Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. LIÊN HỆ TỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.37 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN
MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. LIÊN HỆ TỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Nhóm thực hiện:

Nhóm 6

Lớp học phần:

2242HCMI0111

Giảng viên hướng dẫn:

ThS.Vũ Thị Thu Hà

Hà Nội, 2022


LỜI MỞ ĐẦU
Đạo đức là một phạm trù quen thuộc trong cuộc sống mỗi người. Nó được
coi là biểu hiện của nhân cách văn hóa xã hội nói chung và là của mỗi cá nhân
nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam
tuy đã về với cõi vĩnh hằng nhưng đã để lại cho tồn Đảng, tồn dân ta một di
sản vơ cùng to lớn – đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng. Có thể nói rằng, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo


đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành từ ngàn năm xa và
kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân
loại, đặc biệt dựa vào nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức
của dân tộc, vừa tiếp thu những đạo đức của thời đại, đề xuất những tư tưởng
đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu và bối cảnh của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con người mới có đủ đức, đủ tài phục
vụ đất nước và đạt đến “chân, thiện, mỹ” của con người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức như là nền tảng của cách mạng, như “gốc của
cây, ngọn nguồn của sông suối”. Việc chăm nuôi cho cái gốc, cái nguồn ấy là rất
cần thiết, là cơng việc thường xun của Đảng, của tồn dân, tồn xã hội. Do
vậy, việc tìm hiểu, học tập, vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới vơ cùng cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và mặt thực tế đối với mỗi thành viên trong xã hội, đặc biệt là thế hệ sinh viên –
chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì những lý do trên, nhóm 6 lựa chọn
đối tượng nghiên cứu của đề tài “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về
những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng. Liên hệ tới sự nghiệp đổi
mới hiện nay ở nước ta” là thế hệ sinh viên ngày nay.

2


MỤC LỤC

3


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
Trải qua một q trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (năm 2011) đã nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi.”
1.1.2. Định nghĩa “Đạo đức cách mạng”
Trong lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm
“Đạo đức cách mạng” và phân tích nội dung bản chất cũng như các nguyên tắc,
chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của
đạo đức truyền thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo
đức phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng lên chủ nghĩa xã
hội.
1.1.3. Chuẩn mực đạo đức cách mạng
Chuẩn mực đạo đức cách mạng là những chuẩn mực chung nhất của nền
đạo đức cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn
hàng đầu của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp

4



độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức tạo ra
sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc. Nhưng như vậy
khơng có nghĩa Hồ Chí Minh tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho
rằng “có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm
việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau
để hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng.
Những chuẩn mực đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh quan niệm là:


Một là, trung với nước, hiếu với dân.



Hai là, cần, kiệm, liêm, chính.



Ba là, thương u con người, sống có tình nghĩa.



Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.

1.1.4. Nguyên tắc đạo đức cách mạng
Nguyên tắc đạo đức là tiêu chuẩn phổ quát quy định về các hành vi, phẩm
chất mà một người, tập thể có đạo đức cần tuân theo.
Từ những quan điểm về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, các nguyên
tắc trong rèn luyện đạo đức cách mạng được đúc kết như sau:

1.2.




Một là, nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức.



Hai là, xây đi đơi với chống.



Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh do chính truyền thống đạo đức của dân

tộc Việt Nam xây dựng nên nền móng, một truyền thống lâu đời được hình thành
trong hàng ngàn năm lịch sử, cùng với quá trình kế thừa tư tưởng đạo đức
phương Đông và tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt là những tư tưởng đạo
đức của Các Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như học tập những tấm gương đạo đức
trong sáng do các ông để lại. Cũng chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã viết nên
những dịng đầy cảm xúc nói về Lênin là “tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại
và sự khiêm tốn cao độ” và gọi ông là người thầy mang tấm lòng đạo đức vĩ đại
và cao đẹp.
5


Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo
đức đã có từ trước, nhất là đạo đức nho giáo trong lĩnh vực đạo đức. Nhưng như
vậy khơng phải nói Nho giáo chính là bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh. Người đã không áp dụng một cách khuôn mẫu mà chọn lọc và phát triển
những khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đó cho phù hợp với lợi ích của con
người Việt Nam hiện đại.
Hồ Chí Minh đã đưa những nội dung mới vào trong những khái niệm,
phạm trù đạo đức quen thuộc của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó bổ sung những
khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị
đạo đức truyền thống được nâng lên một tầng cao mới, giúp người thực hiện
việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Việc tiếp thu tinh hoa đạo đức nhân
loại đã giúp cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, được đơng đảo bạn
bè quốc tế đón nhận, bởi họ nhìn thấy điểm chung của bản thân mình trong đó,
cũng như một Việt Nam đang hịa nhập vào trong nhân loại. Sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế cũng là một đặc trưng của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy, với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn
lọc, khái quát và phát triển những giá trị của đạo đức từ ngàn đời, đưa ra những
tư tưởng, đạo đức hiện đại, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới.
1.3.

