây rất nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư khi thành lập
doanh nghiệp. Vì thực tế cho thấy rất khó để xác định được như thế nào là vi phạm

15


văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bởi vì đây là một phạm vi cịn

khá mơ hồ và pháp luật nước ta vẫn chưa có những qui định cụ thể như thế nào là
giới hạn với việc vi phạm thuần phong mỹ tục. Có những từ ngữ khi được đặt riêng
thì rất bình thường tuy nhiên khi được đặt chung với những từ khác hoặc đặt lên tên
doanh nghiệp thì được xem là “nhạy cảm”, không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm tuyền thống lịch sử cũng diễn ra khá phổ
biến khi nhiều cái tên giống một phần hoặc khi ghép lại thì giống với tên của các
danh nhân, các nhà lãnh đạo của dân tộc. Để khắc phục điều này, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 10/2014/TT-BVHTTVDL hướng dẫn đặt
tên doanh nghiệp phù hợp với truyền thống truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức
và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trường hợp sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên
riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị, hoặc
tổ chức đó
Đây cũng là một trường hợp mà các doanh nghiệp cần tránh khi đặt tên doanh
nghiệp. Có thể ví dụ đơn giản như một doanh nghiệp về giáo dục và đào tạo thì
cũng khơng nên kết hợp cum từ “Giáo dục và Đào tạo” với tên địa danh vì rất dễ sẽ
trung với tên cả các phịng, sở giáo dục.
Thứ hai, doanh nghiệp có tài sản[17,tr.24]
Vì mục tiêu thành lập là để kinh doanh nên việc doanh nghiệp phải có những
tài sản là đều hiển nhiên. Tài sản của doanh nghiệp có thể là: tài sản do nhà đầu tư
đầu tư vào doanh nghiệp, tài sản do doanh nghiệp huy động, tài sản do doanh
nghiệp tạo lập nên trong quá trình hoạt động. Căn cứ vào hình thái vật chất của tài
sản mà người ta chia tài sản của doanh nghiệp thành tài sản hữu hình và tài sản vơ
hình. Căn cứ vào vai trị của tài sản đối với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
mà người ta chia thành tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản lưu thơng. Trong
suốt q trình hoạt động của mình doanh nghiệp sẽ tạo ra rất nhiều tài sản và giá trị
khác nhau. Tuy nhiên ở thời điểm thành lập doanh nghiệp chỉ bao gồm một nguồn
duy nhất là từ các nhà đầu tư. Cho nên, tại thời điểm doanh nghiệp thành lập, tài sản


16


trong doanh nghiệp chính là vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Khoản 34 Điều 4
Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành
viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi
thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần”.[9, Điều 4] Đây sẽ là cơ sở để xác
định tỷ lệ phần vốn góp hay sở hữu cổ phần của thành viên, cổ đơng trong cơng ty.
Thơng qua đó làm cơ sở cho việc phân chia quyền, lợi ích và nghĩa vụ giữa các
thành viên, cổ đông trong công ty. Hơn nữa, vốn điều lệ cũng là một trong những cơ
sở để xác định điều kiện kinh doanh đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện.
Thứ ba, Doanh nghiệp có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Trụ sở doanh nghiệp được quy định tại Điều 42, Luật doanh nghiệp 2020.
Theo quy định này thì trụ sở là nơi liên lạc của doanh nghiệp, và được xác định theo
đia giới đơn vị hành chính (Thơn/bản/ấp/tổ dân phố, Phường/xã/thị trấn, Thị
xã/quận/huyện, Tỉnh/Thành phố, Quốc gia). Phải có thơng tin liên lạc rõ ràng: Số
điện thoại, địa chỉ email, số fax, phải được làm biển hiệu nhận diện trụ sở tại địa chỉ
được đăng ký. Theo quy định này thì trụ sở doanh nghiệp không nhất thiết là nơi
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi có hộ khẩu
thường trú của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có nhiều cơ sở kinh doanh ở
những nơi khác nhau nhưng trụ sở giao dịch chỉ có một. Để tránh nhầm lẫn, người
ta thường gọi là trụ sở chính của doanh nghiệp. Trụ sở giao dịch mang tính pháp lí
nhiều hơn là tính khơng gian.
Mục đích kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là mục đích tìm kiếm lợi
nhuận của doanh nghiệp là để làm gì. Mục đích này là cơ sở để có thể phân biệt
doanh nghiệp với các tổ chức khác. Ví dụ doanh nghiệp thì mục đích lớn nhất là lợi

