Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

bai thu hoach ve chu nghia Mac Lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.41 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
1. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC...............................3
1.1. Bản chất tự nhiên của con người..............................................................3
1.2. Bản chất xã hội của con người.................................................................6
1.3. Sự tha hóa của con người.........................................................................8
1.4. Giải phóng và phát triển con người........................................................13
2. VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VIỆT NAM.........14
2.1. Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá trình phát triển đất
nước bền vững...............................................................................................14
2.2.Vận dụng những tư tưởng khoa học của C.Mác về xây dựng, phát triển
con người Việt Nam......................................................................................16
KẾT LUẬN........................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................20


MỞ ĐẦU
C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà khoa học, nhà tư tưởng vĩ đại có
những cống hiến to lớn, mang ý nghĩa bước ngoặt. Với những học thuyết về tư
bản và giá trị thặng dư, về quyết định luận duy vật và hình thái kinh tế - xã hội,
về giai cấp vơ sản và chủ nghĩa xã hội... thì vấn đề con người không phải là chủ
đề lớn của học thuyết C.Mác. Nhưng C. Mác đã trở thành người khởi xướng và
xây dựng nên học thuyết khoa học và cách mạng về con người, về sự nghiệp giải
phóng con người, giải phóng xã hội và phát triển con người tồn diện.
Sinh ra và lớn lên khi phong trào giải phóng con người và xã hội đang
phát triển và đòi hỏi cấp thiết là phải có một lý luận khoa học dẫn đường, đồng
thời những tiền đề vật chất và tư tưởng nhất định cũng đã chín muồi cho một lý
luận như vậy. Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen
con người ln giữ vị trí trung tâm và là mục tiêu cao nhất của học thuyết Mác.


Lý tưởng nhân văn xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ các cơng trình khoa học
và hoạt động xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen là tìm ra con đường giải phóng
và phát triển con người, trước hết và chủ yếu là xóa bỏ những điều kiện kinh tếxã hội dẫn đến sự tha hóa con người.
Học thuyết này của C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ tạo ra bước ngoặt
cách mạng trong quan niệm về con người và bản chất con người, về mối quan hệ
con người - tự nhiên - xã hội, vị trí và vai trị của con người trong tiến trình phát
triển lịch sử nhân loại và sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại,
phát triển con người tồn diện, mà cịn làm nên sức sống trường tồn của chủ
nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng
xã hội mới, trong nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, bên cạnh
những nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh,
quốc phòng, đối ngoại, Đảng ta coi nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ và thời gian tới; đồng thời
nhấn mạnh cần đảm bảo “an ninh con người” và nâng cao “chỉ số hạnh phúc của
con người Việt Nam” là một trong những nhiệm vụ hàng đầu.


NỘI DUNG
1. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC
1.1. Bản chất tự nhiên của con người
Vấn đề con người, thân phận con người ln được lồi người quan tâm
ngay từ khi mới xuất hiện. Con người luôn tự hỏi: ta là ai, ta từ đâu đến, ta có
thể đạt được gì trong cuộc sống của mình… Sống trong một xã hội đại đồng,
khơng có áp bức, bóc lột, sống trong tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau… là
mong muốn từ thời xa xưa của loài người. Chúng ta đã bắt gặp điều đó trong các
câu ca dao, tục ngữ, trong các câu chuyện thần thoại. Cùng với sự phát triển của
lịch sử, các trào lưu triết học, các tôn giáo ra đời và chúng ta cũng đã bắt gặp tư
tưởng đó ở một số học thuyết của các nhà tư tưởng, các triết gia, các tôn giáo
lớn, như Nho giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo… Nhưng, do những điều kiện

khách quan (như kinh tế chưa phát triển) hay chủ quan (đứng trên quan điểm của
tầng lớp chủ nô, phong kiến, tư sản…), họ đã không giải quyết được một cách
đúng đắn vấn đề này. Nho giáo với những quan niệm về “tam cương, ngũ
thường” buộc con người phải sống trong những bổn phận của mình đã trở thành
vịng cương toả bản chất tự do của sự phát triển con người. Phật giáo với quan
niệm “đời là bể khổ” đã đi tìm sự giải thốt nỗi khổ mà con người phải hứng
chịu bằng cách đi vào tính tự ngã bên trong của con người nhằm đạt tới sự sáng
suốt ở cõi Niết bàn - một thế giới phi hiện thực. Do gạt bỏ những ham muốn quý
báu, vốn có của con người, Phật giáo đã kìm hãm bản chất tự do trong mỗi con
người. Thiên Chúa giáo đưa ra một xã hội công bằng, bác ái, nơi mà mọi người
có thể phát triển một cách tồn thiện, tồn mỹ, nhưng xã hội đó lại ở thế giới bên
kia - thế giới thiên đàng, thế giới sau cuộc sống. Đến những nhà triết học nổi
tiếng, như Hêghen, Phoiơbắc cũng chỉ đưa ra những quan niệm hết sức mơ hồ,
phi thực tiễn về sự giải phóng con người. Hêghen cho rằng, con người có được
sự tự do cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng do con người và xã hội là sản
phẩm của “ý niệm tuyệt đối”, vì vậy, tự do là cái thuộc về tinh thần. Cịn
Phoiơbắc thì cho rằng, mọi người đều muốn sống, đều mong muốn có cuộc sống
hạnh phúc như nhau; tự nhiên khơng thể là nguồn gốc của sự bất cơng xã hội,
chỉ có việc con người thống trị con người mới là nguồn gốc của những bất cơng
xã hội. Song, do khơng tìm ra được thực chất của việc con người thống trị con
người, nên Phoiơbắc đã khơng tìm ra được con đường để giải phóng con người,
giải phóng lồi người, mặc dù ông cũng cho rằng, việc làm cho con người hạnh
phúc phải ở trong đời sống hiện thực chứ không phải ở thế giới sau cái chết như
các tôn giáo trước đó đã làm.


Nguyên nhân dẫn đến sai lầm của các học thuyết, các triết gia trên, có
thể nói, là rất nhiều, song, tựu trung lại, là do họ khơng có cách tiếp cận đúng
đắn vấn đề con người và giải phóng con người.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết C.Mác cho rằng, việc nhận thức con

người phải ở trong đời sống hiện thực của chính họ và đó khơng phải là những
con người trong tình trạng biệt lập, “cố định tưởng tượng” mà là “những con
người trong quá trình phát triển - q trình phát triển hiện thực và có thể thấy
được bằng kinh nghiệm - của họ dưới những điều kiện nhất định”[2, tr.38].
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác viết: “Những tiền đề xuất phát của
chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là
những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thơi.
Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều
kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm
nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy” [2, tr.29] .
Tư tưởng ban đầu về con người và xã hội loài người của C.Mác đã được
trình bày thơng qua sự phê phán “triết học pháp quyền” của Hêghen. Sau khi
phân tích quan niệm của Hêghen về con người, C.Mác cho rằng chủ thể của xã
hội không phải bắt nguồn từ “ý niệm hiện thực”, mà đó chính là con người hiện
thực, nhân dân hiện thực, là những con người mà trong hoạt động sống của mình
đã tạo nên, quyết định những lĩnh vực sinh hoạt xã hội khác nhau, trong đó có
nhà nước, chế độ chính trị của xã hội. Mác viết: “Con người bao giờ cũng vẫn là
bản chất của tất cả những tổ chức xã hội…” [3, tr.365]
Tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, được C.Mác viết vào tháng
Tư đến tháng Tám năm 1844, bằng tiếng Đức đã lần đầu tiên trình bày khá tồn
diện những tư tưởng triết học khoa học về lịch sử, trong đó nổi bật là nhận thức
sâu sắc hơn về vấn đề con người. Trong tác phẩm này, C.Mác khẳng định: Con
người “là thực thể tự nhiên có tính chất người” [4, tr.234] .
Thực ra, quan niệm xem con người là một thực thể tự nhiên là tư tưởng
của L.Phoiơbắc, người được C.Mác đánh giá là đã có cơng “làm cho quan hệ xã
hội của con người với con người trở thành nguyên tắc cơ bản của lý luận”.
Phoiơbắc cho rằng, con người là một thực thể đặc biệt của tự nhiên. Đặc biệt vì
nó là thực thể duy nhất có ý thức. Tuy vậy, việc xác định bản chất của nó, cũng
phải được tiến hành tương tự như đối với mọi sinh vật khác, tức là phải xác định

bằng tính chất của các “đối tượng bên ngồi” như khơng khí, nước, ánh sáng,
thức ăn, vật liệu hoạt động... - cái đảm bảo cho con người tồn tại một cách tất
yếu và hiện thực. Tiếp thu quan niệm này, C.Mác nhấn mạnh: “Con người trực


tiếp là thực thể tự nhiên” (Man is directly a natural being). Ơng giải thích: Với
tính cách là thực thể tự nhiên, hơn nữa, lại là “thực thể tự nhiên sống”, con
người, một mặt, được phú cho sức mạnh tự nhiên dưới hình thức các “năng lực”
“thiên bẩm”, “năng khiếu”. Nhưng mặt khác, con người còn “bị quy định và bị
hạn chế” bởi những “đối tượng” tự nhiên bên ngoài nó, “những đối tượng khơng
phụ thuộc vào nó” nhưng lại “cần thiết” và “căn bản” để nó thể hiện và khẳng
định mình. Cho nên về phương diện này, con người là “thực thể đau khổ”
(“Suffering Being”- C.Mác dùng lại thuật ngữ của Phoiơbắc, với hàm nghĩa là
con người buộc phải chịu sự quy định của tự nhiên). C.Mác nói rõ thêm: “Thực
thể khơng có tự nhiên ở bên ngồi nó thì khơng phải là thực thể tự nhiên, nó
khơng tham gia vào đời sống của tự nhiên” [4, tr.232-233] .
Có thể thấy, đây là quan niệm rất sâu và có lẽ hơi khác với quan niệm
hiện đại về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Hiện thời, ngay cả quan
niệm phát triển bền vững, một quan niệm chủ trương coi việc bảo vệ môi trường
như một thành tố đầu vào của sự phát triển xã hội và phát triển con người, cũng
không xem tự nhiên là một cái gì đó lớn đến mức như Phoiơbắc và C.Mác đã
luận giải. (Dĩ nhiên, các quan niệm hiện đại không hề xem thường sức mạnh tự
nhiên ngự trị trong và ngoài con người. Chính vì thế mới cần suy ngẫm, tại sao
hơn một trăm năm trước, Phoiơbắc và C.Mác lại đề cao yếu tố tự nhiên trong sự
tồn tại của con người đến thế, và ngày nay, liệu có cần một lần nữa nhấn mạnh
cái tự nhiên như thế hay không).
Mặc dù tiếp thu quan điểm đề cao yếu tố tự nhiên trong sự tồn tại người
của Phoiơbắc, song C.Mác không dừng lại ở tư tưởng của Phoiơbắc, mà đi xa
hơn và hồn chỉnh khái niệm con người của mình. C.Mác viết: “Nhưng con
người không chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người,

nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể lồi. Nó phải
biểu hiện và tự khẳng định như là thực thể loài trong tồn tại của nó cũng như
trong tri thức của nó” [4, tr.234].
Con người là thực thể tự nhiên có tính chất người- Có thể coi đây là định
nghĩa khái niệm con người của C.Mác. Theo chúng tơi, cả về mặt hình thức trình
bày cũng như cả về mặt nội dung và tầm vóc của tư tưởng được diễn đạt, mệnh
đề này đều đáp ứng những yêu cầu khắt khe của một định nghĩa.
Trong chủ đề về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tư tưởng độc
đáo nhất của C.Mác là tư tưởng cho rằng giới tự nhiên là thân thể vơ cơ của con
người.
Khi phân tích sự tha hóa của giới tự nhiên, một hậu quả của lao động bị
tha hóa, C.Mác cho rằng, “giới tự nhiên là một bộ phận của đời sống con


người”. Vì hai lý do: “thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối
với con người, và thứ hai, giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng và công cụ của
hoạt động sinh sống của con người”. Theo nghĩa ấy, giới tự nhiên cũng là thân
thể - thân thể vô cơ - của con người. C.Mác viết: “Giới tự nhiên - cụ thể là giới
tự nhiên trong chừng mực nó khơng phải là thân thể của con người - là thân thể
vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới
tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong
quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại” [4, tr.135]. Ở một đoạn khác, C.Mác
còn nêu một ý tưởng rất hay có thể dùng để giải thích cho điều này. C.Mác cho
rằng, đời sống của con người không những được duy trì nhờ dựa vào giới tự
nhiên mà hơn thế nữa, giới tự nhiên còn là nguồn gốc của đời sống con người.
Nếu con người khơng tự nó sáng tạo ra bản thân nó, thì tất nhiên kẻ sáng tạo ra
nó phải ở bên ngồi nó. Kẻ đó chính là giới tự nhiên. Đó là lý do giải thích tại
sao trong ý thức thông thường, sự sáng tạo của con người lại là biểu tượng rất
khó từ bỏ. Nói chung, quần chúng không thể hiểu được “sự - tồn - tại - thơng qua - mình của tự nhiên” [4, tr.180].
Chúng tôi xem quan điểm “giới tự nhiên là thân thể của con người” là tư

tưởng độc đáo, vì trong chừng mực mà chúng tôi được biết, từ thời cổ đại cho
đến ngày nay, ngồi C.Mác, khơng có ai coi giới tự nhiên là thân thể của con
người. Hầu hết các trường phái triết học phương Đông cổ đại tuy đề cao triết lý
con người hòa hợp với tự nhiên, coi con người với giới tự nhiên là một, chủ
trương “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân tương giao”, song cũng khơng đến
mức coi tự nhiên là thân thể nào đó của con người.
Khi C.Mác coi là thân thể - thân thể vơ cơ của con người nghĩa là muốn
nói rằng, mọi tác động của con người đến giới tự nhiên, đều có nghĩa là tác động
đến thân thể con người. Làm tổn hại giới tự nhiên nghĩa là làm tổn hại chính con
người. Đây khơng phải là điều suy diễn, mà chính C.Mác nói thế. Ơng viết: “Nói
rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói
như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với giới tự nhiên, vì con
người là một bộ phận của giới tự nhiên” [4, tr. 135].
1.2. Bản chất xã hội của con người
Khi nói tới con người, nếu chỉ chú ý đến con người sinh học thì con
người ở các thời đại chẳng khác nhau là bao. Bởi vậy, sự khác nhau giữa những
con người, trên thực tế, là khác nhau về cái gì. C.Mác cho rằng chỉ có thể hiểu
được con người khi xuất phát từ những tiền đề hiện thực trong nghiên cứu con
người. Đó là hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Nói
chính xác hơn, đó là con người trong hoạt động và trong điều kiện sinh hoạt vật


chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do
hoạt động của chính họ tạo ra.
Đây là những con người có khả năng sống để làm ra lịch sử của mình.
Nhưng, để sống thì “trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo…”[2,
tr.40] - một nhu cầu tối thiểu để con người có thể tồn tại, một chân lý hiển nhiên
và sơ đẳng, có thể kiểm chứng được, nhưng rất nhiều nhà tư tưởng trước đó đã
khơng nhận ra. Và, để có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo… thì người ta cần
phải sản xuất. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản

xuất trong những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản
của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta phải
thực hiện hằng ngày, hằng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người” [2,
tr.38]. Chính những con người hàng ngày, hàng giờ ln cố gắng duy trì đời
sống con người của mình đã sản xuất và khi sản xuất, họ “bị quy định bởi một
sự phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp
với sự phát triển ấy”. Chính họ là người “sản xuất ra những quan niệm, ý niệm,
v.v. của mình” và trong quá trình sản xuất, họ “đã làm biến đổi, cùng với hiện
thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình” [2, tr.37,38].
Vì vậy, xã hội có vai trị quan trọng đối với sự hình thành cá nhân và cá
nhân cũng có vai trị khơng kém phần quan trọng đối với sự hình thành xã hội:
“Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào
thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” [4, tr. 169].
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn
của con người và xã hội; là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các
thế hệ con người và nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối
liên hệ trong lịch sử lồi người, hình thành lịch sử lồi người” và “Lịch sử xã
hội của con người ln chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con
người”[9, tr.658]. Bởi, thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những
dấu ấn sáng tạo của bản thân mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát
triển, hồn thiện bản thân mình. Với khả năng và năng lực của mình, con người
chính là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử,
tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại.
Trong Luận cương thứ VI về Phoiơbắc, khi phê phán những quan điểm
của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá thể người chung chung, trừu tượng, phí giai
cấp, phi lịch sử, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ



xã hội” [2, tr.11]. Luận điểm trên khẳng định, không có con người trừu tượng,
thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử - xã hội. Con người luôn luôn cụ thể,
xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người
tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư
duy trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp,
dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội …)
con người mới hình thành và bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Bản chất con người khơng phải là cái có sẵn, là thiên tính bẩm sinh của
con người, bản chất đó là tổng hịa của những quan hệ xã hội được hình thành
trong suốt đời sống của con người. C.Mác viết: “Bản chất con người của tự
nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội; vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối
với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con người, mới là tồn
tại của con người đối với người khác và tồn tại của người khác đối với người đó,
mới là nhân tố sinh hoạt hiện thực của con người; chỉ có trong xã hội, tự nhiên
mới biểu hiện ra là cơ sở của tồn tại có tính chất người của bản thân con người.
Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất
người của con người đối với con người và tự nhiên mới trở thành con người đối
với con người. Như vậy, xã hội là sự thống nhất bản chất đã hoàn thành của con
người với tự nhiên, sự phục sinh chân chính của tự nhiên, chủ nghĩa tự nhiên đã
được thực hiện của con người và chủ nghĩa nhân đạo đã được thực hiện của tự
nhiên” [4, tr.170].
1.3. Sự tha hóa của con người
Khi bắt đầu sự nghiệp triết học của mình, C.Mác đã chịu ảnh hưởng rất
lớn của triết học Hêghen. Cũng giống như các môn đệ khác của phái Hêghen trẻ,
C.Mác bắt đầu nghiên cứu về phạm trù tha hóa - một phạm trù triết học nổi bật
nhất, trung tâm nhất của triết học Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đi sâu
nghiên cứu, tìm hiểu, C.Mác phát hiện ra rằng, xuất phát điểm của phạm trù tha
hóa của Hêghen có cái gì đó khơng ổn, khơng hợp lý. Đó chính là việc xuất phát

điểm ấy được xây dựng và vận động trên nền tảng ý thức.“Sự tha hóa của tự ý
thức là cái sinh ra tính vật thể...,- C.Mác viết, - trong sự tha hóa ấy, tự ý thức giả
định mình là vật thểhoặc giả định vật thể là chính mình. Mặt khác, q trình đó
đồng thời cịn bao gồm một nhân tố khác, tức là tự ý thức đồng thời lại tước bỏ
sự tha hóa và tính vật thể đó của mình và thu hút chúng trở về với bản thân...
Đấy là vận động của ý thức” [5, tr.214]
C.Mác cho rằng: tha hóa là một hiện thực có thật, một hiện trạng thực tế
trong xã hội và có cơ sở kinh tế của nó. “Chúng tơi đã xuất phát từ một sự kiện


kinh tế - sự tha hóa của cơng nhân và của sản phẩm của công nhân. Chúng tôi đã
nêu lên khái niệm của cái thực tế này: lao động bị tha hóa. Chúng tơi đã phân
tích khái niệm đó. Như thế là đã phân tích một sự kiện của kinh tế” [4, tr.139].
Và cũng theo C.Mác, để giải thích, nghiên cứu về tha hóa thì: “Khơng thể lại
dùng những khái niệm khác, không thể lại dùng “tự ý thức”, hoặc những cái
nhảm nhí tương tự như thế được, mà phải xuất phát từ toàn bộ phương thức sản
xuất và giao tiếp hiện đang tồn tại, phương thức sản xuất và giao tiếp này không
phụ thuộc vào khái niệm thuần túy, cũng như việc phát minh ra máy dệt tự động
và việc sử dụng đường sắt không phụ thuộc vào triết học Hêghen” [2, tr.214215].
Như vậy, cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa được dựa trên nền tảng
hiện thực, nói cách khác quan niệm duy vật lịch sử về tha hóađã được tuân thủ
và áp dụng triệt để.
Vậy, cách tiếp cận để nghiên cứu tha hóa hiện thực haythực chất của sự
tha hóađược C.Mác trình bày như thế nào? Có thể chỉ ra thực chất của sự tha
hóa theo quan niệm của C.Mác như sau:
Một là, tha hóa là quá trình con người đã trở thành khơng phải chính
mình: Điều này được thể hiện trong việc C.Mác vạch ra và lý giải, do nhiều
nguyên nhân khác nhau và trong những điều kiện xác định, q trình tha hóa ở
con người với tư cách là những cá nhân trong xã hội đã diễn ra như một quá
trình. “Việc quan hệ cá nhân chuyển biến thành mặt đối lập của nó, - C.Mác viết

