Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.92 KB, 75 trang )

- 1 -Chuyên đề tốt nghiệp – Khoa Ngân hàng – Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự mở của và hội nhập, đất nước chúng ta
đang ngày một đổi mới cùng với sự phát triển nói chung của thế giới. Trong
quá trình mở cửa chúng ta mở rộng mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế
giới, đây cũng là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho các ngân hàng có điều kiện
phát triển chính mình. Trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã có
những đóng góp ngày càng tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế , kiềm chế
lạm phát , huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và tổ
chức kinh tế xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong các hoạt động của các ngân hàng thương mại thì hoạt động tín
dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng đem lại tới 80% lợi nhuận kinh
doanh cho ngân hàng, trong đó tín dụng ngắn hạn chiếm tới 60%. Hơn nữa, với
sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, sự phát triển
nóng của thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh sẽ
khiến cho thị trường vốn trung và dài hạn sẽ không còn là thị trường mục tiêu
hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại nữa. Chính vì vậy, trong những năm
gần đây, tuy các ngân hàng thương mại đã chú trọng tới mở rộng quy mô, tăng
khả năng cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn,
song có thể nói tín dụng ngắn hạn vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng.
Không ngoại lệ, tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội, tín dụng
ngắn hạn là khoản mục có tỷ trọng lớn nhất. Trong những năm gần đây, hiệu
quả tín dụng ngắn hạn đã dần được nâng cao tại chi nhánh, đem lại các khoản
Lê Hồng Phong Lớp Ngân hàng 45B
lợi nhuận to lớn, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như các khoản nợ
xấu, nợ khó đòi làm ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh.
Nhận thấy rõ vai trò của tín dụng ngắn hạn trong hoạt động của ngân
hàng thương mại cũng như bối cảnh Việt Nam hiện tại, em đã chọn đề tài: “
Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh


Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Chuyên đề chọn điểm nghiên cứu
thực tiễn tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng
Đông Á - chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tại ngân
hàng Đông Á - chi nhánh Hà Nội.
Tuy nhiên do trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm chưa
nhiều nên chuyên đề không tranh khỏi thiếu sót… em rất mong được sự đóng
góp ý kiến của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp ra đời từ khá
sớm gắn liền với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình hình thành và
phát triển của kinh tế đòi hỏi sự ra đời và phát triển của ngân hàng, đến lượt
mình, quá trình phát triển của ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua chức năng, các
dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các
yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều các tổ chức tài chính
bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng
khoán cũng đều đang cố gắng cung cấp những dịch vụ của ngân hàng. Ngược

lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và
môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ
và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Vì vậy, cách tiếp cận thận trọng nhất về ngân hàng thương mại có lẽ là
xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung
cấp. Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của trường đại học Kinh tế quốc
dân, Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

3
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế. Một số định nghĩa khác lại dựa theo các hoạt động chủ yếu
của ngân hàng thương mại. Theo luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các hoạt động cơ bản của ngân
hàng bao gồm:
* Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh tiền tệ dưới hình thức
huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt
động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - hoạt động này đóng vai trò rất
quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng
thương mại đã tìm mọi cách để huy động được tiền bởi nguồn tiền huy động
này là điều kiện cần để có thể thực hiện các hoạt động sử dụng vốn cho ngân
hàng. Một trong những nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại là các

khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ
nhận tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng
huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Để gia tăng nguồn
tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng
ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động
khác nhau: Nhận tiền gửi thanh toán; tiền gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn đa
dạng, hấp dẫn; huy động trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... Ngoài ra, khi cần vốn
cho nhu cầu thanh toán hay cho vay, đầu tư khác... ngân hàng có thể vay vốn từ
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

4
các ngân hàng khác, vay trên thị trường tài chính hay vay của ngân hàng Trung
ương.
* Hoạt động sử dụng vốn.
Với nguồn vốn huy động được, ngân hàng sử dụng vốn này vào nhiều
mục đích khác nhau nhằm mục đích sinh lời hoặc đảm bảo khả năng thanh
toán.
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất của
ngân hàng thương mại, song cũng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cao
nhất cho ngân hàng. Hoạt động này bao gồm:
 Hoạt động ngân quỹ: là hoạt động để đảm bảo khả năng chi trả, thanh
toán tiền mặt thường xuyên của ngân hàng. Nguồn đảm bảo cho hoạt
động này bao gồm các khoản tiền mặt trong quỹ của ngân hàng, tiền gửi
tại Ngân hàng trung ương hay các ngân hàng thương mại khác và tiền
mặt trong quá trình thu.
 Hoạt động đầu tư: Ngân hàng tham gia vào hoạt động đầu tư chứng
khoán, mua bán chứng khoán trên thị trường trái phiếu, kỳ phiếu. Ngoài
ra, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp bằng cách mua cổ phiếu các
công ty, các doanh nghiệp, hùn vốn với các doanh nghiệp để thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời…