nhuận nhưng với doanh nghiệp xã hội thì ngồi những mục đích lợi nhuận cịn phải
đáp ứng các mục tiêu khác mang tính xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động của doanh
nghiệp chỉ có hiệu quả một khi kế hoạch của nó gắn bó chặt chẽ với mục tiêu để cho
phép đạt được những mục đích. Kế hoạch đó địi hỏi phải được điều chỉnh kịp thời

17


theo những biến động của môi trường; đồng thời gắn bó với những khả năng cho
phép của doanh nghiệp như: vốn, lao động, cơng nghệ. Từ những kế hoạch đó địi
hỏi doanh nghiệp phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, xác định cụ thể nhiệm vụ cho từng
bộ phận, cá nhân; đồng thời phối hợp hoạt động nhằm đạt được mục đích của doanh
nghiệp.
1.1.2. Khái niệm đăng kí thành lập doanh nghiệp
Về phương diện chính trị: Việc đăng ký kinh doanh này được hiểu dựa trên
tinh thần của Hiến Pháp 1992: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn
chế về quy mơ hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.” là
quyền tự do của công dân, tự do lựa chọn ngành nghề, tự do lựa chọn mơ hình kinh
doanh, tự do đăng ký kinh doanh miễn là sự tự do này vẫn dựa trên khuôn khổ của
nhà nước vẫn bảo đảm sự bình đẳng, tự do, dân chủ của mỗi chủ doanh nghiệp.
Về phương diện kinh tế: Hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp là hoạt
động khai sinh của doanh nghiệp đối với nhà nước và đối với thị trường kinh tế, hợp
pháp hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy không phải
hoạt động trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. [11, tr.85]
Về phương diện quản lý nhà nước: Hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp
này là một sự công nhận về mặt hợp pháp, đảm bảo sự bảo hộ cho cơng ty trong q
trình hoạt động tham gia vào thị trường kinh tế, giúp cho việc hoạt động kinh doanh
của cơng ty có chủ quản ở đây chính là các cơ quan có thẩm quyền. Đây còn là cơ
sở để xác định, để dựa trên đây quản lý, giám sát và đánh giá việc thực hiện nghĩa

vụ và quyền được hưởng của mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh
doanh.
Về phương diện pháp lý: Dựa trên Nghị Định (số 01/2021/NĐ-CP) về Đăng
ký doanh nghiệp ta có thể hiểu về khái niệm đăng ký thành lập doanh nghiệp là
“Đăng ký doanh nghiệp là việc người thành lập doanh nghiệp đăng ký thông tin về
doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký những thay đổi hoặc dự
kiến thay đổi trong thông tin về đăng ký doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh
doanh và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng
ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội

18


dung đăng ký doanh nghiệp và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định
của Nghị định này”.[3, Điều 3]
Dựa trên những phương diện, có thể hiểu “Đăng ký thành lập doanh nghiệp là
một thủ tục pháp lý mà theo đó chủ thể dự kiến đăng ký phải khai báo với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình theo đúng quy định của
pháp luật với các nội dung cụ thể, được Nhà nước công nhận và cấp cho chủ thể
đăng ký kinh doanh giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp. Giấy chứng
nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể
kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước
công nhận và bảo hộ”
1.2 Pháp luật về đăng kí thành lập doanh nghiệp
1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp
Một là, nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Đây là yếu tố rất quan
trọng đối với chủ trương phát triển kinh tế của nhà nước, đồng thời cũng là đảm bảo
đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 là quyền con người. Cụ thể, Hiến pháp 2013
khẳng định, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động. “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không

cấm” được quy định tại Điều 33. Quy định này hàm chứa hai ý chính là: mọi người
có quyền tự do kinh doanh và ý thứ hai là giới hạn của quyền tự do đó là những gì
luật cấm. Hiện nay quyền tự do kinh doanh này đã được thể hiện ở các VBPL chẳng
hạn như: Điều 50 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về quyền tự do kinh doanh, Điều 7
Luật doanh nghiệp 2020 quy định về quyền doanh nghiệp,… Có thể thấy, các quyền
tự do đăng kí thành lập doanh nghiệp là một phần trong quyền tự do đăng kí kinh
doanh. Ngồi ra, sự bình bằng giữa các chủ thể kinh doanh được thể hiện ngay
trong quyền tự do đăng kí thành lập doanh nghiệp, vì các chủ thể kinh doanh muốn
thành lập doanh nghiệp đều phải thỏa mãn những điều kiện chung được pháp luật
quy định. [17,tr387]
Hai là, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng và phát triển lâu dài của các loại
hình doanh nghiệp. Nguyên tắc được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI, phần chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 có định

19


hướng: "Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế" và tại
Điều 5 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về bảo đảm của Nhà nước đối với doanh
nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp, là tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc
nội dung của quyền tự do kinh doanh. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp bền vững.
Có thể thấy nguyên tắc đã được thể hiện rõ ràng ở các VBPL nhằm khơng phân biệt
loại hình doanh nghiệp là gì, lĩnh vực hoạt động là gì, quy mơ, cơ cấu tổ chức thế
nào. Mọi doanh nghiệp đều có quyền bình đẳng như nhau và được nhà nước hỗ trợ
các chính sách nhằm phát triển lâu dài trên thị trường.
Ba là, ngun tắc cơng khai minh bạch trong đăng kí thành lập doanh nghiệp.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ ở việc thơng tin đăng kí doanh nghiệp được đăng
cơng khai trên cổng thơng tin quốc gia về đăng kí doanh nghiệp. Giúp chủ thể kinh
doanh và nhà đầu tư dễ dàng theo dõi thông tin của doanh nghiệp trực tuyến tại:

việc minh bạch trong hoạt
động quản lý đăng ký kinh doanh là một điều đương nhiên nhằm đảm bảo mục tiêu
xây dựng nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân”. Ngồi ra, ngun tắc cơng khai minh bạch còn giúp
các chủ thể kinh doanh dự kiến đăng kí thành lập doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận
được thông tin kể về sự thay đổi, bổ sung các quy định pháp luật.
1.2.2. Điều chỉnh pháp luật về chủ thể đăng kí thành lập doanh nghiệp
Khái niệm đối tượng chủ thể đăng kí thành lập doanh nghiệp
Đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân được pháp luật
công nhận quyền thành lập doanh nghiệp.
Ở một số nước trên thế giới có quy định về độ tuổi được quyền đăng kí thành
lập doanh nghiệp khác nhau, chẳng hạn như: Ở Malaysia công dân từ đủ 21 tuổi trở
lên được quyền thành lập doanh nghiệp, Ở Balabesh quy định, công dân từ 18 tuổi
trở lên và không được phá sản hoặc bị kết án vì bất kỳ hành vi vi phạm nào trong
quá khứ có quyền được đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hay tại đất nước Bồ Đào
Nha, cơng dân trên 18 tuổi và có đủ vốn để tuân thủ mức vốn cổ phần tối thiểu cho
một cơng ty có thể bắt đầu và đăng ký kinh doanh. Ngồi ra, ở nước Đức, có điểm