-, tức là thành quan hệ thuần túy khách thể, việc cá nhân tự mình phân biệt cá
tính và tính ngẫu nhiên, như chúng tơi đã chỉ rõ, là một quá trình lịch sử và
mang những hình thức khác nhau, ngày càng gay gắt và phổ biến ở các giai đoạn
phát triển khác nhau. Trong thời đại hiện nay, sự thống trị của những quan hệ
khách thể đối với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên đối với cá tính đã
mang một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất, do vậy đã đặt ra trước những cá
nhân đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ ràng. Sự thống trị đó đã đặt ra
trước họ nhiệm vụ sau đây: xác lập sự thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu
nhiên và những quan hệ để thay thế cho sự thống trị của những quan hệ và của
tính ngẫu nhiên đối với cá nhân” [2, tr. 643]. Khi phê phán Pruđông về vấn đề
này, C.Mác phân tích rõ hơn: “Pruđơng chưa thể diễn đạt tư tưởng ấy của mình
một cách thích đáng. “Chiếm hữu bình đẳng” là quan niệm kinh tế chính trị, do
đó vẫn cịn là biểu hiện tha hóa của một sự thực là: vật thể, với tư cách là sự tồn
tại vì con người, với tư cách là sự tồn tại vật thể của con ngườithì đồng thời
cũng là sự tồn tại hiện có của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có


của con người vì người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là
quan hệ xã hội của người đối với người” [5, tr. 65].
Hai là, tha hóa là một hiện tượng xã hội: Hêghen cho rằng tha hóa là
một thuộc tính phổ biến, một q trình phổ biến của cả tự nhiên, xã hội và tư
duy. Vớicác nhà lý luận tơn giáo, tha hóa là một quan hệ thuần túy mang tính tư
tưởng. Ở Pruđơng, tha hóa chỉ đơn giản là một phạm trù thuần túy “kinh tế chính
trị” (lý thuyết thuần túy). Ở Phoiơbắc, tha hóa chính là q trình hịa tan bản
chất con người vào bản chất tơn giáo (chính xác hơn là Cơ đốc hóa bản chất con
người). Cịn với C.Mác, tha hóa chỉ là một loại quan hệ xã hội, tha hóa chỉ tồn
tại ở con người và xã hội lồi người. Nói cách khác,nội dung của phạm trù tha
hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện tượng, những q trình có
liên quan đến con người và xã hội lồi người.
Tha hóa với tư cách là quan hệ xã hội là “quan hệ kép”. Một mặt, đó là

quan hệ của người lao động với chính lao động của anh ta và mặt khác, là quan
hệ của hành vi lao động với sản phẩm lao động của anh ta. C.Mác lý giải:
“Chúng ta đã xét một mặt, xét lao động bị tha hóa trong quan hệ của nó với bản
thân người công dân, nghĩa là quan hệ của lao động bị tha hóa với bản thân nó.
Chúng ta đã tìm thấy quan hệ sở hữu của con người - không - phải - công - nhân
với người công nhân và với lao độngvới tính cách là sản phẩm hay kết quả tất
nhiên của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tính cách là biểu hiện vật chất khái
quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ của công nhân với
lao động, với sản phẩm lao động của mình và với người - khơng - phải - công nhân, và quan hệ của người - không - phải - công - nhân với người công nhân và
với sản phẩm lao động của người công nhân” (C.Mác và Ph.Ăngghen:Tồn tập,
t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 144-145).
Tư tưởng coi tha hóa là một loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá
rất cao, cho là hết sức đặc sắc và độc đáo:“Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như
thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông, sit venia verbo, tức là tư tưởng về những quan hệ sản xuất xã hội” (V.I.Lênin: Toàn tập, t.29.
NxbTiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.17).
Ba là, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người,
do nhiều nguyên nhân, đã trở thành cái khác xa lạ, đứng lên trên con người và xã
hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch con người và xã hội lồi người.
“Sự tha hóa thể hiện ở chỗ, - C.Mác viết -, tư liệu sinh hoạt củatôi thuộc
về người khác, ở chỗ đối tượng mong muốn của tôilà vật sở hữu của người
khác mà tôi không với tới được, cũng như ở chỗ bản thân mỗi vật hóa ra là một
cái khácvới bản thân nó, ở chỗ hoạt động của tơi hóa ra là một cái khácnào đó và


cuối cùng - điều này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, - lực lượng khơng phải
ngườinói chung thống trị tất cả” [4, tr. 196].
Như vậy, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài
người, song trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành cái xa lạ,
quay trở lại chi phối, thống trị con người và xã hội loài người. Rõ ràng, cách
hiểu của C.Mác về tha hóa khác về chấtso với cách hiểu của những nhà lý luận