 Các hoạt động sử dụng vốn khác: Quảng cáo, quảng bá, hoạt động tài
trợ, quản lý ngân quỹ cho khách hàng…
* Hoạt động trung gian.
Khi thực hiện hoạt động này, ngân hàng đóng vai trò trung gian, cung
cấp dịch vụ tài chính cho khách hàng. Bao gồm: cung cấp các dịch vụ chuyển
tiền, thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ đại
lý... Những hoạt động này khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí
giúp tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

5
* Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động cơ bản trên, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ
khác như: bảo quản tài sản hộ, cho thuê thiết bị,…
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm.
Thuật ngữ tín dụng ngân hàng xuất phát từ chữ Latinh ‘ Credium’ có
nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, sự tín nhiệm. Lòng tin ở đây không chỉ của
người đi vay mà cả người cho vay. Hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là sự chuyển
nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức tiền tệ hay
hiện vật trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và
khi đến hạn thì người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng
giá trị lớn hơn, khoản dôi đó được gọi là khoản lợi tức tín dụng. Còn hiểu theo
nghĩa rộng thì tín dụng gồm 2 mặt : Huy động vốn và cho vay.
Như vậy có thể rút ra khái niệm về tín dụng một cách đơn giản :
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
Từ khái niệm về tín dụng có thể rút ra khái niệm về tín dụng ngân
hàng như sau: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được thực hiện
dưới hình thức vốn tín dụng bằng tiền bao gồm tiền mặt và bút tệ.

1.1.2.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại bao gồm:
 Tín dụng thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiếu khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán, người bán
chuyển các khoản thu cho ngân hàng để lấy tiền trước. Sau đó, ngân
hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (người mua), giúp họ có
vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
 Tín dụng tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng thương
mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ cho
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

6
rằng các khoản cho vay tiêu dùng thường nhỏ lẻ và rủi ro mất vốn tương
đối cao. Song sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong hoạt động cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng
như một khách hàng tiềm năng.
 Tài trợ tín dụng cho dự án: Bên cạnh hoạt động truyền thống là các hoạt
động tín dụng ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động
trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà, phát triển các dây
chuyền công nghệ cao,… Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào
bất động sản. Hoạt động tín dụng có rất nhiều hình thức: tín dụng trả
góp, tín dụng trực tiếp từng lần, tín dụng gián tiếp,...
1.1.2.3.Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng có
thể phân theo nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể:
 Tín dụng phân chia theo thời hạn cấp tín dụng:
o Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay
không quá 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn nhằm mục đích bổ sung
vốn lưu động cho doanh nghiệp. Tín dụng ngắn hạn có đặc điểm :
Lãi suất thường thấp, tính thanh khoản của món vay cao và độ rủi

ro thấp.
o Tín dụng trung hạn: Thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm. Tín dụng
trung hạn nhằm mục đích tài trợ cho các tài sản cố định như sửa
chữa, mua sắm thêm phương tiện vận tải, thay đổi sản phẩm hàng
hoá … Tín dụng trung hạn có đặc điểm : Lãi suất thường cao, tính
thanh khoản của món vay thấp và độ rủi ro tương đối cao.
o Tín dụng dài hạn: Thời hạn cho vay trên 5 năm. Mục đích của hình
thức cấp tín dụng dài hạn là tài trở cho các công trình xây dựng cơ
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

7
bản như cầu đường, sân bay, máy móc thiết bị có giá trị lớn tời
gian sử dụng lâu dài phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều
rộng hoặc chiều sâu … Cho vay dài hạn có đặc điểm: Lãi suất và
độ rủi ro rất cao , tính thanh khoản của món vay lại rất thấp.
 Tín dụng phân chia theo đảm bảo:
o Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là việc cho vay vốn của tổ chức tín
dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo
đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ
vốn vay được bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng có tài
sản đảm bảo được chia thành tín dụng thế chấp và tín dụng cầm
cố. Tín dụng thế chấp là hình thức mà người nhận tài trợ phải
chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản
đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Tín
dụng cầm cố: Là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng
phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng
trong thời gian cam kết.
o Tín dụng không có tài sản đảm bảo: Loại tín dụng này thường
được cấp cho khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên, tình
hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ dây dưa khó đòi

hoặc cũng có thể cấp theo chỉ định của chính phủ. Tổ chức tín
dụng có thể lựa chọn khách hàng vay để cấp tín dụng không có
bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung han, dài hạn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển phương án sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đủ các điều
kiện sau:
+ Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong
quan hệ vay vốn với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tín dụng khác.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