20


mới quy định về điều kiện chủ thể là công dân phải từ 18 tuổi trở lên và chưa từng
bị cấm hành nghề mà chủ thể dự định thành lập doanh nghiệp.
Việc đăng kí thành lập doanh nghiệp cho phép tạo lập mới một chủ thể kinh
doanh. Khi tham gia vào thị trường kinh tế, doanh nghiệp sẽ trở thành chủ thể của
các giao dịch như dân sự, thương mại, lao động..., tham gia giao kết hợp đồng, đồng
thời chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp và các quyền và nghĩa vụ
tài sản. Do vậy, đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp phải là tổ chức, cá nhân
có đủ khả năng và điều kiện phù hợp để chịu trách nhiệm về hoạt động doanh
nghiệp do mình tạo lập ra. Căn cứ tại khoản 1 điều 17 Luật doanh nghiệp 2020 ta

xác định được đối tượng nào có quyền thành lập doanh nghiệp. Cá nhân có quyền
đăng kí thành lập doanh nghiệp thỏa mãn 2 điều kiện về độ tuổi và có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi. Đối với tố chức để có tư cách pháp nhân thì cần thỏa mãn
các điều kiện như: Được thành lập hợp pháp, có cơ cầu tổ chức, có tài sản độc lập
với cá nhân. [9, Điều 17]
1.2.3. Điều chỉnh pháp luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
Ở mỗi quốc gia sẽ có quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp khác nhau dựa trên tình hình phát triển kinh tế - hình thái xã hội của mỗi
nước chẳng hạn như: Ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Singapo quy
định ln trình tự, thủ tục thành lập cho từng loại hình doanh nghiệp mà chủ thể
kinh doanh dự kiến muốn thành lập được quy định tại từng đạo luật cụ thể. Ngược
lại, ở những nước đang phát triển như Việt Nam, Thái Lan thì quy định chung tại
một đạo luật
Tùy vào mỗi quốc gia thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh sẽ khác
nhau. Ví dụ như, tại Pháp quy định cơ quan đăng ký kinh doanh tại Tịa án, cịn Việt
Nam thì cơ quan có thẩm quyền là cơ quan hành chính chun trách. Hoặc ở Mỹ
một quốc gia theo hệ thống pháp luật liên bang, gồm có hiến pháp, luật liên bang,
luật bang nên Luật doanh nghiệp ở Mỹ chủ yếu do luật của các tiểu bang quy định,
và mỗi tiểu bang đều có quy định riêng về doanh nghiệp; tuy nhiên, nhìn chung các
quy định cơ bản về luật doanh nghiệp của các tiểu bang gần như giống nhau. Việc
đăng ký kinh doanh ở Mỹ thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ lập một danh sách, cung
cấp những điều kiện nhất định để được có tên trong danh sách này, sau đó các chủ

21


thể có nhu cầu đăng ký tên và địa chỉ, trình độ với các cơ quan quản lý. Chỉ cần có
khiếu nại của người tiêu dùng (khách hàng), hoặc việc thực hiện niêm yết cơng khai
thơng tin chưa đúng thì chủ thể đó có thể bị loại ra khỏi danh sách này. Điều đó
đồng nghĩa với việc tiếp tục thực hiện kinh doanh sẽ là trái pháp luật.