Vai trò đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết chính là sức

mạnh tinh thần, là vũ khí sắc bén của cách mạng.
Đạo đức là quy ước, là thước đo nhân cách của mỗi con người, là mục tiêu
và cũng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là phẩm chất đầu tiên và tiên quyết, là nền tảng
của người cách mạng, giống như gốc của cây, nguồn của sông, suối. Gốc rễ càng
khỏe thì cây mới cao lớn, đầu nguồn càng nhiều nước thì sơng suối mới dài, đạo
đức vững chắc thì người làm cách mạng mới đủ mạnh mẽ. Việc nuôi dưỡng đạo
6



đức cách mạng đó chính là cơng việc thường xun của Đảng, tồn dân, mỗi gia
đình và mỗi con người trong xã hội.
Đạo đức ảnh hưởng đến sự nghiệp chuyển biến xã hội cũ thành xã hội mới
tốt đẹp hơn, xây dựng thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng rất lớn đến
hành vi của mỗi người. Đạo đức tốt thì hành vi phù hợp với chuẩn mực và quy
tắc của xã hội, người khơng có đạo đức tất sẽ hành động sai trái.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức chính là yếu tố liên quan trực tiếp đến việc
thành hay bại của cách mạng.
Hồ Chí Minh khơng tuyệt đối hóa mặt đạo đức mà khuyến khích người
cách mạng rèn luyện song song cả đức lẫn tài. Phẩm chất và năng lực của một
người phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà mặt kia yếu kém.Một
người làm cách mạng giỏi chính là một người tài đức vẹn tồn.
Do vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng đến giáo dục đạo đức con người. Tùy theo tình hình
thực tế của cách mạng theo từng thời kỳ, Người đề ra những yêu cầu đạo đức
thiết thực để mọi người phấn đấu rèn luyện, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn
thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn và phức tạp hơn mà cách mạng đề
ra, từ đó đi đến thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng

7


CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN
MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.1.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước,

với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Theo Hồ Chí Minh Trung,
hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất
khác. Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”, phản ánh bổn phận
của dân đối với vua, con cái đối với cha mẹ.
Theo Người, “trung” là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc
gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... “Nước” ở đây
với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của toàn dân
tộc chứ khơng phải của riêng ai và chính mỗi người dân là những "chủ nhân"
của đất nước. Mối quan hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc,
hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Nội dung chủ yếu của trung với nước bao gồm: Đặt lợi ích của Đảng, của
Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu
của cách mạng; Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về chữ “hiếu”, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân khơng
phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân
dân, với tồn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ
từng chỉ rõ: "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân... Trong xã hội khơng
có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"; "Nhân dân ta từ
lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và
giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng

8


chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn:
khơng phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà phải trung với nước, hiếu với dân".

Nội dung của hiếu với dân bao gồm: Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự
của nhân dân; Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng
thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; Chăm lo đến đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ
lợi ích của nhân dân.
Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Người khẳng
định: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam,
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn lâu dài mãi về
sau.
“Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được
thể hiện trong mọi cơng việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm
cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Vì vậy, trong suốt quá trình
xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng
cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán
bộ, đảng viên nói riêng, và địi hỏi họ phải ln ghi sâu trong lịng những chữ
"trung với nước, hiếu với dân".
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu
với dân còn đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt
nhất'' của đạo đức cách mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'',
là ''trung với nước, hiếu với dân'', hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân khơng cịn dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải phục
vụ hết lịng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập
dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc.
9



2.1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi
người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong
kiến ngày xưa nêu ra “cần, kiệm, liêm, chính” nhưng khơng bao giờ thực hiện
mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề
ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân là để
đem lại hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm liêm, chính, chí cơng
vơ tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước,
hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “Trung, Hiếu”, “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng
vơ tư” cũng là những khái niệm cũ trong truyền thống dân tộc, được Hồ Chí
Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới
đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của đất nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, “khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi”, khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân”, “khơng
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong
sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham
sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại,
khơng bao giờ hủ hóa”.
Chính nghĩa là “khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: khơng tự
cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln tự kiểm điểm để phát triển
điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: khơng nịnh hót
10



người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đồn kết thật thà, khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên,
lên trước việc tư, việc nhà.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là “tứ đức” khơng thể thiếu
được của con người. Đó là thước đo văn minh tiến bộ của dân tộc. Một dân tộc
biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh mẽ tinh thần, là
dân tộc văn minh tiến bộ, đặc điểm của xã hội hưng thịnh.
Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư” là để
người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang khơng quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Bác nói: “Đem
lịng chí cơng vơ tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, phải “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Người coi Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư là phẩm chất đạo đức
cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức
mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường
xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền
tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này
gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với
tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Người từng nói: “Người đảng viên, người
cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, khơng có gì là khó cả.
Điều đó hồn tồn do lịng mình mà ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc,
vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng, vơ tư. Mình đã chí cơng, vơ tư thì
khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm”. Có thể thấy
rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã
đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới,
với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một

cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
11


Cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng
vơ tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, chí cơng vơ
tư, một lịng vì nước, vì Đảng, hết lịng với dân thì nhất định thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính và tu dưỡng được những phẩm chất đạo đức khác.
Ở quan điểm của Bác thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thước đo giá trị giàu
có, là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Một dân
tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ. Để làm được đúng lời căn dặn của Bác
“mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, thì
lúc này phải thắng được “giặc nội xâm”, “giặc quốc nạn” loại giặc vơ ảnh, vơ
hình là tên giặc tham nhũng ở ngay trong lịng mình, trong tổ chức mình. Vì loại
giặc này đang rình rập phá hoại Đảng, phá hoại chế độ và sẽ làm cho Đảng
hỏng, nếu mỗi cán bộ đảng viên khơng thắng được nó.
2.1.3. u thương con người, sống có tình nghĩa
Quan niệm của Bác về con người rất toàn diện và độc đáo. Bác xác định
tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Với Hồ Chí Minh, tình u thương con người là khơng biên giới. Tình yêu
thương con người được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, được thể
hiện trong mối quan hệ giữa bạn bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong
quan hệ hàng ngày. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội". Quan điểm của
Bác là phải tất cả vì con người. Chúng ta khơng có mục đích nào khác là chăm
lo cho con người, giải phóng con người, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân, nghĩa là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Bác

coi đây là phẩm chất cao đẹp nhất.
Tư tưởng yêu thương con người của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, cụ thể,
khơng trừu tượng chung chung. Tình u thương đó là tình cảm rộng lớn, trước
12


hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột
khơng phân biệt màu da dân tộc. Yêu thương con người của Bác rất đúng mực,
thể hiện rõ quan điểm yêu và chống, nhằm vun đắp bồi bổ cho tình yêu thương
con người. Điều này, được Bác Hồ kết luận: "Chỉ có một mối tình hữu ái thật mà
thơi, đó là tình hữu ái vơ sản”. Với lòng nhân ái bao la, Người đã dành tình yêu
thương, sự chia sẻ nỗi đau với mỗi người. Người đau nỗi đau của một người
từng trải và chứng kiến nhiều cảnh đau thương mất mát, bao cảnh bất cơng,
ngang trái mà đồng bào mình, đất nước mình và các dân tộc đồng cảnh ngộ phải
gánh chịu…Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng
và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi
đau khổ của tôi”; hay “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào cịn
chịu khổ là một ngày tơi ăn khơng ngon, ngủ khơng n”. Tình u thương của
Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng con người đến chăm lo từng
con người cụ thể. Việc lo giải phóng con người, chúng ta có thể thấy minh
chứng rõ ràng nhất là cả cuộc đời của Người. Cụ thể với nhân dân Việt Nam,
Người đã có lời nhắn nhủ đầy tâm huyết, rất nhân văn: “Tôi khuyên đồng bào
đồn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài.
Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người
thế này thế khác đều dịng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại
đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát
huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Yêu thương con người là

giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê
bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu
điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân
để đấu tranh giải phóng con người. Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ
Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người
13


viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
nghĩa Mác - Lênin được".
2.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi tồn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Đó là tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một
mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân
tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Bác đã dày công vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân
dân tiến bộ trên tồn thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu
hịa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
Quan niệm đạo đức về tình đồn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
Thứ nhất, đồn kết với nhân dân lao động các nước. Đó chính là tinh thần
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc
đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức mà Hồ Chí Minh đã dày cơng
vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự
nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Thứ hai, đoàn kết quốc tế giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một
mục tiêu chung, “bốn phương vơ sản đều là anh em”. Người khẳng định thực
dân đế quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao
động chính quốc. Để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân
phận nơ lệ và bị bóc lột, địi hỏi sự đồn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao
động ở thuộc địa và chính quốc. Vì thế, nhiệm vụ chống thực dân đế quốc, đánh
đổ chủ nghĩa tư bản là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc
14


địa. Nhiệm vụ đó địi hỏi phải đồn kết cả hai lực lượng nói trên. Đồn kết với
nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Vì lẽ đó, Người ln
động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của
dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vơ tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân
tộc anh em. Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các
nước, các dân tộc. Sự đồn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi
ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Thứ ba, đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... Nếu tinh thần yêu
nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn tới
tư tưởng dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn, kỳ thị
dân tộc... Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến phá vỡ một quốc gia
dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế
trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, thù địch.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ tình thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc
bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình
đẳng thực sự cho con người. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí

Minh đã dày cơng xây đắp tình đồn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và
nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay đối đầu
nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho nhân loại. Trong Tun ngơn Độc
lập (2-9-1945), Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc… suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Người cũng nhấn mạnh, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta,
15


sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh
em đoàn kết chặt chẽ với nhau.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc đạo đức cách mạng
2.2.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln ln nêu
gương sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức
Người làm mà khơng nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người
mới thấy được bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: “… Trước mặt quần chúng
khơng phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ
Chí Minh viết: “Nói thì phải làm” “Có lòng bày vẽ cho người” hay trong tác
phẩm nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh
yêu cầu Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng
đặc biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng

