MỤC LỤC
Trang
A.Lý do chọn đề tài .................................................................................................2
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I.TOÀN CẦU HĨA LÀ XU THẾ CỦA THỜI ĐẠI
1.Tồn cầu hóa là xu thế của thời đại............................................................3
2.Việt Nam cần làm gì trong xu thế tồn cầu hóa.........................................4
CHƯƠNG II.ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG
CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI ……………………………………………..............
……6
2.1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới. ..................6
2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng:........................................................6
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1996)...............8
2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)....................................................8
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1996) ......................10
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay) ......12
2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004) .....................12
2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay)...................14
KẾT LUẬN.............................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………….………………………..17
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là sau những năm cuối thế kỉ XX, tình
hình thế giới có những chuyển biến phức tạp. Các yếu tố cơ bản quyết định đến xu hướng
phát triển của nền kinh tế thế giới bây giờ bao gồm: sự suy yếu hoặc ít nhất là sự thay
đổi trong vai trò bá chủ của nước Mỹ cùng với đó là sự sụp đổ suy thối của hệ thuống
các nước XHCN trong đó có sự tan rã của nước Nga – Xô Viết, thế hai cực đảo chiều,
q trình tồn cầu hóa tài chính và sản xuất gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang trên đà phát triển mạnh đã đưa các nước lại gần nhau hơn cùng nhau ngồi
vào bàn đàm phán hợp tác. Từ đó tư duy chính trị dần thay đổi, chiến tranh vũ lực được
thay bằng chiến tranh kinh tế, các quốc gia trên thế giới bắt đầu liên kết với nhau thông
qua các hiệp ước, các định chế hợp tác quốc tế làm tăng khả năng cạnh tranh thị trường
giữa các quốc gia, các tập đoàn và công ty....
Hội nhập kinh tế quốc tế (international economic intergration) được sử dụng để
chỉ quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế và thị
trường và khu vực thông qua các biện pháp tự do hóa và mở cửa thị trường trên các cấp
độ đơn phương, song phương và đa phương. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc nâng cao địa vị nền kinh tế quốc gia với việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ
trên mặt trận chính trị nên sau khi tiến hành cơng cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của
nước ta đã lớn mạnh, có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, mơi
trường hồ bình. Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong tiến hành
công cuộc đổi mới với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ
động hội nhập quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát
2
triển”. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy... Những nỗ lực
của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và
quốc tế. Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hợp tác quốc tế, độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc…
Để hiểu rõ hơn quá trình thay đổi tư duy của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước và
nhằm nâng cáo ý thức của sinh viên với trách nhiệm mà Đảng và Nhà nước giao phó nên
trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ nghiên cứu sự thay đổi trong chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện thông qua các văn kiện
Đại hội từ Đại hội XI đến Đại hội XXI. Và đó cũng là lí do mà em chọn đề tài “ Tìm hiểu
đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kì đổi mới” trong bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Trịnh Đình Thanh đã giúp chúng em có những
giờ lên lớp thật vui, thật hay và ý nghĩa.
3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỒN CẦU HĨA LÀ XU THẾ CỦA THỜI ĐẠI
1.Tồn cầu hóa là xu thế của thời đại:
Trước hết chúng ta phải hiểu Tồn cầu hóa là gì, và nó có tác động như nào đến tình hình
kinh tế thế giới và đến kinh tế Việt Nam.
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc giá,
các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mơ tồn cầu. Đặc biệt
trong phạm vi kinh tế, tồn cầu hố hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương
mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ
kinh tế, người ta chỉ thấy các dịng chảy tư bản ở quy mơ tồn cầu kéo theo các dịng
chảy thương mại, kỹ thuật, cơng nghệ thơng tin, văn hóa...
Tồn cầu hố đang là xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng. Tính tất yếu
của tồn cầu hố trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu kinh tế. Tồn cầu hố kinh tế là
khía cạnh quan trọng nhất của tồn cầu hố; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực
chính trị. Đến lượt mình, những thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh
tế. Song, cái cần quan tâm và nhấn mạnh lại chính là sự tác động của kinh tế và những
thay đổi chính trị đối với văn hố trong bối cảnh tồn cầu hố.
Tồn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, đã xuất hiện ở thế kỷ XV và
diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn cịn đang có những ý kiến
khác nhau về nguồn gốc và bản chất của q trình tồn cầu hố. Một số người cho rằng,
4
q trình tồn cầu hố bắt đầu từ khi người Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát con đường tơ lụa. Với
một số người khác, q trình đó được bắt đầu từ sự kiện vượt qua vùng biển thuộc mũi
Hảo Vọng và việc khám phá ra châu Mỹ, nhờ đó thế giới được mở rộng và các nguồn tài
nguyên của thế giới từ các châu lục khác được chuyển về châu Âu. Trong khi đó, một số
người khác lại tin rằng, tồn cầu hoá diễn ra từ cuối thế kỷ XIX cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp tạo nên sự phát triển của lực lượng sản xuất
và các phương tiện vận tải. Nhưng, dù xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn, trong thời đại
hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới. Một số học giả gọi
tồn cầu hóa hiện nay là tồn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, q trình đó đang chịu sự
chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn.
Tồn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời
sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng người. Cách
nhìn nhận và thái độ đối với tồn cầu hố là hết sức khác nhau. Trong khi một số nước
đang phát triển tiếp nhận tồn cầu hố một cách hồ hởi thì ở nhiều nước phát triển, phong
trào chống tồn cầu hố lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham
gia. Song, bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, tồn cầu hố vẫn là một xu
thế tất yếu và ngày càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt với nó. Vậy
tính tất yếu của tồn cầu hố được biểu hiện như thế nào ???
Tính tất yếu của tồn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế. Kinh tế, như mọi
người đều biết, là nhân tố đóng vai trị quyết định đối với sự phát triển của văn minh nhân
loại. Thực ra, thuật ngữ văn minh nhân loại vừa mang ý nghĩa vật chất, vừa mang ý nghĩa
tinh thần. Ưu thế của một nền văn minh được thể hiện trong sự hoà quyện và kết hợp
giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Với ý nghĩa đó, lịch sử của nhân loại là lịch sử
của sự giải phóng mang tính chất tiến bộ khỏi sự tước đoạt về vật chất, đồng thời là lịch
sử phát triển của tự do thuộc về vương quốc của tinh thần.
Tồn cầu hố là một hiện tượng vật chất hay kinh tế. Nhưng, ngoài ý nghĩa là một hiện
tượng vật chất, nó cịn mang một ý nghĩa văn hoá, tinh thần sâu sắc. Bởi lẽ, trên thực tế,
5
khơng có một cơng việc nào của con người, khơng có một hiện tượng nào trong xã hội lại
chỉ mang ý nghĩa thuần tuý kinh tế.
Về phương diện kinh tế, trước hết, tồn cầu hố tạo ra một sự thay đổi căn bản
trong hoạt động kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí của thị trường. Nếu
như trước đây, thị trường mang tính quốc gia thì hiện nay, thị trường đã mang tính quốc
tế.
Do q trình tồn cầu hố, các quốc gia nhanh chóng bị cuốn hút và trở thành một bộ
phận phụ thuộc của nền kinh tế thế giới hoặc quốc tế. Ngồi tính tồn cầu của thị trường
hàng hố và dịch vụ, tài chính và tiền tệ cũng mang tính chất tồn cầu. Một yếu tố khác
không kém quan trọng làm cho thị trường có tính tồn cầu là cơng nghệ điện tử mới của
thơng tin và viễn thơng. Chính cơng nghệ mới đó khơng chỉ mang tính kinh tế, mà cịn
mang tính chính trị và xã hội sâu sắc.
Về mặt xã hội, những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang lại những
thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở tất cả các quốc gia
dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế, v.v. đang
là những vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc. Nói tóm lại, chính tồn cầu hố đang
làm cho những vấn đề tồn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đến các
quốc gia dân tộc. Ngày nay, không một quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan
truyền một cách nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của
các nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v..
Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm trọng của
toàn cầu hố đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng sự tác động của kinh
tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị.
Với lơgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mơ hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh
tồn cầu hố hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân
tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, khơng có và
khơng thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài trong
6
bối cảnh tồn cầu hố. Chẳng hạn, do lơgíc nội tại của nó, tồn cầu hố kinh tế vừa địi
hỏi, vừa muốn hướng tới sự tự do về thương mại và đầu tư ngày càng tăng lên một cách
chưa từng có. Do đó, những hiệp định thương mại đa phương được thể chế hoá trong
WTO tất yếu hạn chế khả năng hành động một cách đơn phương của các chính phủ trong
việc bảo vệ lợi ích cục bộ của họ. Vì lẽ đó, người ta coi những hiệp định thương mại đa
phương ấy có tác dụng tiêu cực đối với bất kỳ chủ quyền quốc gia riêng lẻ nào.
Như vậy, tồn cầu hố kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của tồn cầu hố nó
đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt mình, những thay đổi về chính
trị lại có tác động trở lại đối với kinh tế. Song, điều cần quan tâm và nhấn mạnh lại chính
là ở sự tác động của kinh tế và những thay đổi chính trị đối với văn hố trong bối cảnh
tồn cầu hố.
Như đã nói, tồn cầu hóa đang dần ảnh hướng đến từng quốc gia, dân tộc, lãnh thổ
trong đó có cả Việt Nam. Ngồi những cơ hội, tồn cầu hố tạo ra cho Việt Nam những
thách thức to lớn, như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và thiếu việc làm, sự
phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm có xu hướng tăng, sự lo ngại về mất bản
sắc, sự đồng hoá văn hoá và sự huỷ hoại văn hoá dân tộc, v.v..Con đường để vượt qua
những thách thức đó khơng phải là đóng cửa lại để sống biệt lập với thế giới; mà trái lại,
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bồi dưỡng và giáo dục con người nhằm nâng
cao ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc, khơi dậy và phát huy tinh
thần dân tộc ở họ.
2. Việt nam cần làm gì trong xu thế tồn cầu hóa:
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng, chủ
động và tích cực hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ hội và vượt qua những
thách thức của q trình tồn cầu hóa. Tại Hội nghị Tương lai châu Á lần thứ 23 được tổ
chức ở Tokyo Nhật Bản vào ngày 5/6/2018 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã
7
nhận định “ thực tế lịch sử cho thấy, dù chúng ta ủng hộ hay khơng ủng hộ tồn cầu hóa,
thì đó vẫn là xu thế tất yếu. Tồn cầu hóa khơng chỉ là một tiến trình kinh tế mà còn là sự
phản ánh những khát vọng vươn xa, những mưu cầu hạnh phúc và chinh phục thử thách
của loài người”. Bên cạnh những mặt tích cực đo song ở nước ta cịn có nhiều mặt hạn
chế khác nhau :
Về kinh tế: Theo bảng xếp hạng của UNDP, trong vòng 11 năm, từ năm 1991 đến
2002, chỉ số phát triển người (HDI) của Việt Nam từ mức dưới trung bình (0,498 năm
1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Thứ bậc HDI của Việt Nam năm 2002
vượt lên 19, xếp thứ 109/173, cịn GDP bình qn đầu người xếp thứ 128/173. Những số
liệu đó chứng tỏ rằng, Việt Nam, mặc dù được xếp vào nhóm các nước đang phát
triển, song sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển của con
người; Việt Nam là nước bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội cao hơn so với một số
nước đang phát triển có GDP bình qn đầu người tốt hơn Việt Nam. Những thành tựu đó
có được như vậy là nhờ đường lối đổi mới, nắm bắt và tận dụng được những cơ hội do
tồn cầu hố mang lại. Tuy nhiên, theo em, những thách thức trong q trình tồn cầu
hóa đối với Việt Nam là hết sức lớn.
Một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam có lẽ là thách thức về kinh tế . Bởi vì
nói đến q trình tồn cầu hóa, như trên trình bày, trước hết phải nói đến tồn cầu hóa về
kinh tế. Tồn cầu hóa kinh tế là cơ sở của q trình tồn cầu hóa nói chung. Việt Nam bắt
đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986. Nhờ
chủ trương đổi mới, mở cửa, trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thu được những thành
tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam
đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao trong khu vực. Chẳng hạn, trong thập kỷ 70, tốc độ
tăng trưởng GNP trung bình hàng năm của các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực là:
9,6% (Hàn Quốc), 8,3% (Hồng Kông), 7,9% (Malaixia), 7,2% (Inđônêxia), 7,1% (Thái
Lan) và 6% (Philippin). Nhưng từ 1980 đến 1991, tốc độ tăng GNP hàng năm đã có sự
thay đổi như sau: 9,6% ở Hàn Quốc, 9,4% ở Trung Quốc, 6,9% ở Hồng Kông, 6,6% ở
Singgapo, 5,7% ở Malaixia, 5,6% ở Inđơnêxia, ở Philippin chỉ là 1,1%(7). Tính từ 1985
8
đến 1996, tốc độ tăng trưởng GNP hàng năm của Việt Nam là trên 8,5%, từ năm 20012005, tốc độ đó đạt mức trên dưới 8%. Như vậy, nếu so sánh với các nước, các vùng lãnh
thổ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất
trong những năm gần đây. Song ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo
của Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Cho đến nay, trải qua hơn 10
năm tiếp tục đổi mới, nguy cơ đó vẫn tồn tại và hết sức lớn. Để tránh nguy cơ đó, trong
những năm gần đây, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hiện đại hóa,
tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố rút ngắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để
khắc phục nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế; tích luỹ từ nền kinh tế để cơng nghiệp hố, hiện đại hố
cịn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực cịn thấp, v.v..
Do vậy, những khó khăn của việc thực hiện q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa là
khơng nhỏ. Xét về mặt cơ cấu của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp. Sản
xuất nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và
nông thôn sang các ngành nghề khác cịn rất khó khăn. Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ có phần
chững lại. Tỷ lệ lao động được đào tạo và lao động có trình độ cao cịn rất thấp. Sự lãng
phí trong đầu tư cịn q lớn. Thêm vào đó, nền cơng nghiệp lại phân bố không đều, tập
trung chủ yếu ở 2 đầu của đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở
các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn
lại càng khó khăn hơn.
Bên cạnh đó, những tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa được phát huy hết. Kinh
tế nhà nước chưa làm tốt được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tập thể
chậm phát triển. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó nhằm tạo
động lực cho toàn bộ nền kinh tế, v.v.. Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội,
nếu như trong vài năm tới, nước ta hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Do đó, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này
9
có bị loại trừ hay khơng, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và
sự chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập tiếp theo của nền kinh tế.
Cùng với thách thức về kinh tế, tồn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta những thách
thức lớn về mặt xã hội. Trước hết là nạn thất nghiệp và thiếu việc làm. Kể từ khi nước ta
bắt đầu hội nhập, nền kinh tế trở nên năng động hơn. Các thành phần kinh tế có cơ sở
phát triển mạnh mẽ, nhưng sự cạnh tranh giữa chúng có phần quyết liệt hơn. Chính sự
cạnh tranh đó đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều cơ
sở sản xuất phải tiến hành tinh giản biên chế. Tình trạng đó làm tăng thêm đội ngũ những
người khơng có việc làm hoặc có việc làm không đầy đủ. Theo số liệu của các cơ quan
chức năng, tình trạng thất nghiệp ở thành thị cịn ở mức khá cao, nạn thiếu việc làm ở
nơng thơn cịn rất nghiêm trọng. Trong những năm tới, q trình hội nhập sẽ địi hỏi đội
ngũ lao động có trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam không được
đào tạo và chuẩn bị về mặt cơng nghệ, quản lí thì tình trạng thất nghiệp khơng những
khơng giảm mà cịn có nguy cơ tăng cao.
Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự
phân hoá giàu nghèo - cái trục của sự phân tầng xã hội. Thực ra, sự phân hóa giàu nghèo
là kết quả tất yếu của cơ chế thị trường. Qua kết quả điều tra xã hội học ở nhiều tỉnh
trong cả nước, chúng ta thấy rằng, đại bộ phận người được hỏi cho rằng phân hóa giàu
nghèo là hiện tượng bình thường. Một số học giả cho rằng phân hoá giàu nghèo hiện nay
ở Việt Nam là hệ quả của việc công bằng xã hội được lập lại. Theo chúng tôi, ý kiến này
chỉ đúng khi nói đến sự phân hố giàu nghèo được thực hiện một cách bình đẳng. Điều
đó có nghĩa là, trong nền kinh tế thị trường, người nào lao động giỏi, biết tính tốn, nhạy
bén thì giàu lên một cách chính đáng; trái lại, người nào lười lao động, khơng có vốn,
khơng biết làm ăn thì nghèo đi.
Tình trạng thiếu việc làm, sự phân hóa giàu nghèo lại là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Bên cạnh tình trạng thất nghiệp và sự phân
hố giàu nghèo có nguy cơ ngày càng tăng, tệ nạn xã hội và tội phạm cũng là một thách
10
thức khơng nhỏ đối với Việt Nam trong q trình hội nhập. Theo số liệu thống kê của các
cơ quan chức năng, có thể rút ra nhận định một cách khái quát rằng, kể từ năm 1986 đến
nay, tệ nạn xã hội ở Việt Nam phát triển mạnh về quy mơ và số lượng, tính chất hoạt
động của các tệ nạn xã hội này ngày càng tinh vi. Tình hình tội phạm hình sự có nhiều
biểu hiện phức tạp. Tổng số vụ phạm pháp hình sự tuy khơng gia tăng đột biến, nhưng số
vụ trọng án tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao.
Điều đáng lưu ý là, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển giao lưu kinh tế
quốc tế, các hoạt động tội phạm có yếu tố nước ngồi cũng phát triển mạnh mẽ. Đó là
hiện tượng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt Nam phạm tội ở nước
ngoài. Một số loại tội phạm nguy hiểm trước đây chưa từng thấy ở Việt Nam đã bắt đầu
xuất hiện, như tội buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới Trung Quốc và Campuchia,
tội vận chuyển và buôn bán chất ma tuý từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam đi
các nước khác, tội rửa tiền, bắt cóc con tin, v.v.. Do mở rộng giao lưu, việc xuất nhập
cảnh vào Việt Nam thuận lợi hơn trước nên nhiều tên tội phạm gây án ở nước ngồi rồi
tìm cách chạy vào Việt Nam để ẩn náu, thậm chí nhiều tên cịn tiếp tục gây án tại Việt
Nam. Trái lại, một số tên tội phạm đã gây ra những vụ án nghiêm trọng ở Việt Nam rồi
tìm cách chạy trốn ra nước ngồi hòng lẩn tránh sự trừng trị của pháp luật Việt Nam.
Trong những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phát hiện được hàng trăm
vụ phạm tội do người nước ngoài từ hơn 20 quốc tịch khác nhau gây ra ở Việt Nam và
hàng chục người Việt Nam gây án ở nước ngoài được xử lý và dẫn độ về Việt Nam.
Ngoài thách thức về kinh tế và xã hội, Việt Nam còn phải đối mặt với thách thức
khơng nhỏ về văn hóa. Thực ra, trong kỷ ngun tồn cầu hóa hiện nay, sự lo ngại về khả
năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát triển.
Một số học giả cho rằng, những luồng văn hóa ngày nay đang bị mất cân bằng, thiên
mạnh theo hướng từ những nước giàu chuyển sang và gây áp lực đối với những nước
nghèo. Người ta cũng nói nhiều đến thứ hàng hố khơng trọng lượng với hàm lượng tri
thức cao, chứ không phải là hàm lượng vật chất. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, ngành
công nghiệp xuất khẩu lớn nhất hiện nay của Mỹ không phải là máy bay hay ô tô, mà là
11
ngành vui chơi giải trí - phim của Hollywood. Ngành này có tổng thu nhập lên tới 30 tỷ
USD năm 1997. Nhờ các mạng lưới thông tin đại chúng trên tồn cầu và cơng nghệ
truyền thơng qua vệ tinh, những phương tiện thơng tin đại chúng có sức bành trướng
khắp toàn cầu. Những mạng lưới này đã đưa Hollywood tới tận những làng quê hẻo lánh.
"Sự hiện diện khắp nơi của những nhãn hiệu Nike, Sony đang thiết lập nên những chuẩn
mực xã hội mới từ Đêli đến Vacsava, tới Riơ đơ Janerơ. Những cuộc tấn cơng dữ dội đó
của văn hóa nước ngồi có thể đe doạ tính đa dạng văn hóa, và khiến cho dân chúng lo sợ
đánh mất bản sắc văn hóa của mình".
Theo báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1999, từ 1980 đến 1998, các sản phẩm
và dịch vụ văn hoá tăng lên gấp 5 lần. Trong q trình tồn cầu hố, cơng nghiệp văn hoá
trở thành một ngành kinh tế; các dịch vụ và sản phẩm văn hoá như là một bộ phận của
nền kinh tế toàn cầu. Năm 2000, gần một nửa những ngành cơng nghiệp văn hố được
đặt cơ sở tại Mỹ, 30% được đặt tại châu Âu và phần cịn lại đang có mặt ở châu Á. Về
mặt phim ảnh, 85% các bộ phim có mặt trên thế giới được sản xuất ở Hollywood, trong
khi đó ở châu Phi, mỗi năm trung bình chỉ có 42 bộ phim được xuất xưởng. Ở Chi Lê và
Costa Rica, 95% các bộ phim được nhập khẩu từ Mỹ. Một số số liệu trên đây cho thấy,
các nước giàu có có khả năng sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm văn hoá của mình đi
khắp các nước trên thế giới trong khi đó các nước nghèo, các nước đang phát triển khơng
có khả năng làm điều đó. Các nước đang phát triển không thể đương đầu nổi với các
nước phát triển trong cuộc cạnh tranh về các sản phẩm văn hố. Tình hình đó tạo ra một
thực tế là, văn hố của các nước giàu được giới thiệu nhiều và thâm nhập sâu vào các
nước nghèo, các nước đang phát triển, còn văn hố của các nước nghèo thì khơng được
biết đến ở các nước giàu, các nước phát triển. Văn hoá của các nước đang phát triển khó
và khơng có khả năng xâm nhập vào các nước phát triển.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ cũng là vấn đề cần quan tâm. Hiện nay, tiếng Anh trở thành ngôn
ngữ giao tiếp quốc tế. Nhờ ưu thế của việc sử dụng tiếng Anh, nhờ Internet, văn hố của
các nước lớn nhanh chóng được phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Những sản
phẩm văn hố của các nước phát triển nhanh chóng được giới trẻ ở các nước chưa phát
12
triển và đang phát triển tiếp thu nhờ việc họ biết sử dụng máy vi tính và tiếng Anh. Thay
vì đọc những câu truyện ngụ ngơn mang tính dân tộc, những câu truyện cổ tích và những
sản phẩm văn hố của dân tộc, giới trẻ ngày nay quan tâm nhiều đến các trị chơi trên
máy vi tính được sản xuất ở các nước phát triển. Điều đó có nguy cơ dẫn tới chỗ bản sắc
của thế hệ trước và bản sắc của thế hệ hiện tại là khác nhau.
Như vậy, đứng về khía cạnh văn hố tồn cầu hố mang lại 2 bất lợi cho các nước
đang phát triển và chậm phát triển. Đó là: thứ nhất những sản phẩm và dịch vụ văn hố
rất khó thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển và không thể cạnh tranh nổi với
các sản phẩm và dịch vụ văn hoá của các nước phát triển. Xét về mặt kinh tế, điều đó bất
lợi cho các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển, bởi vì cơng nghiệp văn hoá
ngày nay đang mang lại một nguồn lợi khổng lồ. Thứ hai, điều này quan trọng hơn, tồn
cầu hố có nguy cơ đe doạ và làm mất bản sắc văn hố của các dân tộc. Có thể nói, ngày
nay, ở khắp nơi trên thế giới, sự lo sợ về mất bản sắc văn hoá, sự đồng nhất về văn hoá và
sự huỷ hoại nền văn hoá của các dân tộc là trung tâm của cuộc tranh luận về tồn cầu
hố.
Rõ ràng là, sự lo sợ đánh mất bản sắc là có cơ sở. Ngay ở Việt Nam, trong những năm
gần đây, nhiều nhà lãnh đạo cũng như nhiều học giả đã rất quan tâm tới việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, Việt Nam là nước có truyền thống văn hóa lâu đời. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống văn hóa đó đã trường tồn cùng lịch sử dân tộc.
Trong suốt quá trình lịch sử, nền văn hóa Việt Nam khơng những khơng bị mất bản sắc,
mà cịn tiếp thu, hồn thiện thêm bởi các nền văn hóa nước ngồi, như văn hóa Trung
Quốc, văn hóa Pháp, văn hóa Nga và cả văn hóa Mỹ. Mặc dù vậy, khơng ai và khơng có
gì có thể đảm bảo được rằng, con người Việt Nam sẽ không đánh mất bản sắc của mình
trước xu thế tồn cầu hoá, nếu như mỗi người Việt Nam cũng như mỗi cơ quan, tổ chức
khơng có những hành động cần thiết. Bởi lẽ, văn hóa bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ
thể, một mặt, là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội, và mặt khác, ln chịu sự tác
động của chính bản thân văn hóa.
13
Trên đây là một số thách thức mà Việt Nam đã và đang gặp trong quá trình hội nhập. Tuy
nhiên, nói tới những thách thức đó khơng có nghĩa là chúng ta hãy đóng cửa lại để từ bỏ
con đường hội nhập với thế giới. Như trên em đã trình bày, tồn cầu hóa là xu hướng tất
yếu. Do vậy đóng cửa sẽ khơng phải là giải pháp tốt. Phải khẳng định trong thời đại ngày
nay, nếu nước nào đóng cửa thì tất yếu sẽ bị cơ lập và bị bật ra khỏi quĩ đạo phát triển của
thế giới. Những sai lầm của Trung Quốc trong giai đoạn cuối đời Thanh và những năm
tiến hành cách mạng văn hóa, cũng như thực tiễn những năm xây dựng đất nước trước
đổi mới ở Việt Nam là những bài học vô cùng bổ ích đối với chúng ta.
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng, chủ
động và tích cực hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ hội và vượt qua những
thách thức của q trình tồn cầu hóa. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để vẫn hội nhập
vào xu thế phát triển của thế giới, nhưng vẫn giữ được cái riêng của dân tộc mình, khơng
tự đánh mất mình.
Có thể thấy tồn cầu hóa đem lại những cơ hội không hề nhỏ song những thách
thức mà nó đem lại cũng khơng kém. Để cùng hội nhập và phát triển đất nước theo đường
lối đúng đắn và bền lâu trước hết phải nhìn nhận bất kỳ sự biến đổi và phát triển nào
trong xã hội, suy cho đến cùng, cũng do con người quyết định. Yếu tố con người là yếu tố
then chốt là cội nguồn, con người vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên của vở kịch về chính
bản thân mình. Vì vậy, để tranh thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức của tồn cầu
hóa, việc chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá trình hội nhập là hết sức
quan trọng.
Khi nói đến q trình ni dưỡng và chuẩn bị nguồn nhân lực, người ta thường nói tới vai
trị của giáo dục và đào tạo. Bởi vì, nói đến nguồn lực con người đóng vai trị quyết định
thì khơng phải là nói đến số lượng của nguồn lực đó, mà điều quan trọng hơn là chất
lượng của nó, tức là nói đến những con người đã qua giáo dục, đào tạo. Thực tế, ngày nay
không một quốc gia nào trên thế giới khơng nói đến vai trị của giáo dục và đào tạo trong
việc phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng
nào lại tuỳ thuộc điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước.
14
Trong những năm gần đây, ở nước ta, người ta nói nhiều đến lợi ích của giáo dục, đào tạo
trong việc nâng cao dân trí, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trong nội dung của giáo dục
và đào tạo, cái được nhấn mạnh hơn cả là ưu tiên giáo dục khoa học, kỹ thuật, công nghệ
nhằm tạo ra khả năng thích ứng và tiếp nhận cơng nghệ. Sự nhấn mạnh như vậy là hoàn
toàn cần thiết và đúng đắn, nhất là đối với một nước mà đại bộ phận lực lượng lao động
vẫn cịn là lao động phổ thơng như nước ta.
Tuy nhiên, một trong những nội dung giáo dục và đào tạo cần quan tâm đó chính là vấn
đề giáo dục và phát huy truyền thống của dân tộc, giáo dục ý thức, trách nhiệm công dân,
trách nhiệm với Tổ quốc nhằm phát huy và khơi dậy tinh thần dân tộc. Trong suốt lịch sử
dân tộc, đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chúng ta đã phát huy tốt
các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc của mỗi công
dân. Song, trong những năm qua, dường như việc giáo dục truyền thống và ý thức công
dân chưa được chú ý đúng mức.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, phải đào tạo được những con người vừa có khả năng
nắm bắt cơng nghệ hiện đại, vừa có trách nhiệm cao với Tổ quốc và đất nước. Giáo dục
phải làm sao phát triển toàn diện con người về nhân phẩm, đạo đức, lối sống và tri thức.