Hoặc nói đến pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp ở một quốc gia gần
với Việt Nam như Singapore. Hệ thống pháp luật Singapore đối với doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật Anh (trừ những nội dung mang tính địa
phương) và được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ đem lại hiệu quả cao đối với hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chủ thể khi muốn
thành lập doanh nghiệp thì nộp hồ sơ thơng báo đến cơ quan có thẩm quyền về đăng
ký kinh doanh, đó là Cơ quan quản lý kế tốn và doanh nghiệp của Singapore
(ACRA). Thủ tục này có thể được thực hiện hoàn toàn qua hệ thống đăng ký trực
tuyến của ACRA. Bên cạnh cơ chế đăng ký thành lập, Singapore đặt ra quy định về
điều kiện kinh doanh trong một số những ngành nghề nhất định.
Một quốc gia có nền kinh tế phát triển Trung Quốc thì khơng giống với pháp
luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc lại ban hành từng bộ luật riêng lẻ đối với mỗi
loại hình doanh nghiệp.Ví dụ như: Luật Cơng ty áp dụng cho cơng ty cổ phần và
trách nhiệm hữu hạn, Luật doanh nghiệp tư nhân lại áp dụng cho doanh nghiệp tư
nhân, Luật đầu tư nước ngoài lại được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi.
Tùy vào văn hóa, tình hình phát triển của mỗi quốc gia mà có những quy định
khác nhau về việc đăng ký thành lập doanh nghiệp. Việt Nam cũng đã có những lần
điều chỉnh pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp cho phù hợp với từng thời
kỳ phát triển của đất nước với hình thái xã hội. Với phương châm đơn giản hóa các
thủ tục hành chính, Luật Việt Nam đã thực sự đi vào cuộc sống của người dân.
Trong những năm gần đây, Quốc Hội cũng ban hành mới và sửa đổi hàng loạt các
bộ luật nhằm góp phần làm hồn thiện hơn, kiện toàn hơn hệ thống luật pháp của
Việt Nam.
Dựa trên Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 quy định,
để thành lập công ty, phải thực hiện qua 02 bước trong thời hạn 60 ngày đối với
cơng ty cổ phần, cơng ty TNHH cịn 30 ngày đối với DNTN. Đến luật doanh nghiệp

22



1999 có một điểm mới là đã rút gọn được thủ tục xin phép thành lập và đăng ký
kinh doanh gộp thành một, tinh gọn bộ hồ sơ, những thủ tục thực sự cần thiết, còn
lại lược bỏ hết. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã có những cải tiến về những quy
định về đặt tên cho doanh nghiệp. Đến Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014.
Điểm cải cách này nổi bật ở chỗ đưa ra các quy định về ngành nghề mà pháp luật
không cấm thể hiện qua các quy định về ngành nghề cấm đầu tư và có điều kiện. Ở
đây, áp dụng phương pháp loại trừ, đây là bước cải tiến lớn về tư duy làm luật, thay
cho cách làm truyền thống gây phức tạp, khó hiểu trước đó.
Ở một số nước trên thế giới có quy định cơ quan đăng kí kinh doanh là cơ
quan tư pháp điển hình như: Pháp, Đức, Ba Lan.
Ở một số nước trên thế giới có quy định cơ quan đăng kí kinh doanh là cơ
quan hành chính điển hình như: Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản
Có thể thấy, Hệ thống pháp luật Việt Nam được tổ chức phân cấp từ trung
ương đến địa phương. Nên việc thành lập một cơ quan chuyên trách về việc đăng kí
thành lập doanh nghiệp là một điều cần thiết. Nhằm giảm áp lực khối lượng công
việc của cơ quan tư pháp. Khi được chuyên trách hóa các cán bộ phụ trách làm việc
sẽ được hiệu quả nhất, ngồi ra việc đăng kí thành lập doanh nghiệp có nhiều trình
thủ, thủ tục trước, trong và sau khi đăng kí thành lập và các thủ tục này thiên về
hành chính nên việc tạo ra một bộ phận cơ quan chuyên trách là điều rất hợp lí trong
cơ cấu tổ chức của nhà nước.
1.3. Sự cần thiết của việc đăng kí thành lập doanh nghiệp
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp là một thủ tục hành chính quan trọng,
thông qua việc này thể hiện được quyền và nghĩa vụ giữa chủ thể kinh doanh đối
với cơ quan quản lí nhà nước như sau:
Thứ nhất, Đối với Nhà nước việc đăng ký kinh doanh là một công cụ quản lí,
giám sát nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh. Việc đăng ký thành lập doanh
nghiệp được cơ quan nhà nước công nhận và cấp phép hoạt động thể hiện qua việc
cấp giấy tờ pháp lý là cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và thông báo sử
dụng mẫu con dấu trịn của doanh nghiệp. Có thể hiểu đơn giản hơn nữa là doanh

nghiệp của bạn đã được bảo hộ bởi pháp luật hợp pháp. Lúc này, doanh nghiệp hoàn
toàn tự tin tham gia vào các quan hệ kinh tế vì doanh nghiệp đã có tư cách pháp

