Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Nhóm ĐT tình thái chỉ ý chí trong tiếng Việt trên ba bình diện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.35 KB, 91 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DT: danh từ
ĐT: động từ
TT: tính từ
Đg: động từ
TTBB: tham thể bắt buộc
TTND: tham thể nội dung
TTMĐ: tham thể mục đích
TTMR: tham thể mở rộng
VTTT: vị tố trung tâm



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sự ra đời của ngữ pháp chức năng trong thời gian gần đây đã đem đến một cách
tiếp cận mới đầy hứa hẹn cho ngôn ngữ học. Nếu như ngữ pháp truyền thống giải thích
ngơn ngữ như là một danh mục các cấu trúc mà trong chúng, các mối quan hệ có quy tắc
được xác lập; chúng xem ngữ pháp là cơ sở của ngôn ngữ, và coi ngữ pháp được tổ chức
xung quanh đơn vị câu. Còn ngữ pháp chức năng, như GS Cao Xn Hạo đã nói, nó giải
thích ngơn ngữ như là một hệ thống các mối quan hệ, với cấu trúc xuất hiện như là sự
hiện thực hóa các mối quan hệ này; chúng lấy ngữ nghĩa làm cơ sở; và vì vậy chúng được
tổ chức xoay quanh ngôn bản hoặc văn bản. Chẳng hạn, nếu nghiên cứu một từ theo quan


điểm của ngữ pháp truyền thống thì chủ yếu nghiên cứu nó trên bình diện kết học. Cịn
nếu đặt từ đó dưới góc nhìn của ngữ pháp chức năng, từ sẽ được phân tích và làm sáng tỏ
khơng chỉ ở bình diện kết học; mà cịn ở bình diện nghĩa học và đặc biệt là dụng học –
những văn cảnh, tình huống sử dụng trực tiếp của từ. Như vậy, hướng nghiên cứu ngôn
ngữ theo lý thuyết ba bình diện dưới góc nhìn của ngữ pháp chức năng đang là một hướng
nghiên cứu tỏ ra có nhiều năng lực giải thích các hiện tượng ngơn ngữ so với hướng
nghiên cứu của ngữ pháp truyền thống.
1.2. Điểm lại lịch sử nghiên cứu hai động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng
Việt, hai động từ này đã được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu ngữ pháp truyền
thống, song mới chỉ được đề cập trên bình diện kết học (chủ yếu xoay quanh việc trả lời
cho câu hỏi: “định” và “toan” có khả năng đóng vai trị vị ngữ trong câu khơng?). Trong
các cơng trình nghiên cứu theo hướng ngữ pháp chức năng cũng bước đầu khảo sát thấy
nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của định và toan trên ba bình diện: kết học, nghĩa
học, dụng học. Khảo sát các cơng trình nghiên cứu theo hướng ngữ pháp chức năng lại
5


cho thấy bên cạnh bình diện ngữ pháp, hai động từ tình thái nàyđã bước đầu được xem xét
trên bình diện nghĩa học và dụng học. Tuy nhiên, xung quanh hai động từ tình thái này
cịn cần làm rõ nhiều vấn đề như: trong cấu trúc nghĩa miêu tả, vai trò vị tố thuộc về động
từ thực đi sau các động từ tình thái này hay chính là các vị từ tình thái; “định” và “toan”
thuộc vào loại vị tố nào; hai động từ tình thái này thuộc cùng một nhóm vậy chúng có
điểm nào khác nhau hay khơng... Trong khi đó, trên thực tế, chưa có cơng trình nghiên
cứu chuyên sâu nào về hai động từ tình thái “định” và “toan” trên ba bình diện để giải
đáp những câu hỏi trên.
Vì những lý do trên, chúng tơi lựa chọn đề tài nghiên cứu: Động từ tình thái
“định” và “toan” trong tiếng Việt trên ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng học. Lựa
chọn đề tài này, người viết muốn đóng góp những hiểu biết của mình về hoạt động của hai
động từ tình thái “định” và “toan” trên cả ba bình diện kết học, nghĩa học, dụng học với
hi vọng sẽ có cái nhìn tồn diện hơn về chúng theo quan điểm của ngữ pháp chức năng.

