Tải bản đầy đủ (.doc) (185 trang)

Đổi mới công tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.31 KB, 185 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

HÀ TRỌNG SỨC

ĐỔI MỚI CƠNG TÁC VĂN HÓA QUẦN CHÚNG Ở
ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2022


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

HÀ TRỌNG SỨC

ĐỔI MỚI CƠNG TÁC VĂN HÓA QUẦN CHÚNG Ở
ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số

: 931 02 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1.
2.

PGS. TS Đặng Sỹ Lộc
PGS. TS Vũ Văn Thường

HÀ NỘI - 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu độc lập, sáng tạo của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ
ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hà Trọng Sức


1
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.3.
Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề
luận án tập trung nghiên cứu
Chương 2 CÔNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG VÀ ĐỔI MỚI
CƠNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ
QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
2.1.
Đơn vị quản lý học viên và những vấn đề cơ bản về cơng tác văn hóa quần
chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân đội
2.2.
Quan niệm và những vấn đề có tính ngun tắc đổi mới cơng tác
văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường
sĩ quan qn đội
Chương 3 CƠNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ
QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM
3.1.
Thực trạng cơng tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên
các học viện, trường sĩ quan quân đội
3.2.
Nguyên nhân của thực trạng và một số kinh nghiệm tiến hành cơng
tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện,
trường sĩ quan quân đội

Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠNG TÁC
VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HỌC
VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới cơng tác văn hóa quần
chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân
đội hiện nay
4.2.
Những giải pháp đổi mới cơng tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản
lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN

5
10
10
15
24

29
29
62

75
75
103

114
114

122
168
170


2
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

172
189


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Cơng tác đảng, cơng tác chính trị

CTĐ, CTCT

2


Học viện, trường sĩ quan

HV,TSQ

3

Quản lý học viên

QLHV

4

Quân đội nhân dân

QĐND

5

Quân ủy Trung ương

QUTW

6

Tổng cục Chính trị

TCCT

7


Văn hóa quần chúng

VHQC

8

Vững mạnh tồn diện

VMTD

9

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1. Kết quả khảo sát về việc bảo đảm tiêu chuẩn
1

định mức đời sống văn hóa tinh thần ở đơn vị QLHV các

HV,TSQ quân đội.

88

Biểu đồ 3.2. Kết quả khảo sát năng lực lãnh đạo của cấp ủy và
2

trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp với cơng tác
VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.

94


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác văn hóa quần chúng (VHQC) là một bộ phận hữu cơ của cơng tác
văn hóa, văn nghệ của Đảng, một hình thức cơ bản của cơng tác tư tưởng trong
Qn đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, có vai trị quan trọng, đưa các giá trị văn
hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; đồng thời tổ chức,
hướng dẫn bộ đội hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa; góp phần
hình thành và phát triển phẩm chất nhân cách người qn nhân cách mạng, xây
dựng mơi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tạo động lực thôi thúc cán bộ, chiến
sĩ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Các học viện, trường sĩ quan (HV,TSQ) quân đội là nơi tập trung lực lượng
cán bộ khoa học và giảng viên có trình độ học vấn cao; đối tượng học viên đều
được tuyển chọn chặt chẽ; là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sĩ quan cho
quân đội và quốc gia, trung tâm nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực hoạt động quân
sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đơn vị quản lý học viên (QLHV) là đơn vị thuộc biên chế của các

HV,TSQ, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện học viên theo mô hình, mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của mỗi nhà trường quân đội.
Công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội góp phần giáo dục, cổ
vũ, động viên cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ thực hiện chức trách, nhiệm vụ;
bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hướng họ đến các giá trị chân - thiện - mỹ;
nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần, xây dựng mơi trường văn hóa sư phạm qn sự
lành mạnh; ngăn ngừa, lọc bỏ những tác động tiêu cực vào đơn vị. Đồng thời, còn là
bài học mẫu sinh động, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tổ chức các hoạt động VHQC
cho học viên, đáp ứng chức trách, nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp ra trường.
Nhận thức đúng vị trí, vai trị của cơng tác VHQC ở đơn vị QLHV, đảng ủy, ban
giám đốc (ban giám hiệu), cấp ủy, cán bộ chủ trì đơn vị QLHV, cơ quan chính trị đã quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác VHQC ở các đơn vị QLHV. Công tác VHQC từng bước
được đổi mới, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống văn hóa - tinh thần của cán
bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ, góp phần xây dựng con người, tổ chức, thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của các HV,TSQ quân đội.


6
Tuy nhiên, công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội vẫn còn
những hạn chế, khuyết điểm: Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, cán bộ,
đảng viên, học viên về cơng tác VHQC có mặt cịn hạn chế, chưa thật sự đầy đủ, sâu
sắc; nội dung, hình thức cơng tác VHQC chậm đổi mới, vẫn cịn biểu hiện khô cứng,
thiếu hấp dẫn, chưa khơi dậy và phát huy tốt năng lực sáng tạo và nhu cầu hưởng thụ
các giá trị văn hóa của bộ đội; hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành công
tác VHQC của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì cịn lúng túng, thiếu khoa học; kết quả
cơng tác VHQC trên một số nội dung còn hạn chế, bất cập, chưa thực sự tạo động
lực cho các tổ chức, lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, học
viên, nhân viên, chiến sĩ có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp
luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm
vụ của đơn vị.

Hiện nay, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự giao lưu, kết nối
giữa các nền văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh việc tiếp
thu có chọn lọc các giá trị văn hóa của các nước trên thế giới cũng đang diễn ra xu
hướng du nhập sản phẩm văn hóa lai căng, thậm chí những sản phẩm phi văn hóa,
phản văn hóa, gây nên nhiễu loạn về giá trị văn hóa ở nước ta. Đồng thời, sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động tới việc tiếp
cận, cập nhật, kiểm sốt thơng tin và nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hóa
của cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ. Trong bối cảnh đó, các thế lực thù địch, các
phần tử cơ hội chính trị, bất đồng quan điểm triệt để khai thác Internet, mạng xã hội
để tuyên truyền chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, truyền bá văn hóa, đạo đức,
lối sống phương Tây vào Việt Nam. Mặt khác, các tiêu cực và tệ nạn xã hội nảy sinh
từ mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang tác động trực tiếp đến lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, các hoạt động văn hóa trong xã hội nói chung, trong quân đội nói riêng.
Trong khi đó, yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển
mới, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính quy, rèn
luyện kỷ luật, xây dựng mơi trường văn hóa sư phạm qn sự lành mạnh, xây dựng
các HV,TSQ quân đội vững mạnh toàn diện (VMTD) địi hỏi phải đổi mới cơng tác
VHQC đáp ứng sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây


7
dựng, chiến đấu của quân đội, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của các HV,TSQ
quân đội.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Đổi mới công tác VHQC ở đơn
vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay" làm luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn công tác VHQC, đổi mới
công tác VHQC và đề xuất những giải pháp đổi mới công tác VHQC ở đơn vị

QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, xác định những
vấn đề luận án tập trung nghiên cứu.
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác VHQC và đổi mới
công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng công tác VHQC, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số
kinh nghiệm tiến hành công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Phân tích những yếu tố tác động, xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp
đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác VHQC và
đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội. Tập trung khảo sát
thực tế tại: Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Phịng khơng - Khơng
qn, Học viện Hải qn, Học viện Biên phòng, Học viện Quân y, Học viện Kỹ
thuật quân sự, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ
quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp... Các tư liệu và số liệu điều tra,


8
khảo sát phục vụ cho nghiên cứu luận án được giới hạn từ năm 2015 đến nay. Các
giải pháp đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội có giá trị
vận dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng tác tư tưởng,

văn hóa, CTĐ, CTCT và công tác VHQC trong quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Hiện thực công tác VHQC và đổi mới công tác VHQC ở các đơn vị QLHV
các HV,TSQ quân đội; các số liệu, tài liệu, báo cáo, tổng kết của cấp ủy, đơn vị, cơ
quan chính trị về giáo dục, đào tạo, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, CTĐ,
CTCT, cơng tác tư tưởng, công tác VHQC, xây dựng môi trường văn hóa và các số
liệu điều tra, khảo sát của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành;
trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp; lơgic, lịch sử; hệ
thống, cấu trúc; thống kê, so sánh; khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, tổng kết
thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm và luận giải nội hàm quan niệm công tác VHQC và đổi
mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội; xác định tiêu chí đánh
giá công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Khái quát một số kinh nghiệm tiến hành công tác VHQC ở đơn vị QLHV
các HV,TSQ quân đội.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp mới, thiết thực, khả thi trong những giải pháp
đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án


9
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần luận giải, làm sâu sắc hơn những vấn
đề lý luận và thực tiễn về công tác VHQC và đổi mới công tác VHQC ở đơn vị
QLHV các HV,TSQ quân đội.
Cung cấp thêm luận cứ khoa học phục vụ đảng ủy, ban giám đốc (ban giám
hiệu), cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị ở các HV,TSQ quân

đội tham khảo trong lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các
HV,TSQ quân đội.
Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục
vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn CTĐ, CTCT ở các HV,TSQ quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình
khoa học của tác giả đã cơng bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục.


10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa của các Đảng
Cộng sản
X.I. Xu-Rơ-Ni-Tren-Cô (Chủ biên, 1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô [189]. Trong cuốn sách, các tác giả cho rằng: “Bộ phận cấu thành
hết sức quan trọng trong hoạt động của Đảng Cộng sản là công tác tư tưởng” [189,
tr. 11], đồng thời “công tác tư tưởng là vũ khí mạnh mẽ của Đảng trong cuộc đấu
tranh nhằm xây dựng xã hội mới” [189, tr. 11]. Đánh giá thực trạng hoạt động văn
hóa, tác giả cho rằng: “Hoạt động văn nghệ tự biên, tự diễn đã có quy mơ lớn, đã trở
thành phương tiện quan trọng để giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho nhân dân lao
động... Các cơ quan Đảng đã thường xuyên quan tâm phát triển hoạt động này, nâng
cao trình độ tư tưởng và nghệ thuật của nó, đẩy mạnh cơng tác đỡ đầu văn hóa”
[189, tr. 284]. Muốn phát triển hoạt động này, “cần thu hút hơn nữa công nhân, nông
trang viên, đặc biệt là thanh niên đang làm việc vào hoạt động nghệ thuật nghiệp dư”
[189, tr. 285].

Mạnh Nhâm (1996), Cơng tác văn hóa của Trung Quốc năm 1995 [113].
Cơng trình đã khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa chun nghiệp và VHQC;
làm rõ vai trị to lớn của công tác VHQC nhất là ở nông thôn và ở các đơn vị
quân đội. Để đẩy mạnh các hoạt động VHQC có chất lượng và hiệu quả hơn nữa,
tác giả khẳng định: “Đẩy mạnh sức hoạt động của các tổ chức văn nghệ quần
chúng. Khôi phục sự lãnh đạo đối với các tổ chức VHQC. Quán triệt phương
châm “phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội” và “trăm hoa đua nở, trăm
nhà đua tiếng” hơn nữa” [113, tr. 6].
Ban Tuyên huấn Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc (2001), Công tác
tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới [6]. Cuốn sách đã tập trung làm rõ vị trí, vai
trị, nội dung cơng tác tư tưởng, văn hóa. Trong cải cách, mở cửa, Trung Quốc rất
coi trọng đổi mới công tác tư tưởng trong Đảng, khẳng định: “Tăng cường và cải
tiến cơng tác chính trị, tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là một việc lớn của


11
tồn Đảng, cũng là nhiệm vụ nặng nề về cơng tác tuyên truyền tư tưởng” [6, tr. 86].
Thông qua công tác tuyên truyền tư tưởng, nhất là hoạt động văn hóa nghệ thuật
nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng, bồi đắp niềm tin, tình cảm cách mạng cho cán
bộ và quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc.
Giang Trạch Dân (2002), Bàn về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc [23].
Bàn về văn hóa - nghệ thuật quần chúng, tác giả khẳng định: “Xây dựng văn minh
tinh thần xét cho cùng là phải nâng cao tố chất của toàn dân tộc, bồi dưỡng con người
mới xã hội chủ nghĩa có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật” [23, tr. 55];
“hoạt động văn hóa - nghệ thuật quần chúng là mặt quan trọng làm phong phú đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân” [23, tr. 77]. Để phát triển hoạt động này, những
người làm cơng tác văn hóa - nghệ thuật cần “tích cực hướng dẫn, giúp đỡ, đồng thời
cố gắng sáng tác những tác phẩm có lợi cho việc triển khai mạnh mẽ hoạt động văn
nghệ quần chúng” [23, tr. 77].

Vương Bột Chính (2006), “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Trung Quốc” [16]. Bài báo đã đề cập tới các phương pháp tiến hành công
tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhấn mạnh vai trò của phương pháp
truyền thống trong công tác tư tưởng. Tác giả cho rằng, cần kiên trì phương pháp
truyền thống trong công tác tư tưởng. Song, cần thường xuyên đổi mới phương
pháp này, tăng tính thích nghi với tình hình mới và khơng ngừng sáng tạo, tìm tịi
ra những phương pháp mới phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, phải “chú trọng điều
hịa, hình thành nên “dàn hợp xướng” của cơng tác tư tưởng có sự tham gia của xã
hội” [16, tr. 40 - 41].
Vương Duy, Lưu Hiểu Đan (2012), “Khái lược những phát triển mới trong
xây dựng văn hóa quốc gia từ Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc” [28].
Bàn về kinh nghiệm của Trung Quốc trong sử dụng văn hóa để xây dựng triết lý
phát triển quốc gia, tác giả chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XVII, năm 2007, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã lần đầu nhấn mạnh: “Phải đề cao sức mạnh mềm văn hóa
của quốc gia; văn hóa là tinh thần và linh hồn của một dân tộc, là lực lượng to lớn
để phát triển quốc gia và hưng thịnh dân tộc” [28, tr. 6]. Theo tác giả, để phát huy


12
vai trị của văn hóa, cần thúc đẩy sự phát triển phồn vinh của văn hóa, xây dựng
trào lưu mới cho sự hưng thịnh của văn hóa xã hội chủ nghĩa; nhận thức rõ ràng và
đầy đủ quan niệm văn hóa là sức mạnh mềm của quốc gia; tăng cường giao lưu,
đối ngoại văn hóa, tiếp thu thành quả văn hóa ưu tú của nhân loại.
Can Xuân Tùng (2021), Văn hóa Trung hoa: Lịch sử và hiện tại [178]. Trong
cuốn sách, tác giả lấy bối cảnh là nền văn minh Trung Quốc và phương Tây giao lưu
học hỏi lẫn nhau để giải thích nội dung chính của văn hóa Trung Quốc một cách vừa
giản lược, vừa hệ thống từ các phương diện nguồn gốc, diễn biến của văn minh Trung
Hoa, chế độ, tư tưởng, giá trị, cũng như nghệ thuật và thẩm mỹ trong lịch sử Trung
Quốc. Tác giả cho rằng, cần phát huy vai trò của các hoạt động VHQC và các hình
thức nghệ thuật tổng hợp, “sử dụng ca, múa, nhạc trong các hoạt động” [178, tr. 333].

