Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

LUẬN VĂN: lý thuyết tích luỹ tư bản về mặt chất, mặt lượng và ý nghĩa của nó với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.97 KB, 22 trang )











LUẬN VĂN:

lý thuyết tích luỹ tư bản về mặt chất, mặt
lượng và ý nghĩa của nó với việc quản lý
các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay



















đặt vấn đề
Sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi đúng đắn cuả Đảng và
Nhà nước ta. Những thành tựu đã đạt được trong 15 năm qua là sự cố gắng của
nhiều cấp nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế đem lại bộ mặt phát triển cho Việt
Nam tạo bước đi và khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới. Một trong các
yếu tố đem lại thành công thì vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn là yếu tố quan
trọng và cơ bản nhất bởi lẻ nó là điều kiện cần thiết, yêu cầu tất yếu đối với quá
trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đặc biệt là Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Tích luỹ vốn để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng cho mục
tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong doanh nghiệp vấn đề tích luỹ vốn được xem là yếu tố để doanh nghiệp
có thể mở rộng sản xuất tăng khả năng cạnh tranh và đem lại thu nhập cao trong
tương lai, cùng với nó việc phân bố và sử dụng hiệu quả cũng là bài toán đòi hỏi các
doanh nghiệp cần có sự lựa chọn và đưa ra các quyết định cần thiết. Thấy rõ được
tầm quan trọng của việc tích luỹ vốn hiện nay, trong giới hạn của bài viết này em
tập trung nghiên cứu vấn đề tích luỹ tư bản ở các góc độ mặt chát và mặt lượng
đồng thời đưa ra các giải pháp có tính khả thu nhằm thúc đẩy quá trình tích luỹ đáp
ứng nhu cầu trong doanh nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung trong giai
đoạn tới. Bài viết dưới dạng để án của môn Kinh tế chính trị nên nội dung gồm có:
Phần I : Lý luận chung về tích luỹ tư bản
Phần II: Làm rõ các khái niệm: doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phần III: ý nghĩa thực tiênhững mà việc nghiên cứu.



Giải quyết vấn đề

A. Lý luận chung về tích luỹ tư bản
I. Mặt chất của tích luỹ tư bản.
1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản.
Để làm rõ khái niệm thế nào là tích luỹ tư bản?
Chúng ta cần phân biệt tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp đi
lặp lại và đổi mới không ngừng theo một qui mô không đổi năm sau bằng năm
trước, còn tái sản xuất mở rộng cũng là quá trình sản xuất và đổi mới không ngừng
với qui mô năm sau lớn hơn năm trước. Đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa tư bản là
tái sản xuất mở rộng (mở rộng sản xuất) muốn thực hiện điều đó thì số giá trị thặng
dư mà nhà tư bản bóc lột của công nhân không được đem hết cho tiêu dùng mà phải
giành một phần cho tích luỹ để mua thêm tư bản khả biến và tư bản bất biến cho
đầu vào của quá trình sản suất. Như vậy tích luỹ tư bản bằng cách tư bản hoá giá trị
thặng dư.
Ví dụ: Có một nhà tư bản cá biệt có lượng tư bản là 100(đv) trong đó gồm
80c và 20v. Nếu m’=100% thì sẽ thu được 20m. Giả sử trong 20m đó một nửa dành
cho tiêu dùng cá nhân và một nửa cho tích luỹ (10m) số 10m này 8m cho c phụ
thêm và 2m cho v phụ thêm. Như vậy đầu năm sau lượng tư bản sẽ là 110(đv) trong
đó 88c và 22v.
ở đây hưởng thụ của nhà tư bản và ý muốn làm giàu của họ về cơ bản là
thống nhất với nhau vì ý muốn làm giàu tuy trước mắt có thể ảnh hưởn tới hưởng
thụ của nhà tư bản nhưng về lâu dài nó lại tăng hưởng thụ của nhà tư bản do đó ý
muốn chủ quan của nhà tư bản phù hợp với qui luật khách quan của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Ngày nay tư bản tích luỹ chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong
toàn tư bản, lúc đầu bằng một lượng tư bản nhỏ và tài khéo léo của mình mà nhà tư
bản đã làm cho qui mô và lợi nhuận không ngừng lớn mạnh. Các-mac đã nói “Tư
bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ mà thôi”.



Động cơ của TLTB và tái sản xuất mở rộng TBCN. Mục đích của sản xuất tư

bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị để thực hiện mục tiêu đó các nhà tư bản
không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng xem đó là phương tiện để bóc lột
công nhân và làm giàu cho bản thân.
Như vậy tích luỹ giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản lớn
nhanh muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có vốn lớn tích luỹ là nguồn gốc cơ bản
tạo ra vốn lớn đó. Tích luỹ vốn gắn chặt với quá trình tái sản xuất mở rộng vì vậy
muốn mở rộng sản xuất thì nhà tư bản phải tích luỹ vốn và chiếm dụng vốn . Mặt
khác do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải tích luỹ không ngừng làm cho tư bản
của mình tăng lên. Nếu không tích luỹ thì không thể đứng vững trên thị trường đồng
nghĩa với sự phá sản. Trên thực tế ban đầu nhà tư bản rất tiết kiệm để đầu tư mở
rộng sản xuất để hy vọng vào kết quả đầu tư sản xuất của mình và tiêu dùng tư bản
tăng lên cùng với thời gian cùng với sự lớn mạnh của qui mô tích luỹ.
ở nước ta thì tích luỹ là để mở rộng sản xuất nâng cao hiệu quả sản xuất và
xã hội vì mục tiêu cuả giai cấp công nhân và của toàn xã hội, mục tiêu “dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Tích luỹ vốn được chúng ta coi là chiến
lược và là chìa khoá của sự thành công trong quá trình phát triển.
2. Mặt lượng của tích luỹ.
Mặt lượng của tích luỹ TB chính là qui mô khối lượng của tư bản cho tích
luỹ, nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tư bản dành cho tích luỹ chính là
khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư k cho tiêu
dùng và đầu tư của nhà tư bản. Do đó nhân tố làm tăng qui mô tích luỹ cũng chính
là nhân tố làm tăng lượng giá trị thặng dư các nhân tố đó là:
Một là mức độ bóc lột sức lao động công nhân làm thuê cho nhà tư bản có
nghĩa là họ đã bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tận dụng thuần lợi này
nhà tư bản bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công nhưng biện pháp
mà nhà tư bản áp dụng chủ yếu đó là tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động đã làm khối lượng giá
trị thặng dư tăng lên và đã làm tăng tích luỹ. Việc tăng cường độ lao động và kéo