Cụ thể, chúng tơi lấy bình diện kết học làm xuất phát điểm để thấy được những đặc điểm
như ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp của hai động từ tình thái
“định” và “toan” trong cụm từ và câu. Những kết quả thu được từ bình diện kết học là
nền tảng để xác định hoạt động ngữ nghĩa của hai động từ trên. Từ bình diện kết học và
nghĩa học, chúng tơi lại hướng tới bình diện cuối cùng trong nghiên cứu hai động từ tình
thái “định” và “toan” là bình diện ngữ dụng. Bởi lẽ, có những đặc điểm của từ chỉ có thể
thấy và hiểu rõ bằng thực tế sử dụng, trong hoạt động hành chức của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Động từ tình thái “định” và “toan” trong ngữ pháp truyền thống
Nhìn một cách tổng thể, cả hai động từ tính thái “định” và “toan” đã được đề cập
đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà ngơn ngữ học theo hướng tiếp cận
của ngữ pháp truyền thống; nhưng chúng chỉ được đề cập đến một cách sơ lược trong
phần từ loại và cụm từ. Chưa thực sự có một cơng trình nghiên cứu nào của ngữ pháp
truyền thống lấy “định” và “toan” làm đối tượng nghiên cứu toàn diện.

6


Lê Biên trong cuốn “Từ loại tiếng Việt hiện đại” (1995) cũng xếp “định” và
“toan” vào nhóm động từ khơng độc lập, loại động từ tình thái, tiểu loại động từ tình thái
chỉ ý chí, ý muốn [5;97].
Diệp Quang Ban trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1998) xếp “định” và “toan”
vào nhóm động từ khơng độc lập, loại động từ tình thái [2;92], tiểu loại động từ tình thái
chỉ ý nghĩa tình thái về ý chí [2;93].
Nguyễn Kim Thản trong cuốn “Động từ trong tiếng Việt” (1999) xếp “định” và
“toan” vào loại động từ tình thái [15;174], tiểu loại động từ tình thái biểu thị ý chí,
nguyện vọng [15;176].
Đinh Văn Đức trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại” (2001) xếp “định” và
“toan” vào loại động từ tình thái – ngữ pháp [7;139], đồng thời xét về mặt ý nghĩa thì là
các động từ “diễn đạt ý định” [7;140].

Trên đây là sơ lược quan điểm của một vài tác giả về cách phân loại “định” và
“toan” theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống. Về bản chất cũng như tiêu chí phân
loại, nhìn chung các tác giả đều có cơ sở tương đối giống nhau, và đều thống nhất xếp
“định” và “toan” vào loại động từ tình thái, tiểu loại động từ tình thái biểu thị ý chí (hay
ý muốn, nguyện vọng). Và như vậy, trong các cơng trình nghiên cứu của ngữ pháp truyền
thống, “định” và “toan” mới bước đầu được đề cập đến chủ yếu trên bình diện kết học.
2.2. Động từ tình thái “định” và “toan” trong ngữ pháp hiện đại
Dưới ánh sáng của ngữ pháp chức năng mà cụ thể là hướng nghiên cứu ngôn ngữ
theo lí thuyết ba bình diện, “định” và “toan” đã bước đầu được đề cập đến trên cả ba
bình diện kết học, nghĩa học, dụng học.
Trên bình diện kết học, bản chất từ loại của“định” và “toan” đã được xác định dựa
trên những yếu tố: ý nghĩa ngữ pháp khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp
trong câu. Trong cuốn “Ngữ pháp Việt Nam” (2015), Diệp Quang Ban xếp “định” và
“toan” vào nhóm động từ khơng trọn ý, loại động từ tình thái, tiểu loại động từ tình thái
7


chỉ ý chí, ý muốn [3;329]. Dựa vào ý nghĩa của vị tố, tác giả Nguyễn Thị Lương trong
“Câu tiếng Việt” cũng xếp “định” và “toan” vào nhóm “vị tố chỉ ý chí – ý muốn”
[13;155]. Về khả năng kết hợp của “định” và “toan” trong cụm động từ, Diệp Quang Ban
cho rằng: “định” và “toan” là những động từ không trọn ý làm đầu tố trong cụm động từ.
Cụ thể, tác giả viết: “Về cú pháp của câu, trong cấu trúc “động từ tình thái + động từ
thực” (động từ thực có cùng chủ ngữ với động từ tình thái) thì động từ tình thái là đầu tố
của cụm động từ ở vị ngữ, nhưng nghĩa chỉ sự việc thì thuộc động từ thực đứng sau, cho
nên động từ thực ở đây là vị tố của câu. Chẳng hạn, trong câu “Họ định nghỉ ở Nha
Trang”, định là đầu tố của cụm động từ, nhưng nghỉ lại là yếu tố mang nghĩa chỉ sự việc
và nghỉ làm vị tố (trong phần vị ngữ); mặt khác, ranh giới của cụm động từ đến đây là kết
thúc, ở Nha Trang là giới ngữ làm gia ngữ, không thuộc cụm động từ.” [3;287]. Như vậy,
theo quan điểm của Diệp Quang Ban, vị tố là một bộ phận nằm trong thành phần câu (vị
ngữ), giữ vai trò “hạt nhân về nghĩa” (vị ngữ chính), và như thế trong câu thì vai trị ngữ