1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa, cơng tác văn hóa
quần chúng trong lực lượng vũ trang
A.A. Ê-Pi-Sép (Chủ biên, 1980), Công tác tư tưởng trong các lực lượng vũ
trang Xô - Viết [68]. Tác giả đã luận bàn về vai trị của cơng tác VHQC với các hình
thức khác nhau như “xem, nghe những buổi truyền hình, phát thanh chuyên đề; thăm
bảo tàng và phòng truyền thống chiến đấu; sinh hoạt văn học và hội nghị bạn đọc,
biểu diễn những tác phẩm nghệ thuật về đề tài chiến đấu yêu nước và nhiều hình
thức khác nhau giúp cho việc phát triển truyền thống chiến đấu, để lại dấu vết sâu
sắc trong ý thức quân nhân” [68, tr. 213]. Để phát huy vai trò của nghệ thuật, đội
ngũ cán bộ “phải dạy cho bộ đội không những biết thưởng thức các tác phẩm nghệ
thuật, mà còn biết cư xử và hành động theo các quy luật của cái đẹp” [68, tr. 226].
Đ.A. Vôncôgônốp (1980), Phương pháp luận công tác giáo dục tư tưởng
[187]. Khi bàn về cơng tác tun truyền - văn hóa, tác giả cho đây “là một dạng
độc lập của công tác giáo dục tư tưởng... Văn hóa là phương thức truyền bá chân
lý, tri thức cần thiết cho sự hình thành những phẩm chất của nhân cách xã hội chủ
nghĩa” [187, tr. 122]. Để hồn thiện hơn nữa cơng tác tun truyền - văn hóa trong
quân đội, cần “làm cho mọi quân nhân tiếp xúc rộng rãi hơn nữa với sự sáng tạo
nghệ thuật, hình thành cho họ nhu cầu sáng tạo theo “quy luật của cái đẹp” [187, tr.


13
124]. Tác giả cũng cho rằng, cái quan trọng của nâng cao chất lượng cơng tác
tun truyền - văn hóa khơng phải là sản phẩm văn hóa mà là khả năng sáng tạo,
hành động theo những lý tưởng cao cả bằng những hình ảnh và tấm gương chói lọi.
Chương Tư Nghị (Chủ biên, 1987), Cơng tác đảng, cơng tác chính trị của
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, phần 1 [110]. Cơng trình đã làm rõ vị trí,
vai trị của cơng tác văn hóa là bộ phận quan trọng trong cơng tác chính trị của
qn đội và khẳng định: Cơng tác văn hóa qn đội có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
đối với xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa, tăng tốc độ xây dựng cách
mạng hóa, hiện đại hóa, chính quy hóa qn đội. Rằng “cơng tác văn hóa bao gồm

hai bộ phận chính là chun nghiệp và nghiệp dư. Bộ phận nghiệp dư chủ yếu là
chỉ hoạt động văn hóa quần chúng của bộ đội, cũng chính là cơng tác văn hóa cơ
sở” [110, tr. 170]. Tổ chức hoạt động VHQC theo hướng văn hóa quần thể nhỏ.
Phạm vi hoạt động văn hóa theo xu hướng cởi mở, xã hội hóa. Đưa ra 3 nhiệm vụ
lớn của cơng tác VHQC. Làm rõ hình thức của cơng tác văn hóa bao gồm: Hoạt
động giải trí cơng tác VHQC (tổ chức ca hát, tổ chức liên hoan văn nghệ, đọc sách,
tổ chức chơi trò chơi thi đấu, vui chơi giải trí và thi đấu trí lực); cơng tác văn học,
nghệ thuật; giáo dục thẩm mỹ; công tác điện ảnh, vơ tuyến, chiếu bóng, phát thanh;
cơng tác sách; hoạt động thể thao quần chúng và công tác câu lạc bộ.
Sỏnxay Chăn nha lạt (2013), Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan,
binh sĩ Quân đội Nhân dân Lào hiện nay [15]. Luận án đã chỉ rõ hình thức,
phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng đối với hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội
Nhân dân Lào: Thứ nhất, giáo dục qua đào tạo tại các nhà trường; Thứ hai,
giáo dục theo chương trình ở các đơn vị; Thứ ba, sử dụng các hoạt động CTĐ,
CTCT khác để giáo dục như thông qua các phong trào thi đua quyết thắng, hoạt động
văn hóa, văn nghệ, giao lưu; Thứ tư, tự học tập, rèn luyện, tu dưỡng của hạ sĩ quan,
binh sĩ. Luận án đánh giá hình thức giáo dục chính trị tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội Nhân dân Lào ngày càng đa dạng, phong phú; có gần 90% cán bộ làm cơng
tác tư tưởng - văn hóa các sư đồn chủ lực được tham gia các lớp tập huấn tuyên truyền
văn hóa, tiến hành cơng tác văn hóa cơ sở. Tác giả luận án đã đề xuất 5 giải pháp chủ


14
yếu nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ Lào hiện
nay [15, tr. 120 - 150].
Học viện Khoa học Quân sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (2013),
Lý luận chiến lược quân sự Trung Quốc [85]. Khi bàn về văn hóa trong lĩnh vực
quân sự, cuốn sách khẳng định: “Văn hóa được xác định là tư tưởng chiến lược, là
lý luận chiến lược được hình thành trên cơ sở truyền thống lịch sử văn hóa của một
quốc gia, dân tộc” [85, tr. 30]. Khẳng định “đặc tính của văn hóa, đặc biệt là các

