Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận Luật trọng tài thương mại và thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại: Các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.34 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ­ TIN HỌC 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

211231203303­ NHĨM 1

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỦ TỤC GIẢI 
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH, THƯƠNG 
MẠI


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ­ TIN HỌC 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

211231203303­ NHĨM 1

Các tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỦ TỤC GIẢI 
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH, THƯƠNG 
MẠI

Giảng viên: Huỳnh Quang Thuận



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


DANH SÁCH SINH VIÊN NHĨM 01 ­ LTTTM ­ MàLỚP 211231203303

STT
1.
2.
3.

Tên
Nguyễn Thị Phương Thảo
Lê Hồng Đức
Đồn Lê Thanh Bình

MSSV
18DH380193
18DH380095
18DH380092

5


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình của bản thân tơi. Các nội dung nghiên cứu 
và kết quả  trong đề  tài này là trung thực, chưa được ai cơng bố  trong bất cứ cơng  
trình nào. Nếu có bất kỳ  sự  gian lận nào, tơi xin chịu trách nhiệm trước hội đồng 
chấm thi.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 01 năm 2022
                                                                   Sinh viên


6


MỤC LỤC

CÂU HỎI
(Ghi lại chủ đề đã chọn và cả vụ việc tự chọn ở đây)

7


Đề tài: Sinh viên chọn 01 đề tài trong số các đề tài sau và phân tích dựa trên 
các tiêu chí: (i) quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) Thực tiễn áp dụng; (iii) 
Bất cập; (iv) Kinh nghiệm nước ngồi; (v) Quan điểm cá nhân về hồn thiện.
1. Các tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài.

8


BÀI TIỂU LUẬN
Lý do chọn đề tài
      Song song với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam, nhu cầu xác 
lập giao dịch dân sự theo đó ngày càng gia tăng. Hệ quả tất yếu là tranh chấp, xung  
đột lợi ích giữa các bên trong quan hệ  dân sự  cũng tăng theo. Nhu cầu giải quyết  
tranh chấp giữa các bên ngày 1 lớn, như  chúng ta đã biết, tranh chấp có thể  được  
giải quyết thơng qua 4 phương thức: Thương lượng, Hịa giải, Trọng tài và Tịa án.  
Thương lượng và hịa giải ít phổ biến vì nó phụ thuộc nhiều vào ý chi chủ quan của  
các bên. Khi mâu thẫn gay gắt, xung đột lợi ích càng lớn thì sẽ càng khó thơng nhất  
ý chí giữa các bên. Do lẽ đó, các bên thường tìm tới phương thức giải quyết mang  

tính phán quyết, bắt buộc các bên thi hành như  là Trọng tài và Tịa án. Vì cả  2 
phương thức giải quyết tranh chấp đều mang tính chất phán quyết, vì vậy vấn đề 
đặt ra là phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mỗi phương thức. Cụ thể 
những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài? Những tranh chấp nào sẽ 
được giải quyết bằng Tịa án? Bài tiểu luận này sẽ  phân tích, bình luận cụ  thể 
những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài trên cơ sở pháp luật Việt  
Nam.
I. Nội dung qui định pháp luật
      Như đã phân tích ở trên, do phát sinh nhu cầu phân định thẩm quyền của Trọng 
tài và Tịa án dẫn tới sự ra đời của Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 về các 
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải của trọng tài như sau:
­  Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
­  Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương  
mại.
­  Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng  
tài.
      Về phân định thẩm quyền giữa Tịa án và Trọng tài ở Điều 2 Luật trọng tài 2010 
được hướng dẫn thi hành cụ thể tại Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ­HĐTP:


      1. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quy định tại Điều 2 Luật 
TTTM nếu các bên có thoả  thuận trọng tài quy định tại Điều 5 và Điều 16 Luật  
TTTM, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
      2. Khi có u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quy định  
tại Điều 2 Luật TTTM thì Tịa án u cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó  
các bên có thoả thuận trọng tài hay khơng. Tịa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu 
gửi kèm theo đơn khởi kiện để  xác định vụ  tranh chấp đó có thuộc trường hợp 
hướng dẫn tại khoản 3 Điều này hay khơng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tịa án  
xử lý như sau:
           a) Trường hợp tranh chấp khơng có thoả  thuận trọng tài hoặc đã có bản án,  