nghĩa sẽ thuộc về động từ thực sau “định”, “toan”. Tuy nhiên, trong cụm động từ, tác giả
vẫn coi “định” và “toan” phải giữ vai trị “đầu tố” (thành tố chính).
Trên bình diện nghĩa học, chúng tơi nhận thấy có hai quan điểm khác nhau về vai
trị của động từ tình thái “định” và “toan” trong cấu trúc nghĩa miêu tả. Như đã nói ở
trên, tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn “Ngữ pháp Việt Nam” cho rằng trong tổ hợp
“động từ tình thái + động từ thực” thì vai trị ngữ nghĩa thuộc về động từ thực đi sau động
từ tình thái, và do đó xác định động từ thực này là vị tố trong câu. Quan điểm này được
tác giả tiếp tục duy trì khi đề cập đến cấu trúc nghĩa (bình diện nghĩa học) của câu. Theo
đó, “định” và “toan” được xác định như những yếu tố biểu thị tình thái của câu, được ký
hiệu “TT ý chí” (tình thái ý chí) [3;99], cịn vị tố của câu phải là động từ thực đi sau
chúng. Nguyễn Thị Lương trong “Câu tiếng Việt” (2016) lại có quan niệm dường như trái
ngược với Diệp Quang Ban. Thuật ngữ “vị tố” trong “Câu tiếng Việt”của Nguyễn Thị
Lương được hiểu là “phương tiện ngôn ngữ dùng để biểu thị đặc trưng/ quan hệ của sự
việc được phản ánh trong câu, có quan hệ chi phối với các tham thể liên quan và thuộc
phạm trù chức năng nghĩa”. Như vậy, vị tố ở đây là vai nghĩa, không phải là một thành
phần câu theo cách định nghĩa của Diệp Quang Ban. Và trong cấu trúc nghĩa của câu,
8


Nguyễn Thị Lương cũng thống nhất “định” và “toan” giữ vai trị vị tố chứ khơng phải
chỉ là yếu tố biểu thị tình thái như Diệp Quang Ban.
Trên bình diện dụng học, các tác giả Nguyễn Văn Hiệp (cuốn Cơ sở ngữ nghĩa
phân tích cú pháp - 2008), Cao Xuân Hạo (Tiếng Việt – sơ thảo Ngữ pháp chức năng 2017),… cũng đề cập đến hai động từ tình thái “định” và “toan” với tư cách là phương
tiện biểu thị nghĩa tình thái trong câu và xóa bỏ hiệu lực ngôn hành để tạo lập kiểu câu
trần thuật. Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” (2008) đề
cập đến “định” và “toan” là một trong những phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng
Việt, cụ thể là “các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ” [10;140]. Tác
giả cũng “dựa vào tham số về tính hiện thực” [10;141] để phân loại các vị từ tình thái tính
ra làm ba nhóm: vị từ hàm thực, vị từ hàm hư và vị từ vơ hàm. Trong đó, “toan” được xếp
vào nhóm vị từ hàm hư “…giả định hành động, trạng thái,… mà vị từ bổ ngữ của chúng