giá trị cốt lõi có ảnh hưởng đến chiến lược của một quốc gia, dân tộc” [85, tr. 31].
Để xây dựng văn hóa trong chiến lược quân sự, địi hỏi phải “kế thừa truyền thống
văn hóa dân tộc, Trung Quốc cũng phải chọn lọc tinh hoa văn hóa các nước” [85,
tr. 32]. Cuốn sách cũng đề cập đến nội dung phát triển văn hóa trong hoạt động
quân sự của bộ đội.
Savẻng Đen na môn (2016), Phát huy giá trị văn hoá truyền thống trong phát
triển đời sống văn hoá ở đơn vị cơ sở Quân đội Nhân dân Lào hiện nay [65]. Luận án
đã chỉ ra quan niệm, vai trò của xây dựng và phát triển đời sống văn hoá của cán bộ,
chiến sĩ quân đội ở các đơn vị cơ sở. Tác giả đưa ra quan niệm: Đời sống văn hoá là
“một bộ phận của đời sống xã hội, thể hiện chất lượng cuộc sống của con người” [65,
tr. 47]. Tác giả cũng chỉ ra đời sống văn hoá của cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở quân
đội là kết quả hoạt động tương tác giữa cán bộ, chiến sĩ với mơi trường văn hóa ở đơn
vị, tạo nên diện mạo cũng như chiều sâu của đời sống tinh thần cán bộ, chiến sĩ, góp
phần hình thành các phẩm chất nhân cách người quân nhân trong quân đội. Các yếu tố
tạo nên đời sống văn hóa giữ vai trị quan trọng như hoạt động văn hóa, hoạt động nghệ
thuật, vui chơi, giải trí.
1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Đào Duy Quát (Chủ biên, 2010), Công tác tư tưởng [115]. Trong cuốn sách, tác
giả cho rằng: Văn hóa, văn nghệ là một phương thức tác động tư tưởng có hiệu quả, trực
tiếp góp phần xây dựng con người, “tạo ra những phẩm giá, những giá trị trong nhân cách
con người” [115, tr. 372]. Tác giả khẳng định, “đối với loại hình văn hóa, văn học, nghệ
thuật, lĩnh vực tác động đến con người chủ yếu vào thế giới tình cảm, tâm hồn, cảm xúc”


15
[115, tr. 385], “văn hóa, văn học, nghệ thuật được khẳng định là “binh chủng đặc biệt” của
công tác tư tưởng, góp phần xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng,
trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo con người mới, nhân cách mới với những phẩm chất cao đẹp

và được phát triển tồn diện về trí, đức, thể , mỹ” [115, tr. 386]. Để phát huy vai trị của
cơng tác văn hóa, văn nghệ cần sử dụng có hiệu quả các chương trình biểu diễn nghệ thuật
chun nghiệp hoặc quần chúng và “tổ chức các đội hoạt động văn hóa quần chúng”
[115, tr. 388].
Tơ Huy Rứa (2012), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức
của Đảng trong thời kỳ đổi mới [120]. Khi bàn về lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ
thuật, tác giả làm rõ vị trí, vai trị của văn hóa trong tiến trình cách mạng và trong
cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế. Tác giả cho rằng, “văn học, nghệ thuật của chúng ta
không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà chính là một trong những động
lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát
triển toàn diện của con người Việt Nam” [120, tr. 496]. Đồng thời, “văn học, nghệ
thuật phải ra sức tham gia vào cuộc đấu tranh lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, lấy cái
đẹp dẹp cái xấu” [120, tr. 513].
Nguyễn Mạnh Hưởng (2013), Một số vấn đề về “diễn biến hịa bình” và chống
“diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa [91]. Tác giả cho rằng, đấu tranh
phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch trước
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay, góp phần tích cực bảo
vệ, phát triển tư tưởng của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ nền tảng, tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Trong giai đoạn hiện nay, theo tác giả cần “không ngừng quan tâm chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội”
[91, tr. 257]; chú trọng “nâng cao chất lượng bài viết đấu tranh chống các quan điểm sai
trái, thù địch” [91, tr. 259].
Nguyễn Hoàng Lân (Chủ nhiệm, 2013), Phát huy giá trị văn hóa quân sự
truyền thống của dân tộc Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay
[99]. Đề tài xây dựng và luận giải quan niệm “phát huy giá trị văn hóa quân sự
truyền thống của dân tộc Việt Nam” [99, tr. 42]; đưa ra 4 định hướng giải pháp cơ


16

bản, trong đó chú trọng “chuẩn hóa nội dung giáo dục giá trị văn hóa quân sự
truyền thống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân” [99, tr. 84]; cần “đa
dạng hóa các hình thức hưởng thụ, sáng tạo văn hóa để cho tất cả mọi người dân
Việt Nam được tham gia một cách sâu rộng vào sự nghiệp giữ gìn, hồn thiện, phát
huy các giá trị văn hóa quân sự truyền thống trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” [99, tr. 104].
Phạm Quang Nghị (Chủ biên, 2015), Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ
công tác tư tưởng [111]. Cuốn sách đã làm rõ mối quan hệ văn hóa, văn nghệ và
cơng tác tư tưởng; góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đề cập
những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, văn nghệ; đặc điểm của bối cảnh
lịch sử và giải pháp lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ hiện nay. Tác giả nhấn
mạnh, văn học nghệ thuật cần “bám sát thực tiễn đời sống văn hóa, văn nghệ để
biết rõ chiều hướng vận động, các vấn đề nảy sinh để giải quyết theo đúng các quy
luật của đời sống văn hóa tinh thần, đúng định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà
nước” [111, tr.178].
Nguyễn Thế Kỷ (2017), Lý luận văn hóa, văn nghệ Việt Nam - Nền tảng và
phát triển [96]. Cuốn sách đã khái quát về đường lối của Đảng ta trong lĩnh vực
văn hóa, văn nghệ cùng những vấn đề lý luận cơ bản; phản ánh thành tựu cũng như
các xu hướng văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay; an ninh văn hóa, an
ninh tư tưởng và cuộc đấu tranh chống quan điểm, luận điểm sai trái trong văn học,
nghệ thuật, báo chí và xuất bản… Tác giả cũng đã chỉ rõ thực trạng và những vấn
đề bức thiết, cũng như những khiếm khuyết, biểu hiện lệch lạc trong báo chí, văn
hóa, văn nghệ: “Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn thụ động, chưa bắt kịp
thực tiễn sáng tác, thiếu định hướng, thiếu tính chiến đấu với những biểu hiện tiêu
cực… Quản lý văn nghệ còn nhiều lúng túng, bất cập....”[96, tr. 126].
Nguyễn Bá Dương (2018), Vấn đề phát triển lý luận phịng, chống “diễn
biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới [29]. Tác giả
làm rõ những vấn đề mới về lý luận phòng, chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay “cần chú trọng phát
huy hơn nữa vai trò của lực lượng chuyên sâu đấu tranh trên mạng internet” [29, tr.



17
161]. Về định hướng phát triển lý luận phòng, chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa, theo tác giả cần “phát triển lý luận theo hướng bổ sung,
hoàn thiện lý luận về nhận diện bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch trong chiến lược “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa” [29, tr.
201].
Đặng Sỹ Lộc (2020), “Đổi mới nội dung, phương thức cơng tác tư tưởng
trong tình hình mới” [102]. Tác giả chỉ ra những vấn đề cơ bản để đổi mới nội
dung, phương thức công tác tư tưởng, tập trung vào: Nắm vững, dự báo đúng,
định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời những vấn đề tư tưởng, bảo
đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội; gắn nghiên
cứu lý luận với định hướng chính sách, phát triển, hồn thiện đường lối, chủ
trương phát triển, bảo vệ Tổ quốc; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, kiên quyết đấu tranh phê phán quan điểm sai trái, thù địch và đổi mới
phương thức bảo đảm kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, từng bước hiện đại
hóa trang thiết bị tiến hành công tác tư tưởng của Đảng trong điều kiện mới.
Tác giả còn khẳng định, sự bổ sung, phát triển cả nội dung, phương thức tiến
hành công tác tư tưởng của Đại hội XIII là “vấn đề có tính quy luật, đồng thời
cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới” [102, tr. 25].
Trần Thị Anh Đào (Chủ biên, 2020), Chất lượng lãnh đạo công tác tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay [64]. Trong cuốn sách, các tác giả cho rằng:
Cơng tác văn hóa - văn nghệ là bộ phận quan trọng cấu thành cơng tác tư tưởng của
Đảng. Hoạt động văn hóa - văn nghệ “là hình thức giáo dục tác động qua con đường
tình cảm nên hiệu quả để lại dấu ấn sâu sắc, bền vững trong nhận thức, tư tưởng con
người” [64, tr. 16]. Đồng thời, khẳng định “nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo các giá trị
văn hóa của quần chúng nhân dân mang tính khách quan” [64, tr. 19]; hiệu quả phát
huy các giá trị văn hóa, tính tích cực của q trình nhập thân văn hóa của quần chúng

đến đâu còn phụ thuộc vào nhận thức, cách thức tổ chức hoạt động văn hóa của cơ
quan chức năng.


18
Nguyễn Tiến Thư (2021), “Tác động của kinh tế thị trường đến sự phát triển
văn hóa - nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay” [126]. Tác giả cho rằng sự phát triển
của văn hóa, nghệ thuật ở Việt Nam chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau
như văn hóa truyền thống, bối cảnh của đất nước ta hiện nay; phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, những định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước
ta... Tác giả cũng đề xuất những định hướng phát triển văn hóa, nghệ thuật Việt Nam
trong bối cảnh kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là “đẩy mạnh
giáo dục thị hiếu văn hóa lành mạnh cho người dân... vừa kế thừa mặt tích cực của
truyền thống, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại như tơn trọng cộng đồng trên
cơ sở khẳng định cá nhân, lối sống tình nghĩa trên nền tảng pháp lý, pháp luật” [126,
tr. 7].
Nguyễn Văn Hùng (2021), “Đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong kinh tế phù hợp
với bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay” [89]. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản để xây dựng văn hóa trong
kinh tế. Tác giả khẳng định mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa: “Kinh tế càng phát
triển thì văn hóa càng nở rộ; khi hoạt động văn hóa sơi nổi, hiệu quả thì sẽ có sự tác
động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế” [89, tr. 21]. Đồng thời, cho rằng: “Xây dựng
văn hóa trong kinh tế là để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế hiệu
quả, tồn diện hơn, bền vững hơn, và vì con người hơn, bảo đảm tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa” [89, tr. 25].
Nguyễn Phú Trọng (2021), “Phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và
tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam” [155]. Tác giả nhấn mạnh vai trò và tầm
quan trọng của văn hóa, coi văn hóa làm nên hồn cốt dân tộc, là động lực quan trọng
đối với sự nghiệp phát triển đất nước và khẳng định trọng tâm của xây dựng văn hóa là

xây dựng con người. Tác giả khẳng định Đảng ta “đặc biệt quan tâm đến công tác văn
hóa quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết chế văn hóa ở cơ sở, nâng cao dân
trí, xây dựng đời sống văn hóa mới, cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói
quen và lối sống mới”.