Không phải theo kiểu rập khn máy móc, mà suy luận tư duy phát triển yếu tố sở trường
của con em trẻ nhỏ. Làm được như vậy mới thì mới mong Việt Nam sớm đi lên, hy vọng
Đảng sẽ có những quyết định bổ nhiệm nhân lực đúng đắn, nghiêm chỉnh kỹ luật các cá
nhân tập thể sai phạm để cải tiến nên giáo dục hơn nữa chứ không phải để một ông bù
nhìn miệng nói tay chẳng làm khua mơi múa mép trước công chúng nhưng im lặng giả vờ
câm điếc khi sai phạm được phơi bày.
Chỉ có như vậy, đất nước ta mới tránh được các nguy cơ tụt hậu và sánh vai được
với các cường quốc năm châu như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.
Chương II: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI
15
2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1996) :
2.1.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991):
Có thể nói, ngọn lửa đỏi mới đã mon men trong tư tưởng lãnh đạo của Đảng ta từ rất
sớm, có thể thấy ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực
hiện nhiều chính sách quan hệ ngoại giao và đối ngoại khôn khéo. Cũng trong lời kêu gọi
Liên Hợp Quốc tháng 12 năm 1946 Bác đã nêu rõ “ Đối với các nước dân chủ Việt Nam
sẵn sàng thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”.
• Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nước tư bản, các
nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành.
• Nước Việt Nam sẵ sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thơng cho
việc bn bán và q cảnh quốc tế.
• Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên hợp quốc.
Cùng với đó sau 3 tháng cơng du sang nước ngoài đặc biệt là ở Pháp Bác đã vận động các
quốc gia, dân tộc trên thế giới công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ và tự
cường. Song cũng kêu gọi các kiều bào yêu nước ở khắp nơi trong đó có Pháp cùng nhau
quay về để xây dựng lại đât nước sau những năm bị chiến tranh tàn phá khốc liệt. Có thể
nói Chủ Tịch Hồ Chí Minh là bậc thầy, là người đầu tiên đặt nền móng cho nền quan hệ
ngoại giao Việt Nam. Đến năm 1986 hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam
được bắt đầu. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương chuyển
từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình. Đến Đại hội Đại biểu
tồn quốc lần thứ VI, Đảng nhấn mạnh: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại, giữ hịa bình ở Đơng Dương, góp phần giữ vững hịa bình ở Đơng
Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc…”. Hịa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ gắn kết
với nhau, thế giới có hịa bình thì các khu vực mới có hịa bình và ngược lại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng đề ra chính sách đối
ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nêu rõ một số vấn đề cấp bách
trong công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay. Tình hình các
nước XHCN có nhiều biến động, sự phá hoại âm thầm và bán công khai đến công khai
của chủ nghĩa đề quốc, từ đó đề ra những nhiên vụ cáp bách cho Đảng ta. Tập trung tư
tưởng đánh giá tình hình biến động của các nước XHCN trong đó có Liên Xơ và các
nước XHCN Đơng Âu, từ đó đề ra các quyết sách đối phó với những tác động mà diễn
biến tình hình thế giới tác động đến nước ta. Đại hội cũng khẳng định: “Đảng và Nhà
nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình và hữu nghị”. Cũng trong kỳ Đại
Hội này đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nêu rõ “ khơng đổi mới đồng nghĩa với chết. Đổi
16
mới là cứu đất nước là cứu dân tộc”. Điều này cho thấy quyết tâm thực hiện quá trình đổi
mới đang sơi sục và đặt nền móng vững chắc về sau.
Về quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng
các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập
quan hệ cùng tồn tại hồ bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định
và hợp tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… Tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”… và “cần hồ
bình để phát triển kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Trung ương
đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất
cả các nước trên thế giới, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thi hành
chính sách hữu nghị, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của
thế giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình
từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu và những
chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là hịa bình và phát
triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn
đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đi vào hịa hỗn, hợp tác giải quyết các
vấn đề khu vực, trong đó có vấn đề Campuchia. Đại hội VI đã khẳng định “chúng ta
mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các
vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hịa bình, xây dựng Đơng Nam Á
thành khu vực hịa bình, ổn định và hợp tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa
VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của q trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối
ngoại của Đảng ta. Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có
thể giữ hịa bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một
nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ
càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng cường liên minh 3
nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định
khơng đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm
ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Nghị quyết nêu rõ chúng ta cần có chính sách tồn diện với Đơng Nam Á, trước hết là
tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với
Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa với các nước
trong khu vực, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hịa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
Đặc biệt nghị quyết cũng nhắc lại lời cảnh báo của nghị quyết 32 khóa V về nguy cơ tụt
hậu xa hơn “nếu chúng ta lại để lỡ những cơ hội lớn đó thì sẽ gặp những thách thức mới
17
và sẽ bị thua kém về mọi mặt so với nhiều nước trên thế giới”. Ra sức tranh thủ sự đồng
tình của thế giới, làm thất bại âm mưu cơ lập ta về kinh tế và chính trị; lợi dụng sự phát
triển của khoa học – kỹ thuật, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân cơng lao động
quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang thăm và ký Thông cáo
chung Việt Nam – Indonexia tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/07/1987, vừa khai
thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề
Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia từ 1984 - 1989. Như vậy
vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hịa bình. Trước những tiến triển mới đó, các
nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt
Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN
lần thứ 3 họp tại Manila (Philipin) Tổng thống Philipin C.V.Akinô tuyên bố không coi
Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin.
Tiếp đó tháng 2/1989, Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố: “Không chống lại việc
Việt Nam gia nhập ASEAN”. Còn Thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi lên cầm quyền
tháng 8/1988, đã đưa ra chủ trương: “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị
trường”. Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ
(6/1989). Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI, Nhà nước ta cũng luôn
khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hồ bình với các nước trong
khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hồ bình, ổn
định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình
Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu
nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực”. Tại Hội nghị này, Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước
Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như
một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam –
ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi
bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là Tổng thống Indonexia Xuhacto,
nguyên thủ của một nước ASEAN đầu tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng
10/1990. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt thăm hữu nghị chính thức Indonexia,
Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến ngày 01/11/1991.
Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung Quốc về vấn
đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi
vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la Mỹ năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
Chúng ta đã giải quyết được vấn đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số thành quả
của cách mạng Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khai thơng quan
18
hệ với các nước ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu
vực Đơng Nam Á hịa bình, ổn định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan hệ
với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng cường quan hệ với Nhật Bản và các nước phương
Tây khác. Những thành tựu đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới này sẽ tạo đà cho những thắng
lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo.
2.1.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1996):
Ở giai đoạn này 6/1991 Đại Hội VII đã nêu rõ: “ Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Cho
thấy Đảng ta ln khao khát được hịa nhập với cộng đồng quốc tế và mở cửa cho sự đầu
tư phát triển vào Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc Hiệp định
Pari về Campuchia được ký kết tháng 10/1991 đánh dấu chấm dứt của “thời kỳ
Campuchia trong quan hệ Việt Nam - ASEAN , mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác
của cả hai bên”. Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên lợi ích lớn nhất của đất
nước lúc này là duy trì hịa bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và
khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước đi
lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ
công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các
vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối
quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…, trên cơ sở giữ vững
độc lập tự chủ, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn
hóa dân tộc… Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành
đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Lãnh đạo ta và lãnh đạo các nước ASEAN liên tiếp tiến hành các chuyến viếng thăm lẫn
nhau, góp phần gia tăng sự hiểu biết và tin cậy. Ta và các nước này đã ký hàng chục hiệp
định cấp chính phủ tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu
tư, khoa học kỹ thuật. Các nước ASEAN trở thành bạn hàng quan trọng, chiếm khoảng
30% hàng xuất – nhập khẩu của ta, kim ngạch buôn bán hai chiều tăng từ 1,6 tỷ USD
năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm 1994. Các nước thành viên ASEAN cũng chiếm hơn 20%
tổng số đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước này cũng từng
bước thương lượng giải quyết những vấn đề tồn tại. Chúng ta đã thỏa thuận với Malaysia
cùng khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản. Thái Lan tiếp tục giải
19
quyết thuận lợi việc cho Việt kiều ngập quốc tịch, khai thông sự hợp tác về sông
Mekong, lập quỹ khu vực, duy trì viện trợ linh hoạt hơn trong đàm phán về vùng chồng
lấn, thỏa thuận về lập lại trật tự trên Vịnh Thái Lan. Chúng ta cũng kiên trì thúc đẩy đàm
phán phán về thềm lục địa với Indonexia.
Tháng 07/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Bali, trở hành quan sát viên của
ASEAN. Với tư cách là quan sát viên ASEAN, từ năm 1992 ,Việt Nam đã được mời
tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Từ tháng
2/1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp”.
Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại
,các nước ASEAN tuyên bố “ muốn Việt Nam sớm gia nhập ASEAN”. Tháng 10/1993,
chúng ta tuyên bố chính sách 4 điểm định hướng quan hệ với ASEAN . Tại hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các nước ASEAN đã nhất trí
tuyên bố sẵn sàng cơng nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN. Ngày
28/07/1996, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương quốc Bruney) lễ kết nạp Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã được tổ chức trọng thể.
Quốc Hội nước ta cũng gia nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO).Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của
Đảng đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ
với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới trên mặt trận đối ngoại, Việt Nam đã giữ
vững được mơi trường hịa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và cơ lập về
chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – nước láng giềng lớn và Hoa Kỳ –
cường quốc số 1 thế giới, gia nhập ASEAN và đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nước
ở khắp năm châu ( riêng từ 1991 – 1996 Việt Nam đã lập thêm quan hệ ngoại giao với 42
nước , nâng tổng số các nước có quan hệ ngoại giao với ta lên 160 nước ). Điều này cho
thấy, vị trí, vai trị và uy tín của Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ năm 1996-đến nay:
2.2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004):
Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhiều
mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ
trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương đối ngoại
của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
• Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác
20
• Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức
phi chính phủ.
• Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử
nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-1997), đề ra
chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Mỹ,
Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong
khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ trương
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực.
Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, trước hế là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực
kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; “thế” và
“lực” của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được cải thiện. Tuy nhiên, chúng ta cịn phải đối phó với nhiều khó khăn,
thử thách “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là
thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi
trường cạnh tranh quyết liệt”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hồn thiện
đường lối đối ngoại thơng qua việc khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Ngồi ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 112001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9
nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị
Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới nhằm đánh giá tồn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ 1991
đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại.
Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định hướng cho chính sách đối
ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Những thành tựu của cơng tác đối ngoại thời kỳ đổi mới trong chính sách và hoạt động
đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những
thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt: “Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử,
nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị – kinh tế lớn trên thế giới”.
21
Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen
lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với
Lào không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu
quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả
hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn
khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa
hồn tồn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước
đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp
định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước
trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông – Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đồn kết, duy trì những ngun tắc cơ bản, tăng
cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và
trên trường quốc tế
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền
thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hịa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mơng Cổ; các
nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung – Đơng Âu trên nhiều lĩnh vực, thể
hiện tình nghĩa thủy chung, đồn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước
châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn
trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có
lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước
thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác với Mỹ trên tinh
thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác
nhiều mặt với Nhật 17 Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là
trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển
giao công nghệ.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến
nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu
rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp
tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); có
quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB)… Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-12004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt cá điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
22
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất nước
thông qua việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định. Đặc biệt là công tác nghiên cứu,
tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư; tham gia giải quyết vướng mắc
trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác. Hoạt động ngoại giao đa phương
có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp
phần nâng cao hơn nữa vai trị và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên
hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng
tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế –
xã hội; đồng thời đóng góp bảo vệ hịa bình và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức,
Đảng khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể
tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới cơng
tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi đã được ban hành, nhằm xóa bỏ ngăn cách giữa
người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về
cội nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cơng
dân Việt Nam ở nước ngồi, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 – đến nay):
Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm “ thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hịa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại đa phương
hóa, mở rộng đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ trương “chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau”. Đại hội cũng
khẳng định “ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào quá trình hợp tác quốc tế và khu vực ”. Từ đây cũng cho thấy ví
thế nước ta trên trường quốc tế đã được nâng cao, được cơng nhận tồn diện, qua đó thể
hiện bước đi, đường lối đúng đắn của Đảng trong các thời kỳ đã qua. Kịp thời rút kinh
nghiệm sửa chữa các yếu điểm cịn tơn đọng phấn đấu và tích cực phát huy các thế mạnh
của mình hơn nữa.