biểu thị là khơng có thật” [10;142]. Cịn “định” được xếp vào nhóm vị từ vô hàm “…
không giả định hành động, trạng thái,… mà vị từ bổ ngữ của chúng biểu thị là tồn tại hay
không tồn tại” [10;142]. Đồng quan điểm với Nguyễn Văn Hiệp khi phân biệt sự khác
nhau giữa hai vị từ “định”, “toan”, nhưng Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt, sơ thảo ngữ
pháp chức năng” (2017) cụ thể hơn về tiêu chí phân biệt: dựa vào tiền giả định và hàm
nghĩa của vị từ tình thái [9;107]. Từ đó, tác giả phân biệt: Cả “định” và “toan” đều là
những vị từ tình thái có tiền giả định phi thực (giả định rằng trước đó hành động do vị từ
bổ ngữ biểu thị chưa có); nhưng “toan” bao hàm cái ý là hành động ấy sẽ không thực
hiện (hàm nghĩa phi thực), cịn “định” khơng có hàm nghĩa về tính thực hữu (hàm nghĩa
trung hòa) [9;107]. Tác giả cũng khẳng định “định” và “toan” là những vị từ tình thái
góp phần biểu hiện tình thái của vị ngữ hạt nhân (bình diện nghĩa học) [9;106]. Trên bình
diện ngữ dụng, Cao Xuân Hạo đề cập đến động từ “toan” có hàm ý phủ định, “…và do
đó có tác dụng tiêu cực đối với VTNH (vị từ ngơn hành) đứng sau nó, vì nội dung của
những câu như thế chính là cho biết rằng người nói khơng làm cái hành động ngơn từ mà
VTNH đi sau nó biểu thị” [9;434]. Nói cách khác, động từ tình thái “toan” có tác dụng
“xóa bỏ hiệu lực ngơn hành trong câu ngơn hành, báo hiệu tính trần thuật của câu”
[9;435]. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tơi nhận thấy tác dụng này khơng chỉ có ở động
9


từ “toan” mà có cả ở động từ “định”. Vấn đề này sẽ được chúng tơi trình bày cụ thể ở
chương 3 của khóa luận.
Như vậy, trong các cơng trình nghiên cứu theo quan điểm của ngữ pháp chức năng,
“định” và “toan” bước đầu được đề cập đến trên ba bình diện nhưng chưa có cơng trình
chun sâu nào đề cập một cách toàn diện đến “định” và “toan” trên cả ba bình diện.
Đây chính là cơ sở để chúng tôi thực hiện đề tài này. Cả hai động từ tình thái “định” và
“toan” đều sẽ được chúng tơi xem xét ở ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng học; đồng
thời trong tương quan so sánh với nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát và phân tích ngữ liệu, khóa luận sẽ làm rõ: Đặc điểm kết học,
nghĩa học và dụng học của hai động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng Việt. Thơng
qua đó, nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa “định” và “toan” trong
tiếng Việt giúp cho người học, người nghiên cứu có thể hiểu và sử dụng hiệu quả chúng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết: bao gồm lý thuyết về ba bình diện nghiên cứu: kết
học, nghĩa học, dụng học; lý thuyết về từ loại tiếng Việt; lý thuyết về động từ trong

-

tiếng Việt.
Thu thập, khảo sát tư liệu về hai động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng Việt.
Miêu tả đặc điểm kết học, nghĩa học, dụng học của hai động từ tình thái “định” và
“toan” trong tiếng Việt.

4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Các động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng Việt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

10


Trong khóa luận này, chúng tơi chỉ nghiên cứu hai động từ “định” và “toan” trong
những trường hợp xuất hiện với tư cách là những động từ tình thái thuộc nhóm động từ
lớn chỉ ý chí, mong muốn. Những trường hợp động từ “định” xuất hiện với tư cách một

động từ hành động (chẳng hạn như trong những kết hợp như “định tội”, “định giá”), theo
khảo sát của chúng tôi tuy có xuất hiện nhưng với một tỉ lệ khơng lớn (18/149 ngữ liệu,
chiếm 12%) sẽ không được đề cập đến.
4.3. Phạm vi nguồn ngữ liệu
Các ngữ liệu phục vụ cho việc khảo sát được lấy trong các tuyển tập và tác phẩm
của các tác giả sau:
-

Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, năm 2008
Việc làng, Ngô Tất Tố, NXB Nhã Nam, năm 2012
Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, NXB Văn học, năm 2013
Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, năm 2013
Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn học, năm 2014
Các tuyển tập và tác phẩm trên đều là các sáng tác thuộc nhiều thể loại như truyện

ngắn, tiểu thuyết, bút ký,… được chọn lọc, rất tiêu biểu cho văn học Việt Nam hiện đại
giai đoạn 1930 – 1945 nói chung và phong cách của các tác giả nói riêng. Bên cạnh đó,
chúng tơi cũng sử dụng khẩu ngữ sinh hoạt hàng ngày làm ngữ liệu trong quá trình khảo
sát để tăng tính thực tiễn của khóa luận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giúp ích cho việc nghiên cứu cũng như để kết quả nghiên cứu được chính xác,
đầy đủ chúng tơi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp và thủ pháp sau đây:
-

Phương pháp khảo sát, thống kê tư liệu: Phương pháp này được sử dụng để tập hợp

-

ngữ liệu về hai động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng Việt.
Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để làm rõ những đặc điểm kết

học, nghĩa học, dụng học của hai động từ tình thái “định” và “toan” trong tiếng

-

Việt.
Thủ pháp so sánh: Thủ pháp này được sử dụng để làm rõ đặc điểm của hai động từ
tình thái “định” và “toan” trên cả ba bình diện.
11


6. Đóng góp của khóa luận
-

Đóng góp về mặt lí luận:
Đề tài nếu thực hiện thành cơng sẽ giúp hồn thiện và bổ sung lý thuyết ba bình diện

khi soi chiếu nó vào trường hợp cụ thể của hai động từ tình thái “định” và “toan”; giúp
có cái nhìn sâu hơn về từ loại tiếng Việt nói chung và hai động từ tình thái “định” và
“toan” nói riêng theo quan điểm của lý thuyết ba bình diện.
-

Đóng góp về mặt thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho việc nghiên cứu, dạy - học ngữ pháp tiếng

Việt nói chung và việc nghiên cứu, giảng dạy động từ tiếng Việt nói riêng có thể đạt hiệu
quả cao hơn.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
khóa luận chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết

Chương 2: Động từ tình thái “định” và “toan” trên bình diện kết học
Chương 3: Động từ tình thái “định” và “toan” trên bình diện nghĩa học và dụng học

12


1
1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Khái qt về lí thuyết ba bình diện
Ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Vì vậy, nó cần được nghiên cứu theo

“Tín hiệu học” - tức là khoa học nghiên cứu về tín hiệu; mà cụ thể là trên ba phương diện:
kết học, nghĩa học và dụng học (ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng).
1

Bình diện kết học
Trong tín hiệu học, kết học là “lĩnh vực của sự liên kết tín hiệu với tín hiệu trong

thơng điệp” [8;13]. Bình diện kết học nghiên cứu các quy tắc, cách thức liên kết các từ
thành cụm từ (gọi là cú pháp cụm từ) và thành câu, các kiểu câu (gọi là cú pháp câu). Cú
pháp cụm từ nghiên cứu cấu tạo ngữ pháp của các loại cụm từ, đặc biệt là cụm từ chính
phụ. Chẳng hạn, cụm từ chính phụ tiếng việt thường gồm ba phần: phần phụ trước, phần
trung tâm, phần phụ sau. Phần trung tâm do thực từ (danh từ, động từ, tính từ,…) đảm
nhận. Còn cú pháp câu nghiên cứu các đặc điểm, chức năng của các thành phần câu; và
các kiểu cấu tạo của các loại câu: câu đơn bình thường, câu ghép, câu phức, câu đặc biệt.
1.1.2. Bình diện nghĩa học
Trong tín hiệu học, nghĩa học là “lĩnh vực của những quan hệ giữa tín hiệu với

hiện thực được nói tới trong thông điệp… Nghĩa học là lĩnh vực của nghĩa miêu tả, của
thông tin miêu tả, thông tin sự vật.” [8;13]. Trong ngơn ngữ, bình diện nghĩa học nghiên
cứu phần nghĩa tường mình, bao gồm hai bộ phận nghĩa: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái.
Nghĩa miêu tả (cịn gọi là nghĩa sự việc, nghĩa biểu hiện) là phần nghĩa phản ánh
sự việc, hiện tượng, sự vật, hoạt động, trạng thái, tính chất, quan hệ,… ngồi thực tế
khách quan. Sự việc, hiện tượng này được gọi là các sự tình, chúng được phản ánh vào
trong câu thơng qua cách nhìn nhận, đánh giá của người nói/ người viết. Phần nghĩa miêu
tả có cấu trúc gồm hai phần chính: nội dung của sự tình, gọi là “vị tố”; và các nhân tố
tham gia vào sự tình, gọi là các tham tố (hay tham thể).
Vị tố thường do động từ, tính từ hay các từ chỉ quan hệ biểu thị. Nó có quan hệ với
vị từ, nhưng không đồng nhất với vị từ. Theo cách hiểu của phần đông các nhà nghiên
13