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu 
lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp khơng có thỏa thuận trọng tài thì 
Tịa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
         b) Trường hợp tranh chấp đã có thoả  thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài 
khơng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tịa án căn cứ  quy 
định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ  luật tố  tụng dân sự  năm 2004 đã được sửa 
đổi, bổ  sung theo Luật sửa đổi, bổ  sung một số  điều của Bộ  luật tố  tụng dân sự 
năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) để  trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu, 
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
      Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tịa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả 
thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài khơng thuộc trường hợp hướng dẫn tại  
khoản 3 Điều này thì Tịa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS 
ra quyết định đình chỉ  việc giải quyết vụ  án, trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu 
gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
      c) Trường hợp đã có u cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng  
tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tịa án nhận thấy tranh chấp khơng thuộc 
thẩm quyền của Trọng tài, khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận 
trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này mà người khởi 
kiện có u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp thì Tịa án trả lại đơn khởi kiện cho  


người khởi kiện, trường hợp Tịa án đã thụ  lý thì ra quyết định đình chỉ  việc giải  
quyết vụ  án, trừ  trường hợp Tịa án thụ  lý vụ  tranh chấp trước khi có u cầu  
Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có quyết định, phán quyết của Hội đồng  
trọng tài quy định tại các điều 43, 58, 59 và 61 Luật TTTM mà người khởi kiện có 
u cầu Tịa án giải quyết, thì Tịa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
      3. Tranh chấp có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau 
đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án, trừ  trường hợp các bên có thoả 
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác:
      a) Có quyết định của Tịa án huỷ phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội  

đồng trọng tài về việc cơng nhận sự thỏa thuận của các bên;
      b) Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung  
tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59  
Luật TTTM;
      c) Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị 
quyết này.
      4. Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài,  
vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tịa án mà các bên khơng có thỏa  
thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và  
khơng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì 
xử lý như sau:
      a) Trường hợp người khởi kiện u cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước  
khi u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp hoặc u cầu Trọng tài giải quyết tranh  
chấp khi Tịa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tịa án  
căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường 
hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tịa án phải trả  lại đơn khởi kiện, nếu đã  
thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định  
đình chỉ việc giải quyết vụ án vì khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án, trả  lại đơn 
khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.


       b) Trường hợp người khởi kiện u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp, thì ngay 
sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tịa án phải xác định một trong các bên đã u 
cầu Trọng tài giải quyết hay chưa.
      Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tịa 
án xác định người bị  kiện, người khởi kiện đã u cầu Trọng tài giải quyết tranh  
chấp thì Tịa án trả  lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị 
kiện, người khởi kiện chưa u cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tịa án xem  
xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
           Trường hợp Tịa án đã thụ  lý vụ  án mà phát hiện tranh chấp đã có u cầu 

Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tịa án thụ lý vụ án thì Tịa án căn cứ quy định 
tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án  
vì khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án, trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi  
kèm theo đơn khởi kiện.

II. Phân tích nội dung qui định pháp luật
      Về qui định ở Khoản 1 Điều 2 Luật trọng tài 2010, đây là qui định về điều kiện  
các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, phụ  thuộc vào tính chất của tranh  
chấp phát sinh là từ  hoạt động thương mại, đây là sự  kế  thừa của Luật trọng tài 
thương mại 2010 đối với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Tuy nhiên, đây là 
điều khoản gây tranh cãi khá nhiều. Lý do phát sinh từ khái niệm hoạt động thương  
mại có thể hiểu theo 2 nghĩa rộng và hẹp. Hoạt động thương mại thương mại theo  
nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt động phát sinh nhằm mục đích sinh lời tức  
là phạm vi của nó rất rộng. Tuy nhiên, hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp được  
định nghĩa luật nội dung tức Luật thương mại 2005 là chỉ các hoạt động được phát 
sinh giữa các thương nhân tức các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân 
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xun và có đăng ký kinh doanh 
(Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005). Từ đây, sẽ  phát sinh 2 luồng quan điểm 
trái ngược trong các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài phát sinh từ tinh chất 
tranh chấp như đã phân tích ở trẻn.