dài ngày lao động còn mang lại thuận lợi nữa đó là nhà tư bản được nhiềusản phẩm
lao động hơn trong khi không cần tăng thêm tư bản bất biến mà chỉ cần tăng thêm
nguyên vật liệu.
Hai là trình độ năng xuất xã hội, việc nâng cao năng xuất xã hội làm tăng
thêm giá trị thặng dư và tăng thêm yếu tố vật chất cho qúa trình tích luỹ khoa học kĩ
thuật phát triển thì qui mô của tích luỹ càng lớn và do đó ảnh hưởng đến qui mô của
tư bản xã hội.
Ba là sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Trong quá trình
sản xuất các bộ phận cấu thành nên máy móc đều hoạt động tức là nó tham gia hết
vào quá trình sản xuất nhưng chúng chỉ hao mòn dần do đó giá trị được chuyển từng
sản phẩm do vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Những
máy móc khi đã khấu hao hết nhưng vẫn thể dùng cho sản xuất chẳng khác nào lực
lượng tư bản.
Bốn là qui mô của tư bản ứng trước; với một trình độ bóc lột không đổi thì
khối lượng gía trị thặng dư phụ thuộc vào tư bản ứng trước, do vậy tư bản ứng trước
càng nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư càng lớn.

Xuất phát từ công thức
v
m
m '

Khi m’ không đổi thì v càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư càng nhiều
tạo điều kiện để tăng qui mô của tích luỹ TB. Ngày nay do cấu tạo hữu cơ tư bản
c/m tăng lên mới nhìn ta tưởng rằng người lao động ngày càng được nghỉ ngơi thế
nhưng thực tế ngược lại họ càng phải làm việc căng thẳng bị vắt kiệt sức bởi cường
độ lao động và sự tập trung cao độ trong lao động.
3. Mối quan hệ giữa tích luỹ, tích luỹ tập trung tư bản.
Một trong những qui luật của tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung

vốn ngày càng tăng. Tích tụ vốn là sự tăng lên của qui mô tư bản cá biệt bằng việc



biến một phần lợi nhuận thành vốn đầu tư phụ thêm vào chu kì sản xuất tiếp theo
tích tụ vốn là kết quả của quá trình tích luỹ vốn. Khối lượng lợi nhuận mà doanh
nghiệp tạo ra ngày càng lớn chính là điều kiện để doanh nghiệp có thể chuyển một
phần lợi nhuận để tích luỹ vốn và không ngừng tăng qui mô sản xuất.
Trong quá trình tích luỹ vốn còn xảy ra quá trình tập trung tư bản. khác với
tích luỹ và tích tụ tập trung tư bản là tập trung khối lượng lớn vào tay một người
này thì nó biến khỏi tay nhiều người ở nơi khác. Sự tiến bộ của tích luỹ cũng làm
tăng thêm vật liệu cho sự tập trung tức là làm tăng thêm vật liệu theo sự tập trung
tức là làm tăng thêm những tư bản cá biệt vì vậy muốn thực hiện thì trước đó phải
tập trung tư bản. Như vậy tập trung vốn là sự tăng thêm qui mô vốn của doanh
nghiệp cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều doanh nghiệp cá biệt có sẵn thành một
doanh nghiệp mới có qui mô lớn hơn.
Tập trung vốn có thể được thực hiện theo kiểu cá lớn nuốt cá bé hoặc chính
quá trình cạnh tranh sẽ thúc đẩy các nhà doanh nghiệp riêng lẻ liên kết lại với nhau
hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường
và mặt khác cũng là sự phá sản. Hơn nữa tập trung vốn còn được thực hiện qua con
đường tín dụng, chính tín dụng làm tăng ưu thế của doanh nghiệp có vốn lớn giành
quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thương trường,
thôn tính vốn của các doanh nghiệp cạnh tranh. Tích tụ và tập trung tuy có sự khác
nhau về nguồn tích luỹ nhưng nó đều giúp các doanh nghiệp có đủ vốn để thắng
trong cạnh tranh.
Hiện nay trên thế giới mô hình KTTT đang được áp dụng rộng rãi và đem lại
hiệu quả bên cạnh những mặt hạn chế. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế đặc biệt ở
các nước TB chủ nghĩa diễn ra ngày càng khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp không
ngừng tích luỹ mở rộng sản xuất thông qua các thị trường cổ phiếu, tài chính, tín
dụng tạo ra một xu hướng giảm tiêu dùng để có được những khoản thu nhập lớn

hơn trong tương lai.ở các nước đang trong giai đoạn phát triển thì vấn đề đặt ra là
những khó khăn về kĩ thuật, công nghệ quản lý tiến tiến trình độ chuyên môn, đặc
biệt là vốn yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển. Họ phải khắc phục những
khó khăn đó, trước mắt điều quan trọng nhất họ phải huy động vốn đầu tư cho phát