8
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục đời sống khả thi, phù hợp với quy
định của pháp luật.
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ
chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đòng tín
dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản.
 Tín dụng phân loại theo hình thức tài trợ tín dụng.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được phân chia thành cho vay, bảo
lãnh, cho thuê,… Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính,
chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà nước quy
định.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho
vay kà tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định
lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuốc kỳ. Doanh số
cho vay trong kỳ là tổn số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ

cuốc kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuốc kỳ.
Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư
nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phong tổn thất
hoặc lãi được nhận trước.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

9
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khach hàng phải
trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (leasing)
được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền
thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê).
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài
sản ngoại bảng, đó là phần giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng
của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào nội
bảng.
1.1.2.4. Đặc điểm:
• Hoạt động tín dụng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Thông qua cơ chế chính sách thích hợp, ngân hàng huy động những khoản
nhàn dỗi để hình thành nguồn vốn cho vay nhằm bổ sung cho quá trình sản xuất
kinh doanh và đầu tư phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế.
• Các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy
động vốn và cấp tín dụng.
Hoạt động của các ngân hàng bao gồm hai nhiệm vụ tương đối độc lập là
huy động vốn và cho vay, khi ngân hàng nhận tiền gửi của dân cư, doanh

nghiệp, chính phủ thì ngân hàng là ngưòi đi vay.Khi ngân hàng cung ứng tiền
cho dân cư, doanh nghiệp, chính phủ thì ngân hàng là người cho vay.
• Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng phù hợp với
sự vận động và phát triển của tái sản xuất xã hội.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì vốn cũng là yếu tố không thể thiếu được
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh
càng mở rộng thì nhu cầu vốn lại càng cao trong đó vốn tín dụng sẽ cũng tăng
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

10
theo. Với trường hợp này thì tín dụng ngân hàng vận động phù hợp với qui mô
phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
1.1.3. Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại.
1.1.3.1. Khái niệm:
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng.
1.1.3.2. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn.
 Vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kỳ sản xuất kinh doanh của
khách hàng.
Tín dụng ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm thời
vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc cho
vay và thu nợ luôn diễn ra lúc vắt đầu và kết thúc của chu kì sản xuất kinh
doanh. Ngân hàng thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để
mua vật tư, nguyên vật liệu, hoặc trang trải các chi phí sản xuất và khi hàng hoá
được tiêu thụ, khách hàng có thu nhập, cũng là lúc ngân hàng thu hồi nợ. Xuất
phát từ đặc điểm này, các ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay trên cơ
sở chu kỳ sản xuất của người vay. Do vậy, thời gian thu hồi vốn trong cho vay
ngắn hạn nhanh.
 Rủi ro của khoản tín dụng ngắn hạn thấp hơn khoản tín dụng trung và dài
hạn do thời hạn thu hồi vốn nhanh, cũng vì vậy mà mức lãi suất tín dụng
ngắn hạn thấp hơn mức lãi suất tín dụng trung và dài hạn.

 Hình thức cấp tín dụng phong phú: Nhân hàng cung cấp ngày càng đa
dạng các loại hình thức cấp tín dụng ngắn hạn như: Cho vay mua hàng
dự trữ, cho vay vốn lưu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây
dựong, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho
vay trên tài sản… Điều này vừa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng, đồng thời giúp ngân hàng phân tán rủi ro.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