Đến kì Đại Hội XI tháng 1 năm 2011 Đảng ta cũng tiếp tục một lần nữa khẳng định các
chính sách đường lối của mình trong Đại Hội X và đề ra những phương hướng tiếp theo
trong tình hình mới. Đảng ta nhấn mạnh “ Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thiết lập quan
hệ với các đảng cánh tả, các đảng cầm quyền... hợp tác bình đẳng cùng có lợi trên cơ sở
các nguyên tắc hiến chương của LHQ và luật pháp quốc tế”.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính
sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc
23
tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được tình huống
thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoành chỉnh hệ thống pháp luật;
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận
trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải có ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà
nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội. Hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; nhiều cơ hội song cũng đầy
thách thức, vì vậy ta cần có kế hoạch và lộ trình thích hợp, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức quốc tế mà ta tham gia.
Sau hơn 11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 11-2006, Việt Nam được kết nạp làm thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này cũng là một trong
những bước đi đầy táo bạo và khó khăn của Đảng ta với các vấn đề thế giới hiện tại.
Trong đại hội XII tháng 1 năm 2016 nêu rõ mục tiêu đối ngoại của Đảng ta là: “ Đảm
bảo lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế bình đẳng cùng có lợi”.
Việc gia nhập tổ chức quốc tế này là một cột mốc hết sức quan trọng, mở ra nhiều điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế. Đó là ta được hưởng sự đối xử
bình đẳng trong quan hệ thương mại với 150 thành viên WTO, những hàng rào thuế quan
phi WTO mà ta phải chịu trước đây đều được bãi bỏ tạo điều kiện cho ta tăng khả năng
xuất khẩu. Cơ hội để Việt Nam thu hút đầu tư của các nước cũng tăng lên. Hiện nay ta có
quan hệ đầu tư với khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Một nét mới khác của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới là ngoại giao văn hóa được
đẩy mạnh và nâng lên thành một trụ cột chính cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao
kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Năm 2009 được lấy làm năm Ngoại giao văn hóa.
Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều
hoạt động văn 19 hóa đối ngoại đa dạng, phong phú, mang lại nhiều kết quả đáng khích
lệ. Nhiều hoạt động văn hóa đối ngoại được tổ chức trong và ngồi nước, góp phần quảng
bá rộng rãi hình ảnh một nước Việt Nam hịa bình, phát triển và thân thiện với cộng đồng
quốc tế. UNESCO đã ra Nghị quyết kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, trao giải
thưởng cho Hà Nội là “Thành phố vì hịa bình”. Nhiều di sản của đất nước, như quan họ
Bắc Ninh, Ca trù, Kho mộc bản triều Nguyễn… và nhiều thắng cảnh, như Cù Lao Chàm,
Mũi Cà Mau v.v.. đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới. Tháng 102009, Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 – 2013.
24
Qua 25 năm thực hiện đổi mới trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao phối hợp với các cơ
quan liên quan khác đã đạt được những thành tựu to lớn, ghi đậm dấu ấn của trường phái
ngoại giao Hồ Chí Minh trên thế giới.
Một là, hình ảnh và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế đã được cải thiện. Việt
Nam khơng những là đất nước hịa bình hữu nghị mà cịn là một nước đã ra khỏi đói
nghèo và đang phát triển đầy ấn tượng. Chúng ta đã hoàn thành xuất sắc trọng trách ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và đang
hồn thành tốt vai trị Chủ tịch ASEAN 2010.
Hai là, đã làm công tác ngoại giao kinh tế, là thành viên của ủy ban quốc gia về
hợp tác kinh tế quốc tế, ngoại giao đã chủ động và tích cực tham gia cơng tác tham mưu
về chính sách kinh tế đối ngoại, nhất là kinh nghiệm của các nước về chính sách thị
trường, đối tác, kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, và luật chơi quốc tế. Đã tranh thủ được
một số nước và các tổ chức quốc tế giúp ta công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công
tác kinh tế đối ngoại v.v..
Ba là, ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh biên giới lãnh
thổ. Các hiệp định biên giới trên đất liền với Trung Quốc cũng như với Lào và
Campuchia đã tạo cơ sở cho việc xây dựng một khu vực biên giới hịa bình và phát triển
với các nước láng giềng.
Bốn là, thế giới đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam trong việc thúc đẩy
và bảo về quyền con người ở Việt Nam. Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc đã
chính thức thơng qua Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện quyền con người ở Việt
Nam và hoan nghênh các cố gắng của Việt Nam trong việc trao đổi, đối thoại cởi mở với
nhiều nước về vấn đề này. Với chính sách “người Việt Nam ở nước ngồi là một bộ phận
khơng tách rời của dân tộc Việt Nam” và với tinh thần hòa hợp dân tộc, Nhà nước ta đã
tạo điều kiện thuận lợi cho 20 người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ
quốc. Ngoài ra, ta tiếp tục thảo luận với các nước ASEAN cũng như với các quốc gia đối
tác để sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đơng có tính chất ràng buộc
thay cho Tuyên bố về cách ứng xử (DOC) hiện nay. Trong chặng đường 65 năm qua,
nhất là trong gần 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển của đất
nước, những thành tựu đó của ngoại giao Việt Nam đã góp phần cải thiện và nâng cao vị
thế của Việt Nam trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.
KẾT LUẬN
25