triển sản xuất. Vấn đề là phải huy động vốn ở đâu và như thế nào để đạt được hiệu
quả tối ưu phải chăng là từ nội lực: thông qua tiết kiệm trong mọi tầng lớp dân cư
mọi tổ chức xã hội, mọi cấp mọi ngành để đẩy mạnh tích luỹ, và huy động từ nước
ngoài qua các chương trình viện trợ, cho vay, liên doanh liên kết. Việt Nam hiện
nay cũng gặp nhiều vấn đề tồn tại trong việc huy động và sử dụng vốn cho quá trình
tích luỹ và tái sản xuất mở rộng đó là bài toán khó đặt ra đòi hỏi sừ nỗ lực của các
doanh nghiệp các thành phần kinh tế.
Tóm lại việc nghiên cứu mặt chất và mặt lượng TLTB có ý nghĩa thực hiện
đối với nước ta. Nếu ta trìu tượng hoá quan hệ TBCN thì các doanh nghiệp của
chúng ta cùng phải tích luỹ để mở rộng sản xuất hiện đại hoá sản xuất. Nguồn gốc
của sự tích luỹ cũng là sản phẩm thặng dư do người lao động tạo ra tạo thành vốn
cho các doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp cần tăng qui mô tích luỹ mở rộng
sản xuất làm ăn hiệu quả. Quy luật chung của sự tích luỹ tư bản.
Tích luỹ tư bản là nguyên nhân dẫn đến phân cực trong xã hội, xã hội sẽ xuất
hiện hai giai cấp đối lập nhau về quyền lợi một giai cấp gồm một số ít người với số
lượng của cải khổng lồ. Một giai cấp nghèo làm công ăn lương. Đó là biểu hiện của
sự mâu thuẫn trong xã hội tư bản “sự đối lập giữa tính xã hội hoá sản xuất với tính
chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa”. Sự mâu thuẫn sẽ ngày càng trở nên gay
gắt đòi hỏi giai cấp tư bản tự điều chỉnh để cho người lao động có cuộc sống đầy đủ
hơn.





II. Làm rõ hơn khái niệm về doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp trong nền
KTTT định hướng XHCN.
1. Việc ứng dụng lý thuyết này vào thực tiễn là yêu cầu khách quan để nhằm
mục đích em xin trình baỳ các khái niệm làm cơ sở cho việc làm rõ vấn đề. Doanh
nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh
doanh trên thị trường nhằm mục đích tăng thêm giá trị tài sản do mình sở hữu. Vốn
là toàn bộ nguồn lực mà doanh nghiệp có thể có cho quá trình đầu vào hoạt động
kinh doanh đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong tình hình hiện nay doanh
nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta lú hình thức mà doanh nghiệp tồn tại là doanh nghiệp nhà nước
doanh nghiệp liên doanh liên kết và doanh nghiệp tư nhân. Họ làm ăn nhanh nhậy
và hiệu quả đem lại bộ mặt phát triển cho Việt Nam.
Để tiến hành công việc sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có tư liệu
sản xuất và nhân công mà muốn có nó doanh nhiệp phải có vốn để trang trải cho
hoạt động của mình ngoài vốn do chính chủ doanh nghiệp bỏ ra hoặc được bổ xung
từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra để mở rộng sản xuất thì
doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân cư, các tầng lớp xã
hội hoặc qua các kênh thu vốn như ngân hàng, các tổ chức tín dụng, từ ngân sách
nhà nước, từ nước ngoài.
2. Vai trò của vốn.
Vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội và
tiến bộ xã hội, nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh
tốc độ kinh tế nhờ đó đời sống nhân dân ngày một nâng cao các nguồn lực về con
người tài nguyên được khai thác hiệu quả hơn từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh
tế của đất nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá. Đại hội Đảng IX đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp tiến tới ra nhập các tổ chức thương mại WTO, AFTA
và hội nhập với thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực của toàn




Đảng toàn dân, mọi cá nhân mọi tổ chức trong nền kinh tế đặc biệt phải nhấn mạnh
vai trò chủ đạo của doanh nghiệp vấn đề đặt ra là phải sử dụng nguồn vốn sao cho
đạt hiệu quả cao nhất nhiều yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải đổi mới công
nghệ tạo ra sản phẩm nới có sức cạnh tranh cao không những thế vốn còn để tăng
cường để mở rộng sản xuất kinh doanh để đầu tư cho lĩnh vực mới vào công nghệ
mũi nhọn để mở rộng ảnh hưởng trên thị trường của doanh nghiệp. Thực tế đặt ra
cho các doanh nghiệp là phải huy động vón việc này phụ thuộc vào chính sách huy
đoọng vốn của nhà nước và khả năng của từng doanh nghiệp. vì vậy doanh nghiệp
cần phải thực hiện tiết kiệm dồn tiền cho mở rộng sản xuất ở kì tiếp theo.
Ngày nay hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh thật đa dạng họ chủ động
sản xuất kinh doanh trên môi trường ngày càng hoàn thiện họ hoạt động vì quyền
lợi thiết thực của bản thân họ. Doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất ngoài việc
đưa vào nguồn vốn tự có họ phải dựa vào nguồn lực từ nội bộ và từ bên ngoài
doanh nghiệp.




III. ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu.
1. Thực trạng của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
Quá trình hội nhập kinh tế buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn và thách thức. Điều cần thiết nhất là gắn liền với việc thực hiện lộ
trình hội nhập cần phải xây dựng và thực hiện cho được một lộ trình nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế xác định các công việc cụ thể cho từng ngành, từng
giai đoạn đồng thời khẩn trương ban hành các chính sách biện pháp cụ thể và tổ
chức thực hiện triệt để kiên quyết nhằm thực hiện lộ trình đó. Nền kinh tế thị trường
hiện nay đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời có thêm một

số loại thị truờng mới như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường
khoa học công nghệ
Về vốn đầu tư năm 2000 chính phủ và ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều biện
pháp khuyến khích đầu tư vay vốn song tỷ lệ số doanh nghiệp có số vay ngân hàng
vẫn giũ ở mức là 74% trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp đi vay từ nguồn khác tăng lên
63%. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân việc đi vay các nguồn vốn cho đầu
tư phát triển vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay còn
nhiều bất cập về cơ chế xuất khẩu và chất lượng hoạt động nhất là những yếu kiện
trong việc ổn định thị trường thiếu linh hoạt và chủ động trong xử lý giá và thiết lập
các kênh phân phối cho hàng hoá Việt Nam tỷ lệ hàng gia công còn lớn, sản phẩm
có hàm lượng công nghệ cao chiếm tỷ trọng không đáng để dịch vụ cho việc coi
trọng như một lĩnh vực đem lại hiệu quả cao cho xuất khẩu. Một vấn đề quan trọng
khác có liên quan đến sức cạnh tranh trong doanh nghiệp là chi phí đầu vào của
chúng ta quá cao. Tính chung từ 1996 đến nay chi phí đầu vào tăng 32,42% trong
khi tỷ lệ tăng giá đầu ra là 22,82% làm cho tỷ suất doanh lợi bình quân của doanh
nghiệp từ 16,8% giảm xuống còn 6,2% thấp hơn xấp xỉ 2 lần so với các nước trong
khu vực và 3 lần so với Châu Âu. Vấn đề giá nông sản thấp thu nhập của nông dân
ngày càng thu hẹp mặt khác không kém phần quan trọng dẫn các chi phí đầu vào
quá cao về điện, xăng dầu, phân bón, thuỷ lợi, cày bừa mà trong thời gian qua
chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp bảo hộ xử lý đầu ra hơn là các biện
pháp đầu vào để chi phí sản xuất và bán hàng cho nông dân. Tất cả những điều đó là



cho Việt Nam trở thành một nơi đắt đỏ sức cạnh tranh của hàng hoá và thị trường
Việt Nam giảm dần các nhà đầu tư e ngại, thậm chí một số nhà đầu tư lớn đã rút
vốn khỏi Việt Nam Vấn đề là ở chỗ hầu hết các chi phí đầu vào hiện nay của
doanh nghiệp đều liên quan đến các ngành độc quyền như điện, xăng dầu, bưu
chính viễn thông, hàng không Trong thời gian vừa qua các ngành này liên tục tăng
giá hoặc duy trì mức giá cao với nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do phải trả

nợ đầu tư. Đã đến lúc chúng ta cần có một sự nhìn nhận đi vào thực chất hoạt động
và hiệu quả.
Qua những con số điều tra cho thấy số doanh nghiệp nhà nước mới thành lập
tăng lên đánh kể, tổng doanh thu hàng năm làm ra sấp xỉ 300 tỷ đồng, sự phân bổ
doanh nghiệp theo ngành hợp lý hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh
nghiệp nhà nước 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế.
Số doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm 11,3% tổng doanh nghiệp trong đó 11,3% số
doanh nghiệp nhà nước 69,0% số doanh nghiệp địa phương. Lãi thực hiện năm
1999 là 15.271 tỷ đồng. Đối với khu vực tư nhân khi nhà nước ban hành luật công
ty và luật doanh nghiệp thì đến năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp và đến năm
1999 số doanh nghiệp được thành lập đã lên đến 30.500 tăng gấp 74 lần so với năm
1991. Tổng vốn đầu tư năm 1991 là 6.430 tỷ đồng đến năm 2000 đã lên đến xấp xỉ
160.000 tỷ đồng. Khu vực kinh tế tư nhân có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế
quốc dân tỷ trọng % của khu vực tư nhân chiếm 22,44% khu vực đầu tư nhà nước
35,4% khu vực doanh nghiệp nhà nước 42,16%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều những tồn
tại cần phải khắc phục. Số lượng doanh nghiệp nhà nước còn nhiều, qui mô còn
nhỏ, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý, sự phân bổ doanh nghiệp theo
vùng lãnh thổ còn chưa hợp lý. Còn tồn tại nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải
giải thể hoặc sát nhập với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện nay có 1.822
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm 30,8% tổng số doanh nghiệp với số lãi luỹ kế là
5.079 tỷ đồng. Doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi chế độ bảo toàn và phát triển với
điều kiện đi vay ngân hàng, chế độ tiền lương, tiền thưởng và các quyền lợi thiết
thực khác của người lao động.



Đại hội Đảng IX đã khẳng định phải chú trọng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, tập trung đầu tư cho các mặt hàng có lợi
thì xuất khẩu chủ lực, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do cạnh tran tìm kiếm thị
trường chuẩn bị cho việc tham gia AFTA, APEC các giải pháp đề ra cho doanh

nghiệp hiện nay là hoàn chỉnh chính sách, pháp luật xây dựng môi trường kinh
doanh ổn định mở rộng thị trượng trong nước và ngoài nước, tăng cường các dịch
vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân phát triển ổn định và
hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp cơ bản vẫn là xuất phát từ nội lực của mỗi doanh
nghiệp về sự hưng thịnh và phồn vinh của nước ta.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có vốn đầu tư ban đầu và
vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh hình thành
từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn vốn chủ sở hứu và nguồn vốn vay. Nguồn vốn
chủ sở hữu biểu hiển quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh
nghiệp. Các Công ty doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn ban đầu có thể lấy từ
ngân sách Nhà nước, các Công ty liên doanh thì các thành viên tham gia góp vốn.
Đối với Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn thì nguồn vốn được
huy động bởi các cổ đông. Ngoài ra nguồn vốn này có thể bao gồm các quỹ phát
triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng, vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn vốn vay:
nguồn vốn này rất cơ bản và chiểm tỷ lệ đáng kể bởi nó không chỉ bổ sung cho việc
mở rộng sản xuất mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc hoàn trả các khoản nợ
hết hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn này được hình thành từ việc vay tín
dụng ngân hàng dưới hình thức tín dụng ứng trước trong đó doanh nghiệp được sử
dụng trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp có thể phải dùng thế chấp hoặc
không dùng thế chấp.
Một hình thức vay nữa là phát hành trái phiếu: chỉ riêng doanh nghiệp Nhà
nước, Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát
hành trái phiếu. Doanh nghiệp có thể vay bằng tín dụng thương mại đó là hình thức
vay lẫn nhau của các ngân hàng thương mại.
Tình hình thu hút vốn đầu tư trong doanh nghiệp thành tựu và hạn chế.
Trước đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp của một nền kinh tế



chỉ huy, Việt Nam không có thị trường tài chính. Mọi nguồn lực đều được tập trung

vào tay Nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư và từng doanh
nghiệp. Những năm đổi mới đã đem lại hậu quả rõ rệt. Trong năm năm 1991 - 1995
ước tính huy động vốn đầu tư cho phát triển toàn xã hội khoảng 15 đến 16 tỷ USD,
trong đó phần của Nhà nước chiếm gần 43% bao gồm cả đầu tư từ ngân sách Nhà
nước, tín dụng đầu tư Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư, phần vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài chiếm 37% đầu tư của tư nhân chiếm 20%. Đầu tư của các
doanh nghiệp được hình thành và hoạt động hiệu quả, phần lớn ở dạng quy mô vừa
và nhỏ nhưng có một số doanh nghiệp tư nhân ở quy mô lớn. Thực tế, nguồn vốn
mà các doanh nghiệp đã tích luỹ và huy động là khá đa doanh nghiệpạg và phong
phú. Việc bản thân doanh nghiệp làm ăn phát đạt đã tạo cho tình hình tài chính của
họ trở nên mạnh mẽ là tiền đề cho việc tích luỹ cho mở rộng sản xuất. Mặt khác đáp
ứng cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp đã sử dụng các công cụ huy động đạt
hiệu quả đó là việc các doanh nghiệp vay lẫn nhau song tỷ lệ này chỉ chiếm một tỷ
lệ nhỏ. Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là thị trường vốn chủ yếu cho
tình hình hiện nay và có ý nghĩa đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Hệ thống ngân
hàng huy dodọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư thông qua
hệ hống các quỹ tiết kiệm và các hợp tác xã tín dụng. Thị trường trái phiếu và cổ
phiếu là hiện tượng mới ở Việt Nam. Đây cũng là bước khởi đầy mới cho việc lập
thị trường chứng khoán. Công cụ này cũng được doanh nghiệp sử dụng trong việc
huy động vốn đầu tư. Các doanh nghiệp Nhà nước còn tiến hành phát hành trái
phiếu lãi suất 21%/năm một số doanh nghiệp khác thuộc các ngành điện, xi măng,
giao thông, xây dựng đang lập đề án để phát hành trái phiếu. Trái phiếu và cổ phiếu
Công ty do các doanh nghiệp được cổ phần hoá phát hành. Hiện nay đã có khoảng
100 Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu song các Công ty này có số vốn nhỏ số
vốn nhỏ, số lượng cổ động vì hạn chế còn loại cổ phiếu do các doanh nghiệp phát
hành gắn với hai hình thức cổ phần hoá. Một hình thức tư nhân hoá một phần vốn
của doanh nghiệp bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, hình thức khác là giữ
nguyên vốn của doanh nghiệp Nhà nước nhưng phát hành cổ phiếu để huy động
thêm. cho tới nay mới chỉ có hình thức đầu được thực hiện, 23 doanh nghiệp có đề
án xin Chính phủ cho phép cổ phần hoá, trong đó đã có 5 doanh nghiệp thực hiện




xong cổ phần hoá. Con số cụ thể của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đến năm
1998 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp do Trung ương quản lý là 1299 tỷ đồng
chiếm 16% doanh nghiệp do địa phương quản lý 6.800 tỷ đồng chiếm 84% phân
theo thành phần doanh nghiệp thì doanh nghiệp quốc doanh tổng số vốn đầu tư 589
dự án số vốn đầu tư 6.781 tỷ đồng chiếm 83%, doanh nghiệp dân doanh tổng số dự
án 374 dự án huy động 1.325 tỷ đồng chiếm 17%. Như vậy tổng số vốn là 8.106 tỷ
đồng. Cho đến năm 2000 tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp quốc doanh là 5.232
tỷ đồng của doanh nghiệp dân doanh là 7.173 tỷ đồng nâng tổng số vốn đầu tư là
12.406 tỷ đồng.
Vốn nước ngoài: thành tư huy động vốn của Nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp và là cơ sở cho các doanh nghiệp. Theo con số của Uỷ ban Nhà nước về hợp
tác và đầu tư trong năm 1988 - 1995 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tổng
công 18.464 triệu $ vốn đầu tư đăng ký 5.863 triệu $ vốn đầu tư thực hiện viện trợ
chính thức phát triển ODA cho Việt Nam bình quân mỗi năm đạt khoảng 480 triệu
USD. Thực tế những năm qua cho thấy tiềm năng vốn từ nước ngoài tuy vốn lớn,
nhưng việc khai thác và sử dụng còn nhiều bất cập, việc phân bố các dự án ODA
dân trả thời gian thẩm định kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thực tệ.
Khối lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đã có hàng ngàn doanh nghiệp và
nhà đầu tư nước ngoài của 62 nước và nhà đầu tư ở Việt Nam. Ngày càng có nhiều
tập tập đoàn lớn có năng lực tài chính và công nghệ cao đến đầu tư tại Việt Nam,
qui mô vốn bình quân của một dự án tương đối lớn trong đó có các dự án đầu tư với
số vốn hàg trăm triệu USD. Ban đầu xây dựng được một số cơ sở công nghệ quy
mô lớn và có trình độ công nghệ cao như dầu khí, thông tin viễn thông điện tử cao
cấp tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động đã trực
tiếp tạo ra hơn 300 ngàn việc làm mới tạo ra hơn một triệu việc làm trong các
ngành xây dựng và các ngành dịch vụ khác. Phần nữa tạo điều kiện kích thích đào

tạo cán bộ kỹ thuật cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Đạt được những kết quả
đó không phải không còn nhiều hạn chế. Việc vay vốn đầu tư ngân hàng của doanh
nghiệp đòi hỏi quá nhiều giấy tờ thậm chí nhiều ngân hàng còn từ chối việc cho vay
với lý do là khách hàng mới. Chính vì vậy doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn



vốn khác ngoài ngân hàng có tính rủi ro cao, lãi suất lớn, hoặc gian dối với cán bộ
ngân hàng để vay vốn hậu quả là doanh nghiệp đầu tư trong tình trạng bất ổn định,
thiếu chắc chắn, kém hiệu quả thậm chí đã xảy ra một số vị đổ bế gây thiệt hại cho
xã hội. Từ chính sách đến thực tế còn một khoảng cách lớn và các biện pháp đầu tư,
các cam kết về đổi mới thủ tục hành chính trong lĩnh vực này vẫn chưa được thực
hiện là bao nhiêu. khu vực quốc doanh vẫn được khuyến khích đầu tư hơn khu vực
dân doanh đầu tư mới vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng mặc dù về mặt
kinh tế, đầu tư mở rộng có tác dụng trực tiếp tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng qui mô
vốn cá biệt. Thị trường chứng khoán ở giai đoạn hiện nay đã được hình thành và
hoạt động được một thời gian nhưng hầu hết các Công ty sử dụng việc phát hành
chứng khoán để huy động vốn nguyên nhân là do các doanh nghiệp chỉ huy động
vốn dưới hình thức này khi mà họ cần mở rộng qui mô lớn, việc phát hành chứng
khoán phải qua nhiều thủ tục giấy tờ. Trong nội bộ Công ty họ vẫn không muốn
chia sẻ quyền sở hữu và quyền kiểm soát cho các cổ đông. Về vốn để huy động vốn
nước ngoài thực sự chưa đem lại hiệu quả. Trước hết khối lượng vốn đầu tư thực
hiện của FDF trong năm 2001 có biểu hiện chững lại theo ước tính của Bộ kế hoạch
và đầu tư con số này chỉ đạt 2,2 tỷ USD tăng khoảng 3,2% so với năm 2000, khá
thấp kể từ khi năm 1994 trở lại đây. ước tính trong năm 2001 chỉ có khoảng 40 dự
án quy mô vừa và nhỏ hoàn thành xây dựng cơ bản, bắt đầu đi vào sản xuất kinh
doanh. Trong hình thức đầu tư BOT nơi tập trung khá nhiều dự án lớn mới đạt 3%.
Đặc biệt tình trạng không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê báo cáo các tình
hình cơ sở và những ách tắc trong việc triển khai thực hiện dự án do còn nhiều
vướng mắc trong kinh doanh. Với phát triển ODA việc công tác quản lý và sử dụng

chưa tốt nhất là khâu chuẩn bị và tổ chức thực hiện. Vốn ODA không được hoàn lại
được ưu tiên sử dụng cho các chương trình đặc biệt. Khó khăn chung cho việc huy
động vốn nước ngoài chủ yếu là do chính sách hai giá và việc áp dụng nhiều loại chi
phí khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhất là các cước hàng
không giá điện phí quảng cáo đang là trở ngại lớn cho việc thu hút vốn. Cân đối
ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài đang là vấn đề nổi lên nhiều dự án triển
khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, khả năng đáp ứng ngoại tệ của các ngân



hàng thương mại hạn chế nhất là thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp.
2. Vấn đề sử dụng vốn hiệu quả.
Giờ hết vấn đề tiết kiệm đặt lên hàng đầu, tiết kiệm trong sinh hoạt hàng
ngày của chủ thể doanh nghiệp ở các ban ngành cơ quan. Tiết kiệm trong mọi cơ
quan của quá trình sản xuất là rất cần thiết bởi nó quyết định trực tiếp đến sự phát
triển và mở rộng sản xuất vì vậy vấn đề là làm sao tiết kiệm trở thành một khẩu hiệu
phương châm cho mọi doanh nghiệp vì một cuộc sống trong tương lai sẽ trở nên
đầy đủ và hạnh phúc hơn nữa. Việc xây dựng cơ sở sản xuất và mua sắm trang thiết
bị phải được sự cân nhắc kỹ càng bởi vì khi một quyết định trong đầu tư không
phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí gây thất thoát tài sản. các doanh nghiệp
cũng cần phải xem lại bộ máy hành chính và bộ máy hoạt động. Tránh tình trạng
cồng kềnh dườm dà, chồng chéo lên nhau cản trở việc thực hành tiết kiệm. Yêu cầu
đặt ra cho các doanh nghiệp là phải phân bố một cách hợp giữa tiêu dùng và tích luỹ
nhận thấy vai trò của việc tiết kiệm đối với sự phát triển để trở thành phong trào
thúc đẩy quá trình tích tụ vào tập trung vốn để phát triển bền vững. Trong các dự án
đầu tư doanh nghiệp phải lựa chọn các dự án và phương án sản xuất kinh doanh khả
thi có hiệu quả biểu hiện ở chỗ doanh nghiệp có thể hoàn trả nguồn vay phù hợp với
thời gian vay đây là bài toán khó cho doanh nghiệp vì trong quá trình sản xuất rất
nhiều những sai sót hoặc đổ vỡ xảy ra. Việc phân bố hiệu quả thể hiện ở chỗ nhà

doanh nghiệp đổi mới công nghệ thúc cho phát triển sản xuất, doanh nghiệp tự tìm
tòi nghiên cứu đầu tư tài lực, trí lực để nghiên cứu tạo ra những tư liệu lao động kỹ
thuật hiện đại có khả năng tạo ra năng suất cao. Hơn nữa thông qua chuyển giao mà
công nghệ có thể di chuyển giữa các quốc gia ngày nay xu hướng hội nhập tạo điều
kiện cho hoạt động này trở nên thuận lợi và dễ dàng. Để thuận lợi cho quá trình
đầu tư doanh nghiệp nên tiến hành các loại quỹ tiết kiệm nguồn vốn này cho doanh
nghiệp có thể sử dụng ngay khi cần thiết hoặc để dùng góp vốn kinh doanh mua cổ
phần hoặc trái phiếu của các Công ty cổ phần khác.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp phải tìm biện pháp tích
cực để có thể dựa vào sử dụng hoặc bán số tài sản, vật tư hiện ứ đọng, chậm luân



chuyển. Đối với những tài sản, vật tư kém hoặc mất phẩm chất, kỹ thuật lạc lậu tồn
động nhiều năm, nhưng không thể sử dụng được nữa thì doanh nghiệp thực hiện
thanh lý, nhưng phải thực hiện đúng các nguyên tắc quản lý tài chính, bảo vệ môi
trường không để thất thoát. các khoản chênh lệch do thanh lý tài sản hạch toán
doanh nghiệp theo chế độ hiện hành. Trường hợp doanh nghiệp thanh lý tài sản mà
bị lỗ không có kảh năng tự bù đắp thì Bộ tài chính xem xét để hạch toán giảm vốn.
Bộ tài chính hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện thanh lý tài sản hiện vật của doanh
nghiệp đảm bảo tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, vừa quản lý được chống thất
thoát vốn và tài sản. Các khoản nợ khó đòi của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần tiến
hành bù đắp bằng dự trữ quỹ đồng thời tiến hành rút kinh nghiệm khắc phục những
sai phạm này. Khâu mà doanh nghiệp quan tâm là quản lý các vốn lưu động vốn cố
định sao cho đạt hiệu quả tránh sử dụng lãng phí và gây thất thoát muốn vậy doanh
nghiệp cần tiến hành đối với vốn cố định là vốn do tính chất lớn sử dụng trong thời
gian dài nên cần phaỉ thực hiện nguyên tắc khấu hao. Doanh nghiệp phải xem xét
tình hình tiêu thụ sản phẩm do tài sản cố định đó chế tạoa ra xem xét hao mòn vô
hình của tài sản cố định, xem xét nhiệm vụ đầu tư cho tài sản cố định tới việc trích
lập khấu hao tài sản cố đinh. Vốn lưu động doanh nghiệp sử dụng các biện pháp

tính chỉ tiêu vòng quay của vốn, thời gian vận dụng của nguyên vật liệu Nhìn
chung doanh nghiệp cần phải đổi mới các công tác như quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản, đổi mới quản lý vốn vay dài hạn, xác định vốn yêu cầu hợp lý ban hành cơ chế
quản lý công nợ thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn. Xây dựng chiến
lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp: xây dựng cơ chế tài chính, nâng cáo
sức cạnh tranh hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp, tăng tích luỹ cho
doanh nghiệp tiến hành quản lý chặt chẽ đạt hiệu quả cao.
3. Các giải pháp tăng tích luỹ.
Thị trường vốn ở nước ta phát triển là điều kiện tiên quyết cho quá trình tích
luỹ vốn cho các doanh nghiệp. Để có nguồn vốn cho phát triển chúng ta cần tiến
hành khai thác tối đa các nguồn lực trong nước mang tính quyết định: vốn ngân
sách Nhà nước vốn tín dụng Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn trong dân cư
đồng thời khai thác và phát huy khả năng tranh thủ vốn ở nước ngoài mang tính



quan trọng. Nguồn vốn tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế HDF, AHB,
WB các nguồn vốn trực tiếp từ nước ngoài việc huy động vốn trong thời gian tới
phải đảm bảo các mục tiêu đồng bộ, đa dạng hoá các công cụ hình thức vay vốn
nhằm thu hút khơi dậy tiềm năng phát triển kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả nhằm
đảm bảo phát triển nội lực. Thực hiện nội dung này đòi hỏi chúng ta phải linh hoạt
phù hợp điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ để phát triển kinh tế do
đó phải có chính sách cơ chế, giải pháp huy động vốn thích hợp. Vấn đề huy động
vốn trong nước, bắt đầu từ vốn trong dân cư, để đưa nguồn vốn trong dân cư vào
dòng chảy của đầu tư phát triển phải tạo lòng tin cho nhân dân bù vốn vào đầu tư
phát triển vì tiềm lực trong dân cư là rất lớn. Vì vậy Nhà nước cần phải ổn định lãi
suất, tiền tệ và hệ thống luật pháp có chính sách khuyến khích làm giàu đích đáng.
Muốn vậy phải đa dạng hoá các hình thức công cụ huy động vốn để mọi người dân
ở bất cứ nơi nào thời điểm nào có cơ hội bỏ vốn phát triển. Tăng lãi suất tiết kiệm
khuyến khích sử dụng tài khoản cá nhân thực hiện thanh toán tiền gửi ở bất kỳ nơi

đây có thể hiện đại hoá thanh toán tín dụng điện tử. Tạo môi trường đầu tư thông
thoáng thực hiện quy định của pháp luật để tăng lượng vỗn đầu tư. Cụ thể khuyến
khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư trực tiếp để sản xuất kinh doanh nhất
là đầu tư trong các lĩnh vực và các vùng ưu tiên bổ sung sưa đối chính sách đầu tư
đơn giản hoá quy chế đầu tư trong nước theo hình thức kinh tế chuyển giao tạo
khuôn khổ pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế góp vốn đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế và các điều
kiện thuận lợi khi thực hiện các dự án xây dựng kinh doanh chuyển giao BOT. Mở
rộng nhiều hình thức huy động vốn chuyển tiền về quỹ đầu tư. Tiếp tục phát hành
công trái, công trình đối với một số công trình có khả năng hồi vốn và tập trung cho
sản xuất. Xúc tiến thành lập các cơ sở chứng khoán với quy mô phù hợp. Ban hành
các văn bản cụ thể quy định hình thức huy động vốn và sử dụng nguồn vốn hợp lý
để có hiệu quả tránh lãng phí.
Huy động vốn nước ngoài mục tiêu chú trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở
nước ngoài đồng thời mở rộng các hình thức tín dụng tài trợ với lãi suất ưu tiên dài
cho các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả, quản lý và sử dụng vốn đúng hiệu quả đúng
mục đích sử dụng nhằm đưa uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế các giải



pháp bao gồm: Nhận thức đúng vai trò thực tế của vốn và công nghệ nước ngoài đối
với công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo môi trường ổn định và thuận lợi để đầu tư từ
nguồn vốn FDI và ODA. Phát hành trái phiếu của Chính phủ và doanh nghiệp Nhà
nước ra thị trường thế giới. đa dạng hoá các nguồn vốn tài trợ phát triển cho nhiều
ngành. Giải quyết chấm dứt nợ cũ để vay thêm đầu tư cho cơ sở vật chất. Đối với
các nguồn vốn cần khắc phục sự yếu kém chậm trễ trong việc thẩm định dự án, đấu
thầu nhằm đẩy nhanh quá trình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đối
với đầu tư trực tiếp FDI cần khẩn trương thực hiện luật đầu tư nước ngoài hết sức
quan tâm cải thiện môi trường cả về công cụ vĩ mô và xoá trở ngại cho các nhà đầu
tư nước ngoài.