      Nắm bắt được bất cập ở Khoản 1, Khoản 2 qui định 1 cách khái qt, rõ ràng  
hơn về điều kiện các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, ở đây là điều kiện 
về  chủ  thể, chỉ  cần ít nhất 1 bên trong tranh chấp có hoạt động thương mại thì  
tranh chấp đó có thể giải quyết bằng trọng tài. Mà theo luật nội dung (Luật thương 
mại 2005), hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm  
mua bán hàng hố, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động 
nhằm mục đích sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005). Tóm lại, chỉ 
cần ít nhất 1 bên có hoạt động nhằm mục đích sinh lời thì tranh chấp đó có thể giải  

quyết bằng trọng tài => Giaỉ quyết được tranh cãi phát sinh từ Khoản 1. Tuy nhiên,  
cũng có vài lĩnh vực đặc biệt theo dân sự nghĩa hẹp như hơn nhân – gia đình, thừa 
kế, lao động tuy có thể  có 1 bên hoạt động thương mại nhưng vẫn bắt buộc phải  
giải quyết bằng Tịa án.
        Khoản 3 là 1 điều khoản mở  để  phù hợp với các ngành luật khác. Có những  
tranh chấp khơng thuộc 2 khoản trên nhưng theo qui định của luật chun ngành thì 
phải quyết bằng trọng tài. Ví dụ, trong Điều 30, 38 Luật bảo vệ người tiêu dùng và 
Điều 17 Luật trọng tài thương mại 2010 thì người tiêu dùng có quyền lựa chọn  
phương thức giải quyết tranh chấp.
III. Thực tiễn áp dụng: 
      Trong thời đại nền kinh tế ngày một phát triển hoạt động thương mại diễn ra 
phổ biến mỗi ngày. Tuy nhiên khơng phải lúc nào việc giao kết hợp đồng cũng diễn  
ra sn sẻ, mà nó ln tiềm ẩn những tranh chấp do vi phạm hợp đồng hoặc một số 
lý do khác. Vậy khi tranh chấp xảy ra sẽ xử lý như thế nào, đó là lựa chọn của các  
bên doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng. Trong trường hợp thương lượng hoặc hịa  
giải khơng thành cơng tranh chấp kinh tế có thể giải quyết bằng một trong hai con 
đường là họ có thể chọn Tịa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để 
giải quyết tranh chấp mà cũng có thể nộp đơn khởi kiện lên giải quyết bằng trọng  
tài theo quy định Luật trọng tài thương mại 2010. Vậy việc giải quyết tranh chấp  
trọng tài diễn ra như thế nào và thực trạng các vụ việc được giải quyết bằng trọng  
tài ở Việt Nam có những điểm gì nổi bật sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu.


      Thực chất việc dùng trọng tài để giải quyết tranh chấp khơng cịn xa lạ đối với 
các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên các doanh nghiệp  
ở Việt Nam vẫn cịn dè dặt khi phải chọn giải quyết tranh chấp tại trọng tài và khi  
các vụ tranh chấp xảy ra các bên thường khởi kiện tại Tịa án. Có thể  nói mặc dù  
phương thức trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng ở Việt Nam thì mới xuất hiện  
nổi bật 10 năm trở lại đây, do đó các cách thức hoạt động cũng như các quy định tại  
trung tâm trọng tài chưa đáp  ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo thống  

kê thì tại Việt Nam hiện có khoảng 15 Trung tâm trọng tài thương mại1, nhưng 
phần lớn các vụ  việc tranh chấp xảy ra được giải quyết tại Trung tâm trọng tài 
quốc tế Việt Nam có tên viết tắt là VIAC. Điển hình là số liệu báo cáo thường niên 
năm 2018 của Trung tâm trọng tài Quốc tế  Việt Nam (VIAC) 2, cho biết năm 2018 
vừa qua, tổ chức này đã giải quyết 180 vụ  tranh chấp thương mại với tổng trị giá  
9.400 tỷ  đồng ­ mức cao nhất trong 25 năm qua kể  từ  khi được thành lập theo 
Quyết định 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ  tướng Chính phủ  với tính chất tranh  
chấp là 51% quốc tế và 49% trong nước trải dài  ở  các lĩnh vực như  mua bán hàng 
hóa, hợp tác kinh doanh, bất động sản, bảo hiểm, xây dựng, dịch vụ. Từ  số  liệu 
trên có thể thấy tín hiệu hết sức khả quan của phương thức giải quyết bằng trọng  
tài nhưng đồng thời cho thấy tình trạng có rất nhiều các Trung tâm trọng tài, nhưng  
các vụ việc chỉ tập trung giải quyết  ở một trung tâm trọng tài nhất định, điều này  
đặt ra bài tốn khó để  có thể  cải thiện lịng tin của các doanh nghiệp  đối với  
phương thức trọng tài nói chung và các trung tâm trọng tài nói riêng.
      Bên cạnh đó kiến thức pháp luật của bản thân các doanh nghiệp hiện nay chưa  
cao, nhiều doanh nghiệp chính bản thân họ  cũng chưa biết được Luật trọng tài 
thương mại có tồn tại hay khơng chính vì vậy mà đa số  các vụ  việc tranh chấp 
thương mại xảy ra họ đều nghĩ đến biện pháp khởi kiện tại Tịa án do các quy định 
1 Các trung tâm thương mại tại Việt Nam:  />
mai­o­viet­nam/