cứu, vị từ là khái niệm để chỉ hai từ loại là động từ và tính từ. Cịn vị tố là khái niệm để
chỉ chức năng nghĩa trong cấu trúc nghĩa miêu tả của câu. Như vậy, vị từ thuộc bình diện
kết học, cịn vị tố thuộc bình diện nghĩa học. Để phân loại vị tố, người ta thường dựa vào
ba tiêu chí: tiêu chí ý nghĩa (vị tố dời chuyển, vị tố tác động, vị tố nói năng,…); tiêu chí
đặc trưng (± động, ± chủ ý); tiêu chí số lượng các tham thể (vị tố đòi hỏi một tham thể bắt
buộc, hai tham thể bắt buộc,…).
Tham thể thường do các danh từ, cụm danh từ hoặc đại từ biểu thị. Tham thể
thường được chia làm hai loại: tham thể bắt buộc (TTBB) và tham thể mở rộng (TTMR).
Tham thể bắt buộc là thực thể buộc phải có mặt để cho nội dung của vị tố trở nên có
nghĩa. Tham thể bắt buộc xuất hiện do sự đòi hỏi, ấn định trực tiếp của vị tố. Vì vậy khi
thay đổi số lượng cũng như chức năng nghĩa của các tham thể bắt buộc sẽ dẫn đến sự thay
đổi ý nghĩa của vị tố. Còn tham thể mở rộng là thực thể có vai trị bổ sung thêm một
phương diện nghĩa nào đó cho cấu trúc nghĩa vị tố - tham thể. Nó có thể là phương diện
thời gian, nơi chốn; phương diện nguyên nhân, cách thức, điều kiện, mục đích, nhượng
bộ… Tham thể mở rộng xuất hiện không do sự ấn định đòi hỏi trực tiếp của vị tố, mà do
hồn cảnh, tình huống u cầu (chu cảnh). Tuy nhiên, chúng phải được vị tố chấp nhận.

Cần phải lưu ý rằng, sự phân biệt giữa tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng cũng
khơng hồn tồn tuyệt đối. Có những thực thể, trong ngữ cảnh này là tham thể mở rộng;
trong ngữ cảnh khác lại là tham thể bắt buộc.Ví dụ:
(1) Trong bếp có một đĩa bánh.
 “Trong bếp” là tham thể bắt buộc chỉ không gian.
(2) Trong bếp, mẹ tôi đang nấu cơm.
 “Trong bếp” là tham thể mở rộng chỉ không gian.
Bên cạnh nghĩa miêu tả, ở bình diện nghĩa của câu, người ta cịn quan tâm đến thành
phần nghĩa tình thái.
Nghĩa tình thái là “một phần nghĩa của câu thể hiện thái độ hay quan điểm giữa
người nói với người nghe, giữa người nói với hiện thực (sự tình) được phản ánh trong
câu, giữa nội dung được phản ánh trong câu với hiện thực ngoài thực tế khách quan”
[16;193]. Nghĩa tình thái thường được thể hiện thông qua ngữ điệu; dấu câu; các tiểu từ
14


tình thái; các quán ngữ tình thái; các thán từ… Như vậy có thể thấy, nghĩa tình thái có
quan hệ mật thiết với các nhân tố thuộc bình diện ngữ dụng. Nghĩa tình thái rộng, phức
tạp, nhiều khi trừu tượng nên khó nắm bắt hơn nhiều so với nghĩa miêu tả. Một số loại
nghĩa tình thái thường gặp là: tình thái của hành động nói; tình thái liên cá nhân; tình thái
chủ quan; tình thái khách quan. Các ý nghĩa tình thái này thường hịa quyện vào nhau và
phối hợp chặt chẽ với nghĩa miêu tả của câu. Có thể khẳng định đây là một thành phần
nghĩa ln ln có mặt trong câu. Có trường hợp câu khơng có nghĩa miêu tả nhưng vẫn
có nghĩa tình thái (trường hợp các câu cảm thán chỉ gồm từ cảm thán, như Chao ôi!).
1.1.3. Bình diện dụng học
Bình diện này nghiên cứu mối quan hệ giữa câu với người sử dụng, giữa câu với
việc sử dụng câu trong một tình huống giao tiếp cụ thể nhằm phát hiện những ý nghĩa của
câu – phát ngơn trong tình huống cụ thể đó (gọi là nghĩa ngữ dụng của câu). Vì vậy ở bình
diện ngữ dụng, câu khơng cịn là một mơ hình ngữ pháp trừu tượng mà gắn với những
ngữ cảnh cụ thể. Lúc đó nó trở thành phát ngơn. Cũng ở bình diện ngữ dụng, nghĩa của

câu không chỉ là nghĩa tường minh mà còn gắn với những ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, được
suy ra từ những ngữ cảnh ấy. Đó chính là nghĩa hàm ẩn. Chính bởi phần nghĩa hàm ẩn này
mà nghĩa ngữ dụng của câu trừu tượng, phức tạp, khó xác định hơn nhiều so với nghĩa
miêu tả của câu. Ngồi xác định nghĩa hàm ẩn, bình diện dụng học cịn quan tâm đến vấn
đề cấu trúc thơng tin (cấu trúc tin cũ – tin mới, cấu trúc đề - thuyết) của câu.
Ba bình diện của câu có mối quan hệ khăng khít với nhau khơng thể tách rời: bình
diện kết học – phần hình thức của câu dùng để biểu thị bình diện nghĩa học – phần nội
dung của câu. Đồng thời, muốn hiểu đúng nghĩa của câu cần đặt câu trong ngữ cảnh nhất
định – bình diện dụng học. Như vậy, ba bình diện này tồn tại vì nhau, dựa vào nhau; ta
khó có thể hiểu thấu đáo một bình diện nếu tách nó ra khỏi hai bình diện kia.
1.2. Khái quát về từ loại trong tiếng Việt
2

Khái niệm từ loại
Vốn từ vựng của bất kì hệ thống ngôn ngữ của một dân tộc nào, một cộng đồng

người nào cũng đều có một số lượng vơ cùng lớn (đến vài chục vạn từ). Những từ này rất
15


đa dạng về nghĩa, về tính chất, chức năng; chúng tuy có điểm giống nhau nhưng lại khơng
thuần nhất. Vì vậy, muốn hiểu rõ được từ, người ta cần tiến hành tập hợp, quy loại chúng.
Việc quy loại vốn từ trên bình diện ngữ pháp, nhằm mục đích ngữ pháp, theo bản chất
ngữ pháp của từ cho ta sản phẩm là các “từ loại”.
Như vậy, “từ loại” có thể hiểu là “lớp các từ có sự giống nhau về đặc điểm ngữ
pháp” [16;23].
1.2.2. Tiêu chí phân định từ loại tiếng Việt
Diệp Quang Ban đã khẳng định: “Việc tập hợp và quy loại các lớp từ thường dựa
vào những quan niệm khác nhau về đặc trưng từ loại, nên các hệ thống từ loại tiếng Việt
đã có chưa đạt được sự nhất trí hồn tồn” [2;74]. Tuy nhiên theo xu hướng chung, từ loại

trong tiếng Việt thường được phân định theo ba tiêu chí:
-

Ý nghĩa ngữ pháp khái quát của từ:
Đây là loại ý nghĩa ngữ pháp. Nó mang những nét khái quát chung cho các từ

thuộc cùng một từ loại. Có thể khẳng định rằng tiêu chí ý nghĩa ngữ pháp khái qt là một
tiêu chí quan trọng, vì ý nghĩa ngữ pháp của từ chi phối những đặc điểm trong hoạt động
ngữ pháp của từ. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa ngữ pháp để phân loại từ thì chưa
đủ, mà cịn phải sử dụng các tiêu chí về hình thức ngữ pháp.
Ví dụ:
+ Các từ: người, học sinh, cá, mèo, ghế, bút, tính chất, màu sắc,… đều có ý nghĩa
chung là ý nghĩa sự vật.
+ Các từ: đi, chạy, bò, bay, học, đánh, ngủ, nghiên cứu, khảo sát,… có nghĩa chung
là chỉ hoạt động hoặc trạng thái.
+ Các từ: đẹp, xấu, vàng, chăm chỉ, lười, thông minh,… có nghĩa chung là chỉ tính
chất, đặc điểm.

16


Các ý nghĩa: sự vật, hoạt động hoặc trạng thái, tính chất hoặc đặc điểm,… là các ý
nghĩa ngữ pháp.
-

Khả năng kết hợp của từ:
Từ tiếng Việt không biến đổi hình thái nên chỉ có thể bộc lộ đặc điểm ngữ pháp

dựa vào khả năng kết hợp với các từ xung quanh. Do đó, cần thiết phải căn cứ vào khả
năng kết hợp của từ với các từ xung quanh để xác định đặc điểm ngữ pháp, bản chất từ

loại của từ.
Ví dụ:
(3) Cơng việc của chúng ta rất khó khăn. Nhưng chúng ta nhất định sẽ vượt qua
những khó khăn ấy.
Ở ví dụ (3), có hai từ khó khăn. Từ thứ nhất có nghĩa ngữ pháp chỉ “tính chất”
(chung cho tất cả các tính từ), ý nghĩa này được bộc lộ nhờ hình thức kết hợp với từ rất ở
trước. Từ khó khăn thứ hai có ý nghĩa “sự vật” (chung cho tất cả những danh từ); ý nghĩa
đó được bộc lộ nhờ hình thức kết hợp với từ những ở trước và từ ấy ở sau.
Như vậy, khả năng kết hợp của từ không hiểu rộng rãi là sự kết hợp của từ này với
từ khác một cách bất kỳ mà là khả năng của từ trong việc cấu tạo một cụm từ chính phụ.
Căn cứ vào khả năng cấu tạo cụm từ chính phụ cho thấy, có những từ loại có thể làm
thành tố chính cho cụm từ nhưng có những từ loại chỉ có thể trong vai trị thành tố phụ
của cụm từ. Lại có những từ loại khơng có khả năng tham gia vào cấu tạo cụm từ mà chỉ
làm nhiệm vụ nối kết. Dựa vào những khả năng khác nhau ấy, rõ ràng có thể phân định từ
thành các từ loại khác nhau.
Trong số các từ loại có thể làm thành tố chính của cụm từ lại căn cứ vào các từ phụ
đặc trưng cho từng loại cụm từ (từ chứng) để phân định các từ - thành tố chính. Ngược lại,
các từ - thành tố phụ của cụm từ cũng được phân định thành các tiểu loại căn cứ vào chỗ
nó phụ thuộc vào các từ - thành tố chính nào. Đặc trưng về khả năng kết hợp của các lớp

17


từ được xác định là dấu hiệu chủ yếu về ngữ pháp có tác dụng quyết định trong việc phân
định, quy loại các lớp từ tiếng Việt về mặt từ loại.
-

Chức năng cú pháp của từ loại trong câu
Tham gia vào cấu tạo câu, các từ thuộc các từ loại khác nhau cũng có thể đứng ở


một hay một số vị trí nhất định trong câu, hoặc có thể thay thế nhau ở vị trí đó, và cùng
biểu thị một mối quan hệ về chức năng cú pháp với các thành phần khác trong cấu tạo
câu, có thể phân vào một từ loại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn chức năng cú pháp này thường ít
ổn định hơn so với tiêu chuẩn ý nghĩa ngữ pháp và khả năng kết hợp vì thường một từ có
thể giữ nhiều chức năng ngữ pháp trong câu.
Ví dụ: Danh từ, động từ, tính từ đều có thể làm chủ ngữ hoặc vị ngữ trong câu. Tuy
nhiên, danh từ thường khơng có khả năng làm vị ngữ trựa tiếp (cần có từ “là”). Cịn động
từ, tính từ đều có khả năng làm vị ngữ trực tiếp.
1.2.3. Hệ thống từ loại tiếng Việt
Với những tiêu chí phân loại khác nhau, những nhà nghiên cứu cũng cho ra những
hệ thống từ loại có những nét khác nhau.
Lê Biên từ hai tiêu chí nền tảng là nghĩa khái quát và đặc điểm hoạt động ngữ pháp
của lớp từ đã chia vốn từ tiếng Việt thành những loại như sau:

18


19


Hình 1.2.3.1. Hệ thống từ loại tiếng Việt của Lê Biên
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung cũng theo xu hướng chung, phân định từ
loại trong tiếng Việt theo ba tiêu chí như đã trình bày ở trên, cho ra hệ thống từ loại như
sau:

20


21



Hình 1.2.3.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt của Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung
Tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại) lại chia từ loại
tiếng Việt thành ba lớp, tách riêng tình thái từ với thực từ và hư từ. Ông cũng cho rằng đại
từ là từ loại có quan hệ chặt chẽ với thực từ nhưng không phải là thực từ.

22


23


Hình 1.2.3.3. Hệ thống từ loại tiếng Việt của Đinh Văn Đức
Trong cuốn Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt, hai tác giả Bùi Minh Toán và Nguyễn
Thị Lương thể hiện quan điểm phân loại từ trong tiếng Việt cũng theo ba tiêu chí chung: ý
nghĩa ngữ pháp khái quát; khả năng kết hợp của từ để cấu tạo cụm từ; khả năng cấu tạo
câu, đảm nhiệm chức vị thành phần câu. Từ đó cho ra kết quả là:

24


25


×