19
Nguyễn Văn Hùng (2022), “Phát huy sức mạnh “mềm” của văn hóa Việt Nam
để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc hiện nay” [90]. Trong bài viết, tác giả
cho rằng: “Sức mạnh mềm của văn hóa là tổng hợp những giá trị văn hóa tinh thần và
vật chất được huy động, sử dụng vào mục đích khác nhau, có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển đi lên của đất nước một cách ổn định, bền vững” [90, tr. 34]. Để phát huy
sức mạnh mềm của văn hóa, theo tác giả cần “tăng cường đầu tư, xây dựng các cơng
trình văn hóa, các loại hình văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa vui tươi, lành
mạnh trong các tầng lớp nhân dân” [90, tr. 37].
1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa, cơng tác văn hóa
quần chúng trong qn đội
Đồn Mơ (Chủ nhiệm, 2004), Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở đơn vị
cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [109]. Đề tài cho rằng: “Bản chất
của văn hóa là sáng tạo và nhân văn. Bởi vậy, hoạt động văn hóa ở đơn vị cơ sở cũng
như tất cả các hoạt động văn hóa nói chung phải ln hướng về chân, thiện, mỹ; bồi
dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo vô tận của quần chúng” [109, tr. 13]. Theo các
tác giả, cơng tác văn hóa ở đơn vị cơ sở với nội dung, phương thức vô cùng phong phú,
sinh động, bằng các tên khác nhau như: Công tác giáo dục văn hóa, cơng tác văn hóa
đại chúng hay cơng tác VHQC… “Cơng tác văn hóa ở đơn vị cơ sở là công tác tổ chức,
hướng dẫn cho quần chúng tham gia các hoạt động hưởng thụ và sáng tạo các giá trị
văn hóa, là q trình giáo dục toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ” [109, tr. 19].
Nguyễn Đình Thảo (2009), Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong ngày nghỉ,
giờ nghỉ ở đơn vị học viên trong các trường đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay [123]. Luận án đã làm rõ đặc điểm đơn vị học viên và ngày nghỉ, giờ nghỉ

ở đơn vị học viên trong các trường đào tạo sĩ quan QĐND Việt Nam. Tác giả đưa ra các
hình thức, phương pháp tiến hành CTĐ, CTCT trong ngày nghỉ, giờ nghỉ ở đơn vị học
viên các trường đào tạo sĩ quan, trong đó tiến hành hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục
thể thao là một hình thức phổ biến. Tác giả khẳng định “Hoạt động thư viện đọc sách,
báo, hoạt động văn nghệ quần chúng trong ngày nghỉ, giờ nghỉ là bộ phận rất quan trọng
trong công tác VHQC, nhằm góp phần nâng cao hiểu biết, xây dựng tư tưởng, tình cảm


20
cách mạng và thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của cán bộ, học viên trong đơn vị”
[123, tr. 147].
Lê Sơn (2013), “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở
đơn vị cơ sở quân đội” [121]. Trong bài viết, tác giả cho rằng sự bùng nổ của thông
tin và sự phát triển của các loại hình văn hóa, nghệ thuật trong xã hội đã có những tác
động tới thị hiếu, nhu cầu thưởng thức văn hóa của bộ đội. Do vậy, việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa của bộ đội trở thành yêu cầu cấp thiết. Tác giả đã
đưa ra các biện pháp chính để nâng cao chất lượng hoạt động này, như: “Nâng cao
nhận thức và phát huy vai trò của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, đặc biệt là đội ngũ những
người làm cơng tác văn hóa” [121, tr. 46]; “tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị
của hoạt động văn hóa; tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa ở
đơn vị cơ sở” [121, tr. 47]...
Bùi Xuân Quỳnh (2015), Phát huy giá trị nhân văn quân sự truyền thống của
dân tộc trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị hiện nay [119].
Theo tác giả luận án, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục giá trị nhân văn
quân sự truyền thống của dân tộc đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam về
chính trị hiện nay, cần chú trọng “đổi mới nội dung giáo dục giá trị nhân văn quân
sự truyền thống của dân tộc theo hướng đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam về chính trị hiện nay” [119, tr. 123]; xây dựng và phát huy vai trị của
mơi trường văn hóa qn sự gắn với mơi trường chính trị qn sự, “đa dạng hình
thức, quy mơ, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa gắn với các hoạt động

chính trị” [119, tr. 139].
Bùi Mạnh Hùng (Chủ biên, 2016), Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống thiết chế văn hóa ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
[88]. Cuốn sách đã khẳng định hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở trong qn đội
ln giữ vai trị quan trọng: Thứ nhất, “trực tiếp giáo dục văn hóa, giáo dục chính
trị cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị” [88,
tr. 22]. Thứ hai, “trực tiếp góp phần bồi dưỡng, hồn thiện nhân cách người qn
nhân cách mạng và đấu tranh với sản phẩm, hành vi phản văn hóa” [88, tr. 24].