2 Báo cáo thường niên Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2018: 

/>

tại Bộ  luật tố  tụng dân sự  có đề  cập đến thẩm quyền giải quyết các tranh chấp 
liên quan đến kinh tế  thương mại. Cộng thêm việc Luật trọng tài đã ban hành từ 
năm 2010 và cách nay đã hơn mười năm chính vì vậy một vài các điều luật khi áp 
dụng đã khơng cịn phù hợp nữa bộc lộ ra rất nhiều nhược điểm. Cách nhìn về luật 
chưa thực sự rõ ràng, các điều luật quy định cũng chồng chéo lên nhau khiến các tổ 

chức, doanh nghiệp cá nhân họ  khơng tin tưởng để  giải quyết trọng tài vì có thể 
những quy định khơng rõ ràng ấy có thể gây bất lợi cho họ.
      Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài theo Điều 2 Luật trọng tài  
thương mại 2010 chỉ  đề  cập rằng các tranh chấp phát sinh từ  hoạt động thương 
mại, giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc tranh 
chấp giữa các bên mà pháp luật quy định giải quyết bằng trọng tài. Quy định này rất 
chung khiến cho những người khơng am hiểu về  luật trọng tài thương mại có thể 
hiểu sai về  thẩm quyền giải quyết chỉ gói gọn trong các tranh chấp về  hoạt động 
thương mại như  các hoạt động mua bán và khơng biết được tranh chấp khác mà  
pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài là những tranh chấp gì. Thực tế, 
các tranh chấp về sở hữu trí tuệ  khơng phải tranh chấp về  thương mại mà có thể 
giải quyết bằng trọng tài nếu luật quy định với một số  ngoại lệ  và hạn chế  nhất 
định vì hầu hết các tranh chấp sở  hữu trí tuệ  là các bằng sáng chế, nhãn hiệu, bí  
mật thương mại, bản quyền3, ... hay điểm b Khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng 2014 
sửa đổi bổ  sung năm 2020 cho phép các bên có thể  đưa tranh chấp ra giải quyết  
bằng trọng tài “Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh  
chấp. Trường hợp các bên hợp đồng khơng tự  thương lượng được thì tranh chấp 
được giải quyết thơng qua hịa giải, trọng tài thương mại hoặc tịa án theo quy định  
của pháp luật.” Những tranh chấp này có thể  liên quan đến bản chất quốc tế, một 
số  bản án áp dụng luật nước ngồi nên việc lựa chọn giải quyết tranh chấp tại  
trọng tài hợp lý hơn bao giờ  hết. Chính vì vậy nên nếu như  khơng am hiểu thì có 

3 Trọng tài quốc tế và sở hữu trí tuệ (IP) Tranh chấp: ernational­arbitration­
attorney.com/vi/international­arbitration­and­intellectual­property­ip­disputes/


thể  sẽ khơng biết vụ tranh chấp liên quan đến xây dựng hay sở  hữu trí tuệ  có thể 
giải quyết bằng trọng tài tại các trung tâm trọng tài hay trọng tài vụ  việc thay cho  
việc khởi kiện tại Tịa án vừa có thể tiết kiệm được thời gian xét xử và vừa có các  
trọng tài viên am hiểu kiến thức kỹ thuật và chun mơn trong lĩnh vực nhất định. 