tôn giáokhác nhưPhoiơbắc, Pruđông và kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn
đầu của sự nghiệp triết học, C.Mác đã một vàilần sử dụng thuật ngữ “vật hóa”
-thuật ngữ mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa.
Bốn là, lao động tha hóa. Đây là nội dung cơ bản nhất, xuyên suốt nhất,
bao trùm nhất trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa.
Thực ra, tha hóa lao động là hiện tượngxuất hiệntừ lâu trước khi có chủ
nghĩa tư bản. Nó là hiện tượng gắn với những xã hội mà ở đó con người đã sản
xuất ra những điều kiện sống chủ yếucho xã hội, song lại được hưởng quá ít từ
những điều kiện sống do chính mình sản xuất rađó. “Tính tha hóa và tính độc
lập, - C.Mác viết, mà trong đó mối liên hệ ấy cịn tồn tại đối với các cá nhân, chỉ
chứng minh rằng con người vẫn đang trong quá trình tạo ra những điều kiện cho
đời sống xã hội của mình, chứ chưa sống đời sống xã hội, xuất phát từ những
điều kiện ấy” [6, tr.174].
Song, theo C.Mác, chỉ đến chủ nghĩa tư bản, thì tha hóa lao động ở con
người và xã hội lồi người mới trở nên phổ biến nhất, rõ ràng nhất và có những
biểu hiện đầy đủ nhất. C.Mác đã chỉ ra: “Trong mâu thuẫn đó, khoa kinh tế
chính trị chỉ nói lên cái thực chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, hay nếu ta
muốn, chỉ nói lên cái thực chất của lao động làm thuê, của lao động bị tha hóa
khỏi bản thân, mà của cải được sản xuất ra lại đối lập với nó như là của cải của
người khác, sức sản xuất của bản thân nó lại đối lập với nó như là sức sản xuất
của sản phẩm của nó, việc làm giàu của nó đối lập với nó như là việc tự làm cho
mình trở nên nghèo khổ, lực lượng xã hội của nó đối lập với nó như một quyền
lực xã hội thống trị nó” [7, tr.358-359]. Và trong chủ nghĩa tư bản, khơng chỉ sản
phẩm lao động bị tha hóa là tất yếu mà chính hành vi (hình thái) lao động bị tha
hóa cũng là tất yếu: “Những hình thái xã hội của lao động của bản thân người
công nhân,- C.Mác viết,- hay là những hình thái của lao động xã hội của bản
thân họ, - là những quan hệ được hình thành một cách hồn tồn độc lập đối với
cơng nhân, nếu lấy tách riêng từng người ra; những người công nhân phụ thuộc
vào tư bản trở thành những yếu tố của những cơ cấu xã hội đó, những cơ cấu xã
hội đó lại khơng thuộc về cơng nhân. Vì vậy, những cơ cấu ấy đối lập với công

nhân như là những phương thứcdo chính tư bản sử dụng, như là những sự kết


hợp cấu thành cái thuộc tính của tư bản (khác với sức lao động của mỗi người
công nhân đứng tách riêng ra), phát sinh từ tư bản và được gộp vào thành phần
của tư bản” [8, tr.555].
Cũng theo C.Mác, sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa hình thái
lao động có mối quan hệ nhân quả: tha hóa hình thái lao động là ngun nhân,
tha hóa sản phẩm lao động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản
xuất. C.Mác phân tích: “Cho đến nay, chúng ta xét sự tha hóa của công nhân chỉ
về một phương diện, cụ thể là phương diện quan hệ của anh ta với sản phẩm lao
động của anh ta. Nhưng sự tha hóa xuất hiện khơng chỉ trong kết quả cuối cùng
của sản xuất mà cả trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động
sản xuất. Người cơng nhân có thể đứng đối lập với sản phẩm của hoạt động của
anh ta như một cái gì đó xa lạ hay khơng, nếu trong chính ngay hành vi sản xuất,
anh ta khơng tha hóa khỏi bản thân anh ta? Trên thực tế, sản phẩm chỉ là kết quả
của hoạt động, của sản xuất. Vậy, nếu sản phẩm của lao động là sự tha hóa thì
bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành động, là sự tha hóa của hoạt
động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa của đối tượng lao động chỉ là kết
quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động của bản thân lao động” [4, tr.132].
Năm là, hệ quả của sự tha hóa lao động - con người mất dần tính lồi.
Phân tích và lý giải về q trình lao động bị tha hóa trong chủ nghĩa tư
bản, C.Mác đã rút ra kết luận:
“Vậy, sự tha hóa của lao động dẫn tới những kết quả như sau:
+ Bản chất có tính lồi của con người, - giới tự nhiên (cơ thể con người)
cũng như tài sản tinh thần có tính lồi của con người, - bị biến thành một bản
chất xa lạvới con người, thành phương tiệnduy trìsự tồn tại cá nhâncủa con
người. Lao động bị tha hóa làm cho thân thể của bản thân con người, cũng như
giới tự nhiên ở bên ngoài con người, cũng như bản chất tinh thần của con người,
bản chất nhân loạicủa con người, trở thành xa lạ với con người.

+ Kết quả trực tiếp của việc con người bị tha hóa với sản phẩm lao động
của mình, với hoạt động sống của mình, với bản chất có tính lồi của mình, là sự
tha hóa của con người với con người. Khi con người đối lập với bản thân mình
thì con người khác đối lập với nó...
Nói chung, luận điểm cho rằng bản chất có tính lồi của con người bị tha
hóa với con người, có nghĩa là một người này bị tha hóa với người khác và từng
người trong số họ bị tha hóa với bản chất người” [4. tr. 138 - 139].
C.Mác giải thích thêm, trong quá trình tồn tại và sinh sống gắn với cải
biến thế giới vật chất, con người là “một sinh vật có ý thức, nghĩa là đời sống


của bản thân con người là một đối tượng đối với con người, chính chỉ vì con
người là một sinh vật có tính lồi. Chỉ vì thế mà hoạt động của con người là hoạt
động tự do. Lao động bị tha hóa đảo ngược quan hệ đó khiến cho con người
chính vì là một sinh vật có ý thức, chỉ biến hoạt động sinh sống của mình, bản
chất của mình thành phương tiện để duy trì sự tồn tạicủa mình mà thơi” [4. tr.
136].
Như vậy, con người vốn có bản chất loài (bản chất xã hội), song đã bị cá
biệt hóa dần trong q trình tha hóa, dẫn đến hệ quả tất yếu là bản chất loài mất
dần di, triệt tiêu dần đi. Con người chỉ còn là những cá nhân, những cá thể riêng
lẻ, đơn độc, tất yếu mất dần tính lồi, tính người.
1.4. Giải phóng và phát triển con người
Trình độ giải phóng xã hội ln được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân
con người, vì cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội
và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải
phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó, giải phóng xã hội,
thúc đẩy tiến bộ xã hội - đó chính là sự khẳng định vị thế và vai trò của con
người trong tiến trình lịch sử.
Trong các nghiên cứu của mình, Các Mác khẳng định rằng: xã hội tư bản
là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại; là cơ sở cho sự phát triển