11
 Tín dụng ngắn hạn là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Do
nguồn tiền huy động được chủ yếu là nguồn ngắn hạn và sự phù hợp về
thời hạn giữa nguồn tiền và cho vay, nên ngân hàng chủ yếu cung cấp
các khoản tín dụng ngắn hạn. Trên thực tế chì tín dụng ngắn hạn thường
chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối, khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng và đem lại
phần lớn thu nhập cho ngân hàng thương mại.
1.2. Hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại.
1.2.1.Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương
mại.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, tín dụng là
một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi
tiềm ẩn nhiều rủi ro có khả năng xảy ra với tỷ lệ cao. Hiệu quả hoạt động tín
dụng được thể hiện bởi chất lượng, quy mô và khả năng cạnh tranh trong hoạt
đông tín dụng. Vậy, hiệu quả tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của
khách phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại của ngân
hàng. Hiệu quả tín dụng được hình thành và đảm bảo từ hai phía là ngân hàng
và khách hàng, bởi vậy hiệu quả tín dụng của ngân hàng không những phụ
thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh
doanh của khách hàng, ngoài ra tổ chức tín dụng còn chịu ảnh hưởng của môi
trường kinh tế xã hội.
Đối với tín dụng ngắn hạn, kì hạn chỉ không quá 12 tháng nên phải

phù hợp với mục đích sử dụng, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu
tư phát triển của khách hàng.Ngoài ra hiệu quả tín dụng ngắn hạn thể hiện ở
phạm vi, mức độ , giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực của
ngân hàng.
Như vậy, để một khoản vay có hiệu quả thì cần phải đặt ra những tiêu
chí để giám sát, lấy đó làm nền tảng để đánh giá cho các khoản vay sau này.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

12
Mỗi khoản vay có hiệu quả dẫn tới tổng hoà các khoản cho vay có hiệu quả và
từ đó hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ có hiệu quả. Hiếm khi tất cả các
khoản cho vay ra có thể thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn quy định, sẽ có một
tỷ các khoản cho vay không tuân theo quy luật thông thường đó, nhưng tỷ lệ là
bao nhiêu để không ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương
mại, tỷ lệ đó không xác định rõ trong từng thời điểm cũng như không có một
quy chuẩn nào để quy định tỷ lệ đó. Nhưng qua mỗi năm, ngân hàng tổng kết
được một tỷ lệ các khoản vay không thu hồi đúng hạn, từ đó làm căn cứ để so
sánh với số liệu của năm trước, so sánh với số liệu của toàn ngành. Nếu tỷ lệ
các khoản vay chưa thu hồi năm nay thấp hơn năm trước chứng tỏ hoạt động
tín dụng năm nay có nhiều biến chuyển mang tính tích cực. Mặt khác, tỷ lệ này
nếu được so sánh với số liệu của toàn ngành mà cao hơn cho thấy chất lượng
của các khoản cho vay của ngân hàng còn thấp hơn so với mặt bằng chung của
toàn ngành ngân hàng, ngân hàng dựa vào đó làm cơ sở để phân tích, đánh giá
cho những chính sách tín dụng sau này của ngân hàng.
1.2.2.Vai trò của hiệu quả tín dụng ngắn hạn.
Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn có một vai trò hết sức quan
trọng đến các doanh nghiệp, các cá nhân và đối với cả nền kinh tế. Tín dụng
ngắn hạn của ngân hàng cấp cho các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế đã đóng
góp rất nhiều tới sự phát triển của một đất nước. Tín dụng ngắn hạn đem đến
một nguồn vốn to lớn cho nền kinh tế, nó đã góp phần ổn định, duy trì và mở

rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là một
phần không thể thiếu trong chính sách phát triển của bất kì một nền kinh tế nào.
 Đối với chính ngân hàng :
Thứ nhất, hoạt động tín dụng ngắn hạn là loại hoạt động mang lại
nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Để hoạt
động tín dụng của ngân hàng có hiệu quả thì ngân hàng cần xem xét, đánh giá
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

13
mỗi khách hàng vay của mình thật kỹ lưỡng để từng khoản vay có chất lượng.
Hiệu quả tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ
ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo ở mức tối thiểu và hợp lý.
Ngân hàng nên đặt khách hàng vào môi trường kinh doanh hiên tại của chính
các doanh nghiệp, để đánh giá xem họ có đang kinh doanh trong thị trường như
thế nào, những mặt hàng của doanh nghiệp sau khi sản xuất có khả năng tiêu
thụ hay không… tìm hiểu về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ
giúp ngân hàng nắm bắt được đồng vốn mà ngân hàng cho vay có được sử
dụng đúng mục đích và hiệu quả không.
Thứ hai, hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn tăng khả năng hoạt động
của ngân hàng do tao được vòng quay vốn lớn, đảm bảo được nguồn vốn lớn
luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng
tăng khả năng sinh lợi, giảm những chi phí phát sinh như chi phí nghiệp vụ, chi
phí bảo quản, chi phí quản lý, chi phí cơ hội do thu hồi vốn chậm,… Từ đó cải
thiện được tình hình tài chính tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng thương
mại.
Thứ tư, hiệu quả tín dụng có tác động đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tốt sẽ giúp ngân hàng tạo dựng được một
hình ảnh tốt đẹp trong mắt khách hàng, uy tín của ngân hàng tăng lên, từ đó thu
hút thêm được nhiều khách hàng đến gửi tiền vào ngân hàng. Nó tạo nên một