IV. Bất cập
      Theo khoản 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại, trọng tài có thẩm quyền giải 
quyết “tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động 
thương mại”. Qui định này chỉ  tập trung vào chủ thể  tranh chấp chứ khơng hề  đề 
cập đến bản chất của tranh chấp. Nói cách khác, qui định như vậy có thể dẫn đến 
cách hiểu là chỉ cần một bên tranh chấp có hoạt động thương mại thì bất kỳ tranh  
chấp nào mà họ là một bên đều có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. 
Chẳng hạn, trong tranh chấp về  nhà  ở, một bên có đầu tư  phát triển nhà thương  
mại thì đây là tranh chấp có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và có thể 
được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Quy định tập trung vào chủ  thể  của  
tranh chấp như vậy sẽ dẫn đến hệ  quả  phức tạp trong việc xác định thẩm quyền 
giải quyết tranh chấp của trọng tài hoặc Tịa án. Chẳng hạn, trong trường hợp A là 
một thương nhân (là chủ thể có hoạt động thương mại) muốn ly hơn với B thì xét 
từ  góc độ  chủ  thể, tranh chấp này cũng thuộc qui định trên, nhưng về  bản chất  
tranh chấp thì trọng tài Việt Nam chưa có thẩm quyền để giải quyết.
      Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm so với các hình thức giải 
quyết tranh chấp bằng Tịa án, hịa giải và thương lượng. Tuy nhiên hình thức này 
chưa phải là hồn hảo, bên cạnh những ưu điểm của mình thì trọng tài vẫn tồn tại 
nhiều hạn chế, bất cập điển hình như  bản chất trọng tài Việt Nam có những hạn 
chế  nhất định như  đối với các tranh chấp thương mại rất nhỏ  về  mặt giá trị, thì  
hiệu quả  kinh tế  các bên sẽ  phải suy nghĩ lại trước khi giải quyết tranh chấp tại  
trọng tài vì chí phí để giải quyết tại trọng tài sẽ  cao hơn so với Tịa án theo án phí 
của Tịa.
      Các tranh chấp thương mại thường là các tranh chấp liên quan đến bí mật kinh  
doanh hay ảnh hưởng trực tiếp đến danh tiếng, uy tín của các doanh nghiệp, vì vậy  


mà thủ  tục tố  tụng của trọng tài thương mại phải tn thủ  tuyệt đối ngun tắc 
bảo mật khiến cho các trọng tài viên khơng thể  tìm hiểu kinh nghiệm qua các vụ 
kiện trọng tài khác mà mình khơng được tham gia, đặc biệt là đối với các trọng tài  

viên mới vào ngành rất khó có được kinh nghiệm để  giải quyết các vấn đề  tương  
tự một cách chính xác.
       Thủ tục tố tụng khi giải quyết các tranh chấp từ  khi bắt đầu cũng có một số 
nhược điểm đáng kể  như  việc gửi thơng báo cho các bên theo khoản 3 Điều 12 
Luật trọng tài thương mại 2010 như  việc gửi thơng báo, tài liệu sẽ  được gửi đến  
đúng địa chỉ mà các bên thơng báo tuy nhiên sẽ có các trường hợp khi khởi kiện các 
bên  ở  đúng địa chỉ  đã thơng báo nhưng sau đó lại chuyển đi nơi khác khiến các 
thơng báo cũng như tài liệu được gửi đến sẽ khơng nhận được, đây là một điểm trừ 
đối với các bên giải quyết tranh chấp tại trọng tài vì khi họ khơng nhận được thơng 
báo sẽ  mất đi quyền lợi cộng thêm việc các Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng 
trọng tài khi gửi đi khơng cần biết các bên đã nhận được hay chưa chỉ cần giao đến 
đúng địa chỉ đã thơng báo thì đều tính là đã nhận được theo khoản 5 Điều 12 Luật  
trọng tài thương mại 2010. Điều này khơng giống với khi giải quyết các vụ việc tại  
Tịa án vì khi tịa án gửi giấy triệu tập hay bất kỳ tài liệu khác nếu các bên khơng 
thực ở tại địa chỉ đó họ sẽ niêm yết tại địa phương.
      Để có thể được hỗn phiên họp giải quyết tranh chấp khi có lý do chính đáng.  
Tuy nhiên trong luật thương mại thì lại khơng quy định rõ ràng như thế nào là lý do 
chính đáng và lý do chính đáng đó phải được sự chấp nhận của trọng tài theo Điều 
57 Luật trọng tài thương mại 2010, đây là một vướng mắc rất lớn vì lý do chính  
đáng để  được hỗn phiên tịa đều phụ  thuộc sự chấp nhận của Hội đồng trọng tài 
chẳng hạn như đại diện bị đơn đột nhiên bị bệnh bên phía bị đơn sẽ cho rằng phiên 
Tịa được hỗn nhưng Hội đồng trọng tài có thể  cho rằng đây khơng phải là lý do  
chính đáng để  có thể  hỗn phiên tịa, gây bất lợi về quyền, đặc biệt là mất quyền  
phản đối nếu một bên khơng tham gia tố  tụng trọng tài theo theo Điều 13 Luật  
trọng tài thương mại 2010.
       Ngồi ra trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung  
thẩm đây là một ngun tắc cơ  bản của trọng tài, điều này làm tăng hiệu lực cho  


phán quyết trọng tài. Trong khi đó, đối với việc giải quyết tranh chấp tại Tịa án lại 