của bản chất con người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân
loại. Song sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã trở thành
nguyên nhân và suy đến cùng, đó là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất gây ra
những tai hoạ khủng khiếp cho con người, làm tha hố con người. Theo ơng,
“con người đã hiểu khái niệm chế độ tư hữu, nhưng nó chưa làm rõ được cho
mình bản chất của chế độ đó, vì thế, chừng nào mà con người cịn chưa nhận
thức được “bản chất tích cực của chế độ tư hữu và chưa hiểu được tính chất con
người của nhu cầu” thì chừng đó, họ “cịn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền
nhiễm”[ 4, tr.167]. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất chủ yếu là để cứu lấy con người, giải phóng con người [4,
tr.173] và “muốn xoá bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa
cộng sản là hồn tồn đủ rồi. Cịn muốn xố bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực
thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”[4, tr.194] và lực
lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành cơng sự nghiệp giải phóng con
người, giải phóng nhân loại ấy chính là giai cấp vơ sản[10, tr.333].
Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng con
người, giải phóng xã hội, vì thế có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn,
nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải


phóng con người, mà trong hiện thực, con người đã từng bước được giải phóng:
con người đã từ “vương quốc của tất yếu” chuyển sang “vương quốc tự do”,
“trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”[11, tr. 628]. Sự tự do đem lại cho con người quyền
được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh thần, được
tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực của
mình thực hiện những nhu cầu cơ bản. Trong chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân
không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu
hiện trong nghĩa vụ và trách nhiệm, thể hiện sự phát triển xã hội và con người.
2. VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VIỆT NAM

2.1. Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá trình phát triển
đất nước bền vững
Trải qua quá trình hội nhập nền kinh tế nước nhà với nền kinh tế quốc tế,
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh và triển vọng nhất. Thế nhưng, chỉ tăng trưởng kinh tế nhanh thôi là chưa
đủ. Một nền kinh tế phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Mà thực hiện các chính sách xã hội
chính là đầu tư vào nhân tố con người. Hay nói cách khác, muốn đất nước có thể
phát triển bền vững thì phải tập trung vào phát triển nhân tố con người.
Xuất phát từ quan điểm của Mác cho thấy, khi là một thực thể tự nhiên xã hội, con người nói chung biểu hiện ra trên nhiều phương diện. Chẳng hạn,
con người tồn tại với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài nguyên con
người; con người tồn tại với tư cách là một nguồn lực đặc biệt - nguồn lực con
người, hoặc tồn tại với tư cách là một nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội
gọi là nhân tố con người…
Khi đi sâu vào khai thác nhân tố con người trong công cuộc phát triển đất
nước, ta phải đặt nó trong mối quan hệ với cộng đồng và xã hội. Muốn duy trì
cuộc sống của mình, con người phải lao động và liên hệ với những người khác.
Đời sống con người về bản chất là có tính xã hội. Theo C.Mác: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Mối
quan hệ giữa con người và xã hội rất chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Vì vậy,
muốn đất nước- xã hội phát triển bền vững thì cần phải phát triển nhân tố con
người.
Nói đến phát triển nhân tố con người là nói đến việc rèn luyện bản chất
của nó. Con người là sản phẩm của lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cụ thể bao giờ
cũng đặt ra những chuẩn mực nhất định cho con người trong xã hội đó. Mà bản


chất con người được quy định bởi môi trường và điều kiện xã hội. Do vậy, bản
chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, cùng phải thay đổi cho phù hợp. Vì thế, muốn phát triển bản chất

con người theo hướng tích cực thì phải hiểu rõ mơi trường, điều kiện xã hội ở
nơi mình đang sinh sống, đang tồn tại yêu cầu đòi hỏi con người cần những gì.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam
những năm qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan
trọng. Quá trình cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch
sử hiểm nghèo, những tình thế hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất
sáng tạo, năng động và ln tìm ra những lối thốt, những đường hướng đi lên
làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế. Lịch sử cũng chứng minh: thời kỳ nào cách
mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi điều kiện cho hoạt
động sáng tạo của con người thì con người Việt Nam ln biết "chuyển bại
thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế trong đó con người là
động lực trung tâm. Do đó, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Con
người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược
kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển”.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hố và tích cực
hội nhập quốc tế. Q trình này địi hỏi con người Việt Nam cần phải biết xây
dựng nhân cách với nội dung tồn diện, từ đạo đức, trí tuệ , thể chất, tâm hồn và
đặc biệt là phải có khả năng chủ động, sáng tạo, linh hoạt, và năng động. Quá
trình hội nhập đưa tới cho Việt Nam cơ hội để tiếp xúc với những nền kinh tế
khác nhau, những cộng đồng, xã hội, văn hóa khác nhau và cả những con người
khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải có thái độ chủ động và cầu tiến để
học hỏi những cái hay, cái đẹp từ nước bạn, đồng thời phải linh hoạt trong việc
phân loai, chọn lọc và tiếp thu thơng tin.Từ đó, vận dụng óc sáng tạo để chuyển
hóa thành kiến thức mới, áp dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển
đất nước bền vững.
Hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới,
Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trị quyết định nhất là