Các nguồn tích luỹ và đầu tư trong nước và nước ngoài cho nền kinh tế ở
Việt Nam chỉ có tác động tới các doanh nghiệp muốn đẩy nhanh quá trình tích luỹ
các doanh nghiệp cần có biện pháp khác nhau để thu hút và sử dụng vốn. Đối với
nguồn vốn huy động và tích luỹ từ nội bộ các doanh nghiệp cần phải thực hành tiết
kiệm. Tiết kiệm phải nhằm vào các đối tượng phù hợp đặc biệt tiết kiệm trong chi
tiêu mua sắm các dịch vụ đắt tiền gây lãng phí, tiết kiệm thời gian nguyên vật liệu,
đặc biệt doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược hoạt động kinh doanh để đảm bảo
doanh thu ngày càng mạnh tìm các biện pháp tiết kiệm chi phí tăng lợi nhuận. Đồng
thời cải tiến công tác quản lý phân tích tình hình tài chính tham mưu giúp lãnh đạo
doanh nghiệp chỉ đạp sát thực để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng
hiệu quả. Các loại rủi ro bất thường mang tính chất bất khả kháng như thiên tai, hoả
hoạn gây mất vốn, doanh nghiệp phải mua bảo hiểm tài sản để khi có rủi ro vốn
và bị mất, sẽ được bù đắp bằng tiền bồi thường, từ các Công ty bảo hiểm. Đối với
trường hợp bị mất tài sản vì các nguyên nhân khác phải xác định rõ nguyên nhân
quy trách nhiệm cá nhân tập thể và xử lý theo quy định. Đối với các trường hợp
công nợ khó đòi, không thu hồi được phải giảm giá các đầu tư ngắn hạn (cổ phiếu,
trái phiếu ngắn hạn mà các doanh nghiệp đã mua). Giảm giá hàng tồn kho doanh
nghiệp phải hạch toán và chi phí kinh doanh bằng cách trích dự phòng. đối với rủi
ro tỷ giá, được coi như bất khả kháng đối với doanh nghiệp do đó cũng cần có một
cơ chế để đối phó lại với sự thay đổi này. Những rủi ro mất vốn do nguyên nhân
chủ quan, phần thiệt hại sau khi bắt bồi thường thu hồi phế liệu Phải lấy từ lợi



nhuận sau thuế để bồi đắp. Về phần thu hút vốn của các doanh nghiệp: doanh
nghiệp có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại, ngân sách Nhà nước dưới hình
thức tín dụng ngân hàng hoặc tín dụng thương mại. Song để việc huy động vốn này
doanh nghiệp cần phải có những điều kiện dàng buộc nhất định như cần có tài sản
thế chấp hoặc được bảo lãnh bằng tài sản, gần đây Ngân hàng Nhà nước đã có hình
thức vay tín chấp nhưng đòi hỏi doanh nghiệp phải có đầy đủ độ tin cậy. Doanh

nghiệp cần phải hoàn chỉnh giấy tờ về mặt pháp lý để việc huy động trở nên đơn
giản hơn, một điều cần thiết nữa là doanh nghiệp phải làm ăn hiệu quả phù hợp với
quy định của luật pháp, chứng minh công việc kinh doanh của mình là có lãi và dự
báo thực tiễn về nhu cầu và biến động thị trường. Xu hướng hiện nay các doanh
nghiệp cần phải hoàn thành các thủ tục giấy tờ để tham gia vào thị trường chứng
khoán, có thể nói dưới hình thức này có thể đem lại cho doanh nghiệp khả năng thu
hút vốn cao và nhanh chóng.



Kết thúc vấn đề
Doanh nghiệp có vốn trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược đầu
tư phát triển của nước ta. Góp phần phát huy nội lực và nội thế so sánh nó còn tác
động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả
của nền kinh tế. ý thức được vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải có những chính
sách phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả tích luỹ và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Thông qua các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư trong nước là quyết
định, đầu tư nước ngoài là quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Về phần
doanh nghiệp “Bộ phận chiến lược trong đầu tư và phát triển” cần phải luôn coi
trọng vấn đề tích luỹ vốn và tìm các biện pháp sử dụng. Nguồn tích luỹ, ngoài việc
huy động với từ tác động của chính sách đầu tư Nhà nước bản thân họ cần phải tự
thực hành tiết kiệm trong nội bộ, phân bổ và quản lý vốn chặt chẽ tạo tiền đề cho
quá trình tích luỹ vốn đồng thời họ phải thu hút vốn đầu tư qua các bộ phận dân cư,
qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu tạo nguồn lực tài chính dồi dào
đáp ứng cho nhu cầu mở rộng sản xuất. Nghiên cứu vấn đề tích lũy tư bản không
những làm chúng ta hiểu rõ phương thức làm giàu chủ nghĩa tư bản mà còn có ý
nghĩa thực tiễn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay,
giúp chúng ta có cái nhìn hoàn thiện hơn để thu hút vốn sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh” đưa
Việt Nam có vị thế trên trường quốc tế là nỗ lực của toàn Đảng toàn dân là sự cố

gắng không ngừng, không mệt mỏi của tất cả các thành phần kinh tế trong đó có vai
trò tích cực của các doanh nghiệp.



Tài liệu tham khảo

1. CácMác quyển I - tập 3 Nhà xuất bản Hà Nội - 1963
2. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX.
3. Văn bản pháp luật: Luật tổ chức doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài.
4. Giáo trình: Lý thuyết tài chính tiền tệ - Nhà xuất bản Thống kê - 1998.
5. Giáo trình Kinh tế Chính trị - Tập I - Nhà xuất bàn Giáo dục
6. Tạp chí - Kinh tế và phát triển
- Tài chính
- Kinh tế và dự báo
- Phát triển kinh tế
- Kinh tế Châu á
7. Báo doanh nghiệp Việt Nam

×