được thực hiện theo ngun tắc hai cấp xét xử nên phán quyết của Tịa án có nhiều 
cơ hội để xem xét lại theo thủ tục Tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Nếu phán quyết  
của trọng tài có sai sót về mặt nội dung, khơng đảm bảo giải quyết quyền và nghĩa 
vụ của các bên thì cũng khơng có cơ  hội sửa chữa, thay đổi cũng như  hủy bỏ. Các  
bên khơng có quyền u cầu Tịa án cũng như bất kì cơ quan nào xem xét lại quyết  
định trọng tài. 
           Phán quyết chỉ  mất giá trị  khi bị  Tịa án tun hủy quyết định trọng tài nếu 
HĐTT ra quyết định trọng tài đã vi phạm các quy định về tố tụng theo Điều 44 Luật  
trọng tài thương mại 2010. Đây có thể  coi là một rủi ro của việc giải quyết tranh  
chấp bằng trọng tài. Bên cạnh đó, phán quyết trọng tài lại do cơ  quan thi hành án 
dân sự  có thẩm quyền thi hành phán quyết chứ  khơng phải trọng tài theo khoản 1  
Điều 8 Luật trọng tài thương mại 2010.
 
V. Kinh nghiệm nước ngồi
           Trong lĩnh vực trọng tài nói chung, chưa nói đến việc giải quyết tranh chấp  
thương mại bằng trọng tài, căn cứ liên hệ kinh nghiệm nước ngồi tại Quyển số IV  
của Bộ  luật Tố  tụng dân sự  của Pháp có tựa đề  rất ngắn gọn là “Trọng tài”. Liên 
quan đến thẩm quyền của trọng tài, từ  Điều 2059 đến Điều 2061 Bộ  luật Dân sự 
của Pháp; trong đó đáng chú ý là Điều 2059 quy định rằng, các chủ thể có thể thoả 
thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với lĩnh vực mà các bên có quyền tự 
do định đoạt. Điều 2060 của Bộ luật này quy định, những trường hợp khơng được 
thoả  thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bao gồm những vấn đề  liên quan  
đến lý lịch, năng lực của các chủ  thể, những vấn đề  liên quan đến ly hơn, ly thân,  
những tranh chấp liên quan đến chủ thể cơng và một cách chung nhất là những vấn  
đề thuộc về trật tự cơng cộng trừ những trường hợp mà các chủ thể cơng trong lĩnh  
vực cơng nghiệp và thương mại được pháp luật cho phép giải quyết tranh chấp  
bằng trọng tài.4  Có thể  thấy khơng giống với pháp luật Việt Nam việc các tranh 
4 Tham khảo: Phần 1.1. Bài học kinh nghiệm từ nước ngồi – Từ bài viết Hồn thiện pháp luật 

nước ngồi tại Việt Nam của TS. Nguyễn Thị Hoa  (Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. 



chấp được giải quyết bằng trọng tài theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự của  
Pháp có rất nhiều và điểm đặc biệt là có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và chủ 
yếu do các bên định đoạt, nó khơng gói gọn chỉ  trong các hoạt động thương mại  
hoặc liên quan đến thương mại giống như luật Ở Việt Nam. Từ thực tế trên có thể 
thấy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở  Pháp khơng được quy định thành  
một bộ luật riêng mà nó được quy định trong Bộ luật dân sự ln, cịn ở Việt Nam  
thì có luật quy định riêng tên Trọng tài thương mại 2010.
      Ngồi Pháp, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của nước rất gần gũi với Việt 
Nam là Singapore. Singapore là một trong những nước cũng ban hành Luật mang tên  
là “Luật trọng tài” (khơng sử  dụng thuật ngữ  “thương mại”) và Điều 4 của Luật  
này cho phép các bên được đưa ra trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ 
hơp  đồng  và  ngồi hợp  đồng.  5Tại  Việt  Nam  có  Trung  Tâm  trọng  tài Quốc   tế 
Singapore (SIAC), các tranh chấp có thể  sử  giải quyết bằng trọng tài tại SIAC sẽ 
bao gồm: các tranh chấp trong doanh nghiệp và thương mại, thương mại và đầu tư,  
xây dựng, kỹ thuật, vận tải biển, hàng hải, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, ngân hàng và 
tài chính  cùng với hàng loạt  các   tranh chấp khác.   Trung  tâm  trọng  tài Quốc   tế 
Singapore (SIAC) có Quy tắc trọng tài (SIAC Rules) dựa trên Luật mẫu do  Ủy ban 
Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) ban hành và được luật  
pháp Singapore thừa nhận (Luật trọng tài quốc tế của Singapore). 6
             Tại Anh, cũng chỉ  ban hành “Luật Trọng tài 1996” – khơng có thuật ngữ 
“thương mại” và khoản 1 Điều 6 Luật này cho phép các bên được thoả thuận giải 
Hồ  Chí Minh) – Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên cứu Lập pháp Thuộc Ủy ban thường  
vụ
 