cơ sở bền vững lâu dài cho ngân hàng thương mại thể hiện ở chỗ, ngân hàng
ngày càng thu hút được nhiều khách hàng trung thành và đáng tin cậy. Những
khách hàng này sẽ không chi vay ngân hàng mà còn có xu hướng sử dụng nhiều
dịch vụ khác của ngân hàng như: quản lý ngân quỹ, tư vấn tài chính, bao thanh
toán,… Những khách hàng thân quen trở thành một phần không thể thiếu trong
hoạt động của ngân hàng thương mại.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

14
 Đối với khách hàng :
Tín dụng ngắn hạn tạo ra một nguồn vốn bổ sung kịp thời cho các
doanh nghiệp đang thiếu vốn tạm thời hoăc gặp khó khăn về mặt tài chính.
Trong nhiều trường hợp tín dụng ngắn hạn còn là giải pháp tiết kiệm cho các
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt kịp những cơ hội kinh doanh,
tận được những thời cơ kiếm lợi.
Tín dụng ngắn hạn đôi khi trở thành một phần trong chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp và nó đóng vai trò như một đòn bẩy tài chính giúp
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và thu được nguồn lợi nhuận to lớn.
Tín dụng ngắn hạn đồng thời là động lực, yếu tố kích thích sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện trong hợp đồng tín dụng giữa ngân
hàng và doanh nghiệp tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có
hiệu quả cố gắng quay vòng vốn nhanh, tìm kiếm các chính sách có hiệu quả
nhất nhằm mục đích kiếm lợi nhuận và trả nợ.
Mặt khác, thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu
khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm
bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Như vậy hiệu quả tín dụng là sự
đáp ứng nhu cầu khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.
 Đối với nền kinh tế :
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng bậc

nhất trong nền kinh tế. Đó là nợ tích tụ tập trung và cũng là nơi cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Tín dụng là hoạt động mang tính chất đầu tư của ngân hàng
thương mại. Các trung gian tài chính khác như công ty bảo hiểm, công ty cho
thuê tài chính, thị trường chứng khoán, quỹ đầu tư,… chủ yếu cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế, chính vì vậy, trách nhiệm cung cấp vốn ngắn
hạn thuộc về các ngân hàng thương mại.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

15
Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn đang gia tăng không ngừng
trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đạt lợi nhuận
cao, thúc đẩy chuyển tiết kiệm thành đầu tư, tận dụng tối đa nguồn tiền nhàn rỗi
trong lưu thông.
Nâng cao hiệu quả trong tín dụng ngắn hạn nghĩa là khách hàng thực
hiện được các mục tiêu vay vốn của mình, từ đó tạo những thương hiệu uy tín
nhất định thị trường trong nước và quốc tế, cải thiện vị trí trong danh mục đầu
tư quốc tế.
Chất lượng tín dụng phải tạo ra được các hiệu quả xã hội như phục vụ
sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho
xã hội góp phần tăng trương kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền
kinh tế, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế.
Nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn tăng khả năng cạnh tranh giữa
các ngân hàng thương mại cũng như thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngân hàng.
Đồng thười xu hướng trên tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hạn
chế rủi ro, thị trường tài chính nhờ vậy mà có mối quan hệ chặt chẽ thống nhất,
bổ sung cho nhau.
Từ những điều trên có thể rút ra :
Hiệu quả tín dụng ngắn hạn là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh
mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại và sự thay đổi của môi trường
bên ngoài. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố : thu hút được

khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng…
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng thương mại..
Đối với NHTM, cho vay có vai trò quan trọng trong phát triển hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Nhờ có hoạt động tín dụng mà một ngành
ngân hàng có thể mở rộng màng lưới kinh doanh, tăng quy mô nguồn vốn huy
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