con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của
dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người. Trong
bối cảnh tồn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những


yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành công những thuận
lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q trình đó đặt ra hay khơng
phụ thuộc đáng kể vào con người. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ
trương phát triển tồn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển
kinh tế: Hồn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền
vững. Đại hội XI của Đảng cũng định hướng các chính sách về giáo dục, đào
tạo; về y tế; về lao động và việc làm; về nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân, hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống
giữa nơng thơn và thành thị; về hệ thống an sinh xã hội, về xóa đói, giảm nghèo;
…… Đảng và Nhà nước cũng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020 xác định một trong ba khâu đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, cơng nghệ. Có thể nói, những chính sách của
Đảng và Nhà nước là những bước đi đúng đắn và mang tính đột phá trong việc
khai thác và phát huy nhân tố con người.
2.2.Vận dụng những tư tưởng khoa học của C.Mác về xây dựng, phát
triển con người Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây
dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững kinh tế - xã hội đất nước. Điều này được biểu hiện trên các nội dung:
Thứ nhất, coi con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát

triển con người Việt Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “coi con người là trung
tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị
văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững” [1, tr.215 – 216]. Đồng thời khẳng định: “mọi chính
sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần và hạnh phúc của nhân dân” [1, tr. 216]; thực hiện: “phát huy nhân tố con
người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển” [1, tr. 99]; khẳng định vị
trí, vai trị nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mỗi người dân. Do
vậy, phải: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn


hóa, con người Việt Nam;… phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong
đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất” [1, tr.34].
Để thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây
dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ,
có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc” [1,
tr.231]; thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ
luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng
làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội
nhập quốc tế (cơng dân tồn cầu)” [1, tr.232 -234].
Thứ hai, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, khoa
học để con người có điều kiện phát triển tồn diện. Văn kiện của Đảng nêu rõ:
“Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con
người, phát triển kinh tế - xã hội” [1, tr.145]. Thực hiện: “Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại” [1, tr.47]. Đồng thời, cần: “Thực hiện tốt chính sách xã

hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng
cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ
các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo
hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao
khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người
yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân” [1, tr.47
- 48].
Đảng ta chủ trương coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người
đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng đất nước. Theo đó, cơng tác giáo
dục phải: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các
giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người
Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo
đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người
Việt Nam” [1, tr.136].
Bên cạnh các chính sách kinh tế - xã hội, công tác giáo dục và đào tạo,
Đại hội XIII của Đảng còn khẳng định vai trò của khoa học trong phát triển
nguồn lực con người. Đảng chỉ rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý


luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối,
chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc” [1, tr.63 -64];
thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các
ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người” [1, tr.267].
Thứ ba, quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đại hội lần thứ XIII
của Đảng đề ra phương hướng: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam
chuyên nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá
nhân” [1, tr.177]. Theo đó, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp “Tăng cường
khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động
dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngồi tịa án. Nâng cao
hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực
dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng”
[1, tr.287].
Cùng với bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, Đại hội XIII của
Đảng cịn coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới với chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu
ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công
nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ
chức cuộc sống, chăm sóc con người” [1, tr.231]. Đồng thời định hướng: “ưu
tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt
trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất
lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài;
đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công
nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn
đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [1, tr.54].



KẾT LUẬN
Con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới, luôn
được các nhà khoa học nghiên cứu sâu sắc với nhiều khía cạnh. Trước Mác,
những nhà triết học cho rằng: con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một
động vật xã hội, v.v.. nhưng đến Các Mác, ông đã nghiên cứu con người với tư
cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, tồn tại và phát triển trong sự gắn bó hữu
cơ với giới tự nhiên và xã hội lồi người; chịu sự tác động, nhưng không phải là
sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà là chủ thể giữ vai trò
quyết định đối với sự vận động, phát triển của thế giới và của chính mình. Lý
tưởng nhân văn xun suốt, nhất qn trong tồn bộ các cơng trình khoa học và
hoạt động xã hội của Các Mác là tìm ra con đường giải phóng và phát triển con
người.
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa
vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ
tiến gần hơn một bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng vào
đời sống ở những lĩnh vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ
hơn về bản chất của bản thân và những mối quan hệ liên quan, con người sẽ biết
tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có động
lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng, xã hội nói chung bền
vững đi lên. Với phương pháp tiếp cận khoa học theo quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử để kiến giải thuyết phục bản chất xã hội của con người. Các
Mác đã có những cống hiến to lớn, mang ý nghĩa bước ngoặt, có tính thời đại
đối với sự phát triển của tư tưởng nhân loại, nhất là về con người và giải phóng
con người.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của C.Mác về giải phóng con người, những
nội dung quan điểm mà Đại hội Đảng xác định, đặc biệt là Đại hội XIII về con
người và phát triển nguồn lực con người là hệ thống tồn diện và có tính cập
nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong bối cảnh mới của xu thế
tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, nhất là trước tác động ngày càng sâu, rộng của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đảng ta khẳng định con người vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời phải là những
con người có tri thức và đạo đức. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến
lược giáo dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực một cách tồn diện cả thể lực
lẫn trí lực.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
5. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
6. C. Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995
7. C. Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995
8. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995
9. C.Mác và Ph.Ăngghen:Tồn tập, t.26, p.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998
10.C.Mác và Ph.Ăngghen:Tồn tập, t.26, p.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998
11. C.Mác và Ph.Ăngghen:Tồn tập, t.46, p.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998
12.Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.



×