Quốc
 
Hội):
 

/>tintucid=210862&fbclid=IwAR0NmhMyDlzDJl_Jx4ogsivxF2yIzzm4LTEL9clnSR6hVdswr0hpVZY
Kx2o

5Từ  bài viết Hồn thiện pháp luật nước ngồi tại Việt Nam của TS. Nguyễn Thị Hoa  (Khoa Luật 

Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ  Chí Minh) – Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên 
cứu Lập pháp Thuộc Ủy ban thường vụ Quốc Hội) 

6Về giải quyết tranh chấp hợp đồng thơng qua Trọng tài Sigapore:  />
quyet­tranh­chap­hop­dong­thong­qua­trong­tai­singapore


quyết tranh chấp hợp đồng cũng như  tranh chấp ngồi hợp đồng. Theo 1996 Đạo  
luật trọng tài Anh7, thỏa thuận trọng tài đề cập đến một thỏa thuận để đưa ra tranh  
chấp trong tương lai hoặc hiện tại cho trọng tài, trong đó sẽ  bằng văn bản hoặc  
bằng chứng bằng văn bản. Mặc dù các bên được tự do đưa ra một loạt các vấn đề 
hợp đồng và phi hợp đồng cho trọng tài, nhưng khơng phải tất cả các tranh chấp có 
thể được giải quyết bằng một hội đồng trọng tài.
      Hay hoạt động trọng tài tại Liên bang Nga giải quyết tranh chấp bằng trọng tài  
được xem là sự lựa chọn của các bên. Các Trung tâm Trọng tài giải quyết rất nhiều 
tranh chấp giữa các doanh nghiệp tại Liên bang Nga, kể cả các tranh chấp có yếu tố 
nước ngồi. Luật trọng tài của Liên bang Nga được ban hành năm 2002 quy định 
rằng theo thỏa thuận của các bên, bất kỳ  tranh chấp nào phát sinh từ  qua hệ  pháp  
luật dân sự, nếu khơng có quy định khác của pháp luật đều có thể giải quyết bằng  
trọng tài theo điểm 1 Điều 1 Luật trọng tài 2002 của Nga. Ngồi ra Bộ Luật Dân sự 
Liên bang Nga Điều 11 có đề  cập rằng, bên cạnh Tịa án Nhà nước, trọng tài có  
thẩm quyền bảo vệ quyền đang bị tranh chấp và bị vi phạm, đảm bảo cho việc giải 
quyết được tiến hành nhanh chóng. Pháp luật Nga chia trọng tài ra làm hai loại là 
trọng tài giải quyết các tranh chấp trong nước và trọng tài giải quyết các tranh chấp  
phát sinh từ  các quan hệ  hợp đồng và các quan hệ  khác trong q trình thực hiện  

kinh tế  đối ngoại và các tranh chấp có sự  tham gia của các doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngồi.8
      Hoặc lấy một ví dụ  khác như  Trung Quốc cũng chỉ  ban hành “Luật Trọng tài” 
và tại Điều 2 cho phép các bên thoả  thuận giải quyết bằng trọng tài đối với cả 
tranh chấp ngồi hợp đồng về quyền và lợi ích liên quan đến tài sản của các bên.

7 Trọng tài tại Vương quốc Anh: Các 1996 Đạo luật trọng tài: ernational­
arbitration­attorney.com/vi/arbitration­in­the­united­kingdom­the­1996­arbitration­act/

8 Khái qt về trọng tài, mối quan hệ giữa Tịa án và Trọng tài ở Liên bang Nga­ Kinh 

nghiệm đối với Việt Nam (Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam): 
/>98d590630e4a