16
động và khả năng cho vay của mình, vì tín dụng góp phần đem lại tới 80% lợi
nhuận cho ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng,
mỗi ngân hàng cần phải tìm biện pháp nâng cao chất lượng đối với các khoản
cho vay và cho thuê của mình. Thực tế, chất lượng hoạt động tín dụng là một
khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một
cách chính xác. Thông thường để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của
một ngân hàng thương mại, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau,
nhưng về bản chất chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được
đánh giá qua các chỉ tiêu sau :
1.2.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định tính:
Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng trên cơ sở pháp lý,
việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ, việc thực hiện theo đúng cam
kết trong hợp đồng tín dụng.
- Trên cơ sở pháp lý, hoạt động tín dụng có hiệu quả phải chấp hành
pháp luật của Nhà nước, cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho
vay, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và của ngân hàng Nhà nước và các văn
vản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Trên cơ sở quy chế tín dụng của ngân hàng thương mại, hoạt động
tín dụng có hiệu quả luôn phải tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ tín
dụng. Từ những đặc điểm riêng có của mình, hầu hết các ngân hàng đều nghiên
cứu và đưa ra những quy chế tín dụng phù hợp nhất cho bản thân ngân hàng,

tuy nhiên về bản chất nó đều hướng tới một mục đích chung, đó là hiệu quả
trong tín dụng. Cụ thể là các ngân hàng lập ra sổ tay tín dụng, trong đó đưa ra
các khái niệm, quy định, các quy trình và các hướng dẫn cụ thể dành cho các
cán bộ ngân hàng. Các quy định trong quy trình cho vay được áp dụng cụ thể
cho từng trường hợp xin vay ở mỗi ngân hàng là nhằm thực hiện việc cho vay
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

17
có chất lượng. Do vậy việc tuân thủ những quy trình là tiền đề của hiệu quả tín
dụng.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay: Trước khi tiến hành hoạt động cho
vay đối với một khách hàng nào đó, ngân hàng thương mại và khách hàng sẽ
tiến hành lập một hợp đồng, trong đó có quy định những điều khoản quan trọng
như: thời hạn cho vay, số tiền vay, mục đính sử dụng tiền vay, phương thức trả
nợ, trả lãi, ngày trả nợ gốc,trả lãi,…; Kèm theo hợp đồng tín dụng có thể là một
phụ lục hợp đồng trong đó có ghi các điều khoản kèm thêm do thỏa thuận của
hai bên khi trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay cần có những sự điều
chỉnh cần thiết. Một khoản vay sẽ không thể được coi là hiệu quả khi mà khoản
vay đó không được sử dụng đúng mục đích hay được trả không đúng hạn,…
Các nhóm chỉ tiêu định tính trên đây có thể đánh giá một phần nào đó về hiệu
quả của các khoản vay của ngân hàng và đó dường như không thể thiếu trong
bất cứ một nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, để xem
xét tính hiệu quả tín dụng ngắn hạn một các chi tiết hơn, toàn diện hơn thì
không thể bỏ qua nhóm các chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng:
*Vòng quay vốn tín dụng.
Chỉ tiêu này đánh giá tần suất sử dụng vốn (hiệu quả sử dụng vốn)
của ngân hàng trong một thời gian nhất định.
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ/Dư nợ bình quân.
Vòng quay vốn tín dụng lớn chứng tỏ vốn ngân hàng đã luân chuyển

nhanh, tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
Với số lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ quay vòng vốn tín dụng nhanh nên
ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà
còn có thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho doanh nghiệp khác phát triển sản
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

18
xuất. Vòng quay vốn tín dụng tăng phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng tốt,
khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng có hiệu quả, thường trả nợ đúng hạn.
* Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Bất kỳ một ngân hàng nào thì chỉ tiêu này cũng rất quan trọng, chỉ
tiêu này đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đánh giá mức độ hiệu quả
sử dụng tài sản của nhà quản ly .
Đây là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay đối
với khách hàng. Trong hoạt động cho vay phải thực hiện được lãi suất dương,
có nghĩa là lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với các chi phí
nghiệp vụ ngân hàng. Ngân hàng có thể tuỳ thời gian điều kiện kinh doanh cụ
thể để có chính sách khách hàng hợp ly, nhằm mở rộng đầu tư tín dụng thu hút
khách hàng mà vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao nhất. Lợi
nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ các khoản vay đã thu hồi được cả gốc và
lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay.Bằng việc so sánh các chỉ tiêu này
giữa các ngân hàng nên có thể đánh giá, xếp loại chất lượng tín dụng của các
ngân hàng.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này có thể nói là quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín
dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau :
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn/Tổng dư nợ)*100
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nét nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của
ngân hàng thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả

đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào,
ra. Với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả
năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện
chất lượng tín dụng ở ngân hàng cao, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp vì nó
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

19
nói lên trong các khoản cho vay của ngân hàng chỉ có một số ít các khoản vay
không hoàn trả đúng thời hạn.
* Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Chỉ tiêu này phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ
(1 năm) bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chât lượng tín dụng thấp vì ngân
hàng không có khả năng mở rộng cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém,
trình độ đội ngũ nhân viên không cao. Tuy nhiên, khi xét chỉ tiêu này chúng ta
không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng
trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ
số này phản ánh một cách tốt nhất. Tuy vậy tông dư nợ cao chưa chắc đã phản
ánh chất lượng tín dụng cao, vì vậy chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất,
ta thường dùng để tính hệ số sử dụng vốn vay.
Hệ số sử dụng vốn vay = Tổng số dư nợ/Tổng nguồn vốn huy động.
Hệ số này phản ánh kêt quả sử dụng vốn để đầu tư của NHTM, hệ số
luôn nhỏ hơn 1, nếu hệ số gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn
vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngắn hạn của ngân hàng
thương mại.
1.3.1. Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của
ngân hàng, điều này thấy rõ ở đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Nhà
nước, của mỗi địa phương và ở mức độ phát triển của mỗi quốc gia, ở từng địa
phương.

Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so
với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản kí
thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với
các khoản kí thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

20
phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái
vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể giảm sút từ đó gây lên tình trạng ngân
hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách
tín dụng của ngân hàng là đường lối chủ trương của quốc gia, địa phương. Lý
do chủ yếu để ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng
của cộng đồng, xã hội. Về mặt lý luận các ngân hàng chỉ cho người nào vay
tiền nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế,
nhưng theo chủ trương của Nhà nước.
Tóm lại hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng
nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro nhiều hay ít có quan hệ hữu cơ với
sự phát triển kinh tế của quốc gia.
1.3.2. Môi trường pháp lý.
Nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt
động tín dụng nó tạo môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của ngân
hàng. Nhân tố pháp luật ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật,
tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với
quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể lệ tín dụng của ngành đúng với luật ngân
hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng
tín dụng. Bất kỳ một điều khoản nào, một quy định nào chưa phù hợp với thực
tiễn đều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập
chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và

hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy, việc vận
dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp
lý đầy đủ cho hoạt động ngân hàng là vấn đề có nhiều ảnh hưởng rất lớn đền
hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

21
1.3.3. Về phía khách hàng vay vốn.
Trong khi doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác trực tiếp sử dụng
quản lý vốn của mình thì ngân hàng sử dụng vốn của mình dười hình thức gián
tiếp đó là giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của
mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn.
Do vậy chất lượng tín dụng ngân hàng chịu nhiều chi phối rất lớn từ
bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn. Các yếu tố của khách
hàng có ảnh hưởng chính đến chất lượng tín dụng đó là :
Năng lực về vốn và tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đủ
vốn cố định và vốn lưu động để thực hiện nhiệm vụ của mình không, một
doanh nghiệp có nguồn vốn dồiđào, nguồn vốn ít bị phụ thuộc vào ngân hàng,
vào các chủ nợ khác thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng là cao hơn so với
doanh nghiệp có vốn chủ yếu là đi vay. Giá trị thực của một doanh nghiệp là
một tài tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của chính họ, và thường là một
trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng
cho doanh nghiệp đó vay.
Khối lượng và chất lượng tài sản của doanh nghiệp nói lên sự thận
trọng và tháo vát của nhà quản lý doanh nghiệp đồng thời một số hoặc tất cả tài
sản có thể đảm bảo cho khoản vay. Điều đó có ý nghĩa các khoản vay sẽ được
hoàn trả. Tuy nhiên chúng ta phải chú y một điều tuy các tài sản đó giảm bớt
rủi ro cho ngân hàng nhưng các ngân hàng vẫn mong muốn vốn vay sẽ được trả
từ lợi nhuận bởi vì điều đó chứng minh rằng vốn của ngân hàng đã được sử
dụng có hiệu quả.

Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay
xấu, tương lai của doanh nghiệp phát triển ở mức độ nào, dư án, phưong án sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được
trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không. Điều này cổ
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

22
phần hoá ý nghĩa quyết định cho số phận món tiền ngân hàng cho vay, nếu
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn của
ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả.
Mức độ chuyển biến nhận thức, quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo
doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao. Họ đã có đầy đủ ý thức
và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cap
trông chờ nguồn vốn được cấp được vay ưu đãi. Trình độ doanh nghiệp ở mức
độ nào, đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một
doanh nghiệp trở nên hưng thịnh, phát triển trong khi một doanh nghiệp khác bị
thua lỗ, suy sụp. Sự khác biệt này có nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ
chất lượng quản lý và đây cũng là yếu tố quyết định khiến cho doanh nghiệp có
được vay vốn ngân hàng hay không và qua đó để đánh giá phần nào chất lượng
tín dụng của ngân hàng.
Như vậycó thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả,
đảm bảo trả nợ ngân hàng và có lợi nhuận cho người vay các doanh nghiệp có
trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển
được vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
1.3.4 Nhân tố chủ quan của ngân hàng.
* Chất lượng cán bộ tín dụng.
Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ ngân hàng trong cơ
chế thị trường có ảnh hưởng to lớn tới chất lượng món vay của ngân hàng.
Chúng ta đang đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật

là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian chung cho tất
cả các nước, các thị trường tài chính mở rộng phạm vi hoạt động dường như
không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho ngân hàng vừa làm sâu
sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt ngân hàng trước những thử thách mới. Bởi
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

23
vậy nếu ngân hàng nào không nhận thức được vấn đề này, không tự đổi mới
tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh của riêng mình, có hướng đi và chính
sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển trong đó chiến lược
con người giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế cho thấy nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng
tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng
đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những
cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của ngân hàng, đánh giá sai
tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát của mình đối với các doanh nghiệp để rồi dẫn
đến ngân hàng chịu toàn bộ rủi ro.
* Chính sách tín dụng
Với tầm quan trọng và quy mô lớn của tín dụng, hoạt động này được
thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều
năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ
của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân
viên ngân hàng. Chính vì vậy, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín
dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và
nâng cao khả năng sinh lời là một nhiệm vụ quan trọng cần được đặt ra cho bất
kỳ một ngân hàng thương mại nào. Tuy nhiên, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà
ngân hàng có thể đưa ra những chính sách tín dụng phù hợp như chú trọng vào
nhóm khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa hay các doanh nghiệp lớn,
quốc doanh hay ngoài quốc doanh, tài trợ nhập khẩu, xuất khẩu, tài trợ tiêu
dùng,… Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng chú trọng tới đối tượng khách

hàng là các doanh nghiệp nhập khẩu thì ngân hàng sẽ đưa ra những ưu đãi cụ
thể về lãi suất, thời hạn vay, thủ tục và các điều kiện vay… đối với nhóm doanh
nghiệp này đồng thời có biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với nhóm
doanh nghiệp này.
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

24
Một chính sách tín dụng được gọi là thành công nghĩa là nó mang lại
hiệu quả cho món vay đó. Chính sách tín dụng của ngân hàng cần được xây
dựng hợp lý, đúng đắn nhưng rất cần tính linh hoạt. Nếu chính sách được thực
hiện quá cứng nhắc thì ngân hàng rất khó có thể thực hiện được món vay, giảm
tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Với mức lãi suất đa dạng cho
từng loại hình vốn vay và kỳ hạn phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp sẽ làm tăng tính hiệu quả của món vay, tức là nâng cao hiệu
quả tín dụng.
* Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là tất cả các bước mà ngân hàng thực hiện khi cấp
tín dụng đối với khách hàng, kể từ khi khách hàng nộp đơn xin vay vốn đến khi
ngân hàng thu cả nợ gốc và lãi.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với
khách hàng, các ngân hàng đặt ra quy trình tín dụng và thực hiện cấp tín dụng
theo quy trình này.
Quy trình tín dụng bao gồm các bước sau:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Phân tích trước khi cấp tín dụng là hoạt động thu thập và phân tích
thông tin về khách hàng (ngành nghề kinh doanh, tình hình tài chính,…),
phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng và thẩm định tài sản thế chấp
trước khi cấp tín dụng của ngân hàng.
Có thể nói, phân tích trước khi cấp tín dụng chính là khâu quan trọng
nhất ảnh hưởng đến chất lượng của món vay đó. Công việc này cần tính chặt

chẽ, chính xác, có thực tế nhưng cũng rất cần sự linh hoạt, trình độ của cán bộ
tín dụng cũng như sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết
định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có
thể dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa
Lê Hồng Phong Ngân hàng 45 B

25

×