21
Thứ ba, “trực tiếp góp phần thỏa mãn nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, giữ gìn các giá
trị văn hóa tốt đẹp” [88, tr. 29].
Đinh Xuân Dũng (Chủ biên, 2016), Cơng tác tư tưởng - văn hóa trong xây
dựng Qn đội nhân dân Việt Nam [27]. Các tác giả cho rằng: Văn nghệ quân đội
là bộ phận không thể tách rời của tồn bộ cơng tác văn nghệ của Đảng. Tác giả
cũng chỉ ra thiếu sót và nhược điểm của cơng tác văn hóa - văn nghệ giai đoạn hiện
nay là: Hiệu quả giáo dục và xây dựng con người mới trong lực lượng vũ trang còn
hạn chế; “nhiều nội dung và mảng hoạt động văn hóa, văn nghệ cịn thiếu sự năng
động sáng tạo, nếp tư duy và cách làm cũ còn khá nặng nề trong chỉ đạo và tổ chức
thực hiện...” [27, tr. 104]. Theo tác giả, lãnh đạo tư tưởng bộ đội hiện nay nếu chỉ có
lên lớp, cấp trên giải thích, họp Đảng, họp chính quyền thì khơng đủ nữa, mà cịn
phải biết vận dụng nhiều hình thức hoạt động câu lạc bộ phong phú, linh hoạt, được
quần chúng ưa thích.
Tổng cục Chính trị (2018), Văn hóa quân sự Việt Nam giá trị lý luận và thực
tiễn [149]. Cuốn sách gồm 4 phần, là tập hợp bài viết của nhiều tác giả. Trong bài viết
“Văn hóa, văn nghệ trong tình yêu và tầm nhìn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”
của GS. TS Đinh Xuân Dũng đã dẫn lời của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh về vị trí,
vai trị của văn hóa, văn nghệ với đời sống bộ đội, là “vũ khí vơ cùng lợi hại”, góp
phần cho sự nghiệp cách mạng cao cả của dân tộc… Trong một loạt bài viết, bài nói

của mình từ năm 1957 đến năm 1960, “Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã phân tích,
đánh giá cụ thể, thẳng thắn, dứt khốt những ưu điểm và khuyết điểm của cơng tác
văn hóa, văn nghệ (cả quần chúng và chuyên nghiệp)” [149, tr. 380]. Trong bài viết
“Còn sách báo là còn cách mạng” của TS Bùi Chí Trung, đã khẳng định vai trị to lớn
của hoạt động sách báo trong quân đội. Tác giả đã trích lại lời căn dặn của Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh: “Còn sách báo là còn cách mạng. Hãy cố mà giữ lấy” [149, tr.
422].
Trần Xuân Kỳ (2018), Chất lượng công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học viên
cấp phân đội trong các trường sĩ quan quân đội hiện nay [97]. Tác giả cuốn sách đã
đưa ra quan niệm đơn vị cơ sở trong các trường sĩ quan quân đội là đại đội và tiểu đoàn


22
QLHV và tương đương. Trong đánh giá thực trạng, tác giả làm rõ những hạn chế: Hoạt
động văn hóa, văn nghệ hàng tuần ở một số đơn vị QLHV thiếu chặt chẽ, thậm chí bị
cắt xén để thực hiện các nội dung sinh hoạt khác. “Hoạt động của các thiết chế văn hóa ở
đơn vị QLHV chưa tạo được hứng thú cho cán bộ, học viên thói quen đam mê đọc sách”
[97, tr. 65]. Để đổi mới nội dung công tác tư tưởng ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong
các trường sĩ quan quân đội hiện nay phải đổi mới nội dung xây dựng mơi trường văn
hóa; đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các thiết chế
văn hóa ở đơn vị QLHV.
Lương Cường (2019), Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về
chính trị trong tình hình mới [22]. Theo tác giả cuốn sách, để xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam vững mạnh về chính trị trong tình hình mới phải nâng cao chất lượng,
hiệu quả CTĐ, CTCT trong quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; tiếp tục đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp cơng tác tư tưởng. Trong đó, chú trọng “đổi mới nội
dung, phương pháp cơng tác văn hóa quần chúng bảo đảm bám sát với thực tiễn của
đơn vị, phù hợp với tâm lý bộ đội, đáp ứng kịp thời nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư tình
cảm và nhận thức của cán bộ, chiến sĩ” [22, tr. 458]. Đồng thời, “tích cực đấu tranh với
những nhận thức lệch lạc về văn hóa; kiên quyết ngăn chặn sự xâm nhập của những sản

phẩm văn hóa xấu độc, giữ cho các đơn vị ln có đời sống văn hóa tinh thần tươi vui,
lành mạnh” [22, tr. 458].
Nguyễn Thanh Hải (Chủ biên, 2019), Phát huy vai trị thanh niên qn đội
trong xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở hiện nay [70]. Các tác giả đưa
ra quan niệm: Xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở QĐND Việt Nam “là
hoạt động tích cực, chủ động của các chủ thể trong tạo lập, bảo tồn và phát triển
giá trị của những yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ đơn vị, phù hợp với điều kiện tự nhiên, tạo cơ sở phát triển và hoàn thiện
nhân cách quân nhân cách mạng trong từng điều kiện lịch sử cụ thể” [70, tr. 17].
Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đồng thời đề xuất giải pháp cơ bản
phát huy vai trị thanh niên qn đội trong xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị
cơ sở hiện nay.


×