VI. KẾT LUẬN
      Có thể nói rằng, những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài 
và cả Tịa án được xác định bởi nhiều yếu tố chính trị ­ xã hội, văn hóa và pháp lý,  
bao gồm vấn đề về hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tịa án, của trọng tài trong  
từng thời điểm phát triển của đất nước, mức độ của các hình thức giải quyết tranh  
chấp mà các bên lựa chọn, khả  năng thi hành phán quyết của trọng tài, tập qn  
pháp lý của cơng dân, lợi ích của nhà nước trong việc tham gia giải quyết một số 
loại tranh chấp nhất định,… Ngồi ra, các yếu tố  về  mặt kinh tế, và mức độ  phát  
triển thương mại của quốc gia. Vì lẽ đó, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài  
thường xun thay đổi theo chiều hướng mở  rộng thẩm quyền giải quyết tranh  
chấp. Việc mở rộng phạm vi thẩm quyền tranh chấp sẽ một phần nào đó làm giảm  
gánh nặng cơng việc cho Tịa án nên sẽ làm giảm ngân sách chi tiêu cho hoạt động  
Tịa án. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng việc mở rộng thẩm quyền của trọng tài khơng 
chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của người làm luật, mà cịn phụ thuộc và điều kiện 

kinh tế  ­ xã hội và cam kết quốc tế  của các quốc gia.  Ở  các quốc gia khác nhau,  
chính sách cơng có thể khác nhau, thậm chí ở ngay chính một quốc gia thì chính sách 
đó có thể  thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy  ở  nước ta rất có thể  sau một thời  
gian thực hiện, dựa trên những kết quả thực tế nhà nước ta sẽ nghiên cứu, tiếp tục  
hồn thiện, mở rộng thẩm quyền của trọng tài theo lộ trình phù hợp. Trong q trình 
xây dựng các qui định về phạm vi các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của  
trọng tài cần xác định 3 mục tiêu chính sau đây: Quyền tự do cá nhân, tổ chức trong  
việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp; Bảo vệ  lợi  ích của xã hội trong 
trường hợp trọng tài viên vi phạm pháp luật;  Đáp  ứng u cầu của hoạt  động 
thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư bằng cách xây dựng cơ chế giải quyết tranh 
chấp độc lập.
      Việc Điều 2 Luật Trọng tài đã mở rộng đáng kể những tranh chấp có thể được 
giải quyết bằng trọng tài. Sẽ  chính xác hơn nếu Luật Trọng tài thương mại VN  
được gọi là Luật trọng tài. Như vậy sẽ khơng cịn hạn chế thẩm quyền trọng tài chỉ 
trong lĩnh vực tranh chấp thương mại. Mà lúc đó cả tranh chấp dân sự, thương mại, 


lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, nếu các bên có thỏa thuận giải quyết 
tranh chấp bằng trọng tài.


DANH MỤC THAM KHẢO

1.Luật Trọng tài thương mại đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày 17 tháng 6 năm 2010.
2. Các   trung   tâm   thương   mại   tại   Việt   Nam:   />
tam­trong­tai­thuong­mai­o­viet­nam/

3.


Báo cáo thường niên Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 
2018:  />
4. Trọng   tài   quốc   tế   và   sở   hữu   trí   tuệ   (IP)   Tranh   chấp: 

ernational­arbitration­attorney.com/vi/international­arbitration­
and­intellectual­property­ip­disputes/
5. Tham khảo: Phần 1.1. Bài học kinh nghiệm từ  nước ngồi – Từ  bài viết 

Hồn thiện pháp luật nước ngồi tại Việt Nam của TS. Nguyễn Thị  Hoa  
(Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ  Chí Minh) – Tạp chí 
nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên cứu Lập pháp Thuộc  Ủy ban thường vụ 
Quốc

 

Hội): />
tintucid=210862&fbclid=IwAR0NmhMyDlzDJl_Jx4ogsivxF2yIzzm4LTEL9cl
nSR6hVdswr0hpVZYKx2o
6. Từ bài viết Hồn thiện pháp luật nước ngồi tại Việt Nam của TS. Nguyễn  

Thị Hoa (Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) – Tạp  
chí nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên cứu Lập pháp Thuộc  Ủy ban thường  
vụ Quốc Hội) 


7.

Về   giải   quyết   tranh   chấp   hợp   đồng   thông   qua   Trọng   tài   Sigapore: 
/>singapore


8.

Trọng   tài   tại   Vương   quốc   Anh:   Các   1996   Đạo   luật   trọng   tài: 
ernational­arbitration­attorney.com/vi/arbitration­in­the­united­
kingdom­the­1996­arbitration­act/

9.

Khái qt về  trọng tài, mối quan hệ  giữa Tịa án và Trọng tài  ở  Liên 
bang Nga­ Kinh nghiệm đối với Việt Nam (Tạp chí khoa học pháp lý Việt 
Nam):

  />
oid=f3707513­13f8­4c8a­a7a3­98d590630e4a

      


×