23


nhân và có con dấu. Chính sự bảo hộ về mặt pháp lý này đã giúp cho các hoạt động
của doanh nghiệp trở nên minh bạch và đáng tin cậy và tự tin hơn
Thứ hai, Đối với nền kinh tế việc đăng ký thành lập doanh nghiệp đóng vai trị
rất quan trọng. Vì nó đóng góp vào cho nhà nước các khoản thuế giúp phát triển
kinh. Đồng thời, khi nhiều doanh nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ là yếu tố
quan trọng thúc đẩy đời sống kinh tế xã hội của đất nước cũng ngày càng phát triển
mạnh mẽ hơn. Khơng những vậy cịn đảm bảo quyền lợi cho cơ quan quản lý nhà
nước mà còn mang ý nghĩa đảm bảo trật tự quản lý nhà nước cũng như bảo vệ được
quyền lợi cho những chủ thể khác khi tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, Đối với doanh nghiệp việc đăng kí thành lập doanh nghiệp như một lá
phiếu thông hành khi tham gia vào thị trường kinh tế. Vì đánh dấu sự ra đời của
doanh nghiệp, được pháp luật thừa nhận và được bảo hộ. Ngoài ra, còn xác định
quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp, giới hạn phải chịu trách nhiệm về tài
sản, công nợ. Trong trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì giới hạn về
trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ được thể hiện rõ nhất. Không những vậy, việc đăng
kí thành lập doanh nghiệp cịn giúp doanh nghiệp tự tin hơn trong việc tham gia xác
lập giao kết, tạo dựng niềm tin, sự tin tưởng đối với khách hàng, người tiêu dùng dễ
dàng hơn.
Có thể thấy, việc đăng kí thành lập doanh nghiệp là một thủ tục pháp lí rất
quan trọng và cần thiết không những chỉ với cá nhân doanh nghiệp mà còn rộng hơn
là với sự quản lí của nhà nước và tác động rất lớn đến nền kinh tế. Khi được nhà
nước bảo hộ, doanh nghiệp sẽ được hưởng các chính sách hỗ trợ theo từng lĩnh vực
ngành nghề. Nhằm khuyến khích, thu hút các chủ thể dự kiến kinh doanh đăng kí
thành lập doanh nghiệp.


24


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Các quy phạm pháp luật quy định về việc đăng ký kinh doanh luôn dựa trên
hướng thể hiện quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh miễn là nằm trong
khuôn khổ pháp luật không cấm. Đây là bước tiến lớn trong việc cải cách các quy
định về việc đăng ký kinh doanh Luật Doanh Nghiệp 2020 để từ đó khuyến khích,
tạo mọi điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các chủ thể dự kiến đăng kí kinh doanh.
Ở chương 1 này, tập trung làm nghiên cứu sâu và làm rõ những lý luận chung
về đăng kí thành lập doanh nghiệp cụ thể như về khái niệm, đặc điểm, khái niệm
đăng kí thành lập doanh nghiệp dựa trên nhiều phương diện như về kinh tế, quản lí
nhà nước, chính trị, pháp lý, phân tích những điều chỉnh của pháp luật về đăng kí
thành lập doanh nghiệp, từ đó thấy được sự cần thiết của việc đăng kí thành lập
doanh nghiệp. Trong chương này, tìm hiểu hệ thống văn bản pháp luật doanh nghiệp
ở một số nước đang phát triển so với hệ thống pháp luật Việt Nam được làm rõ.
Thơng qua những tìm hiểu về lý luận đó, giúp ta hiểu rõ hơn về sự quan trọng
của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, và sự cần thiết của việc đăng kí kinh
doanh đối với chủ thể kinh doanh và các cơ quan quản lí nhà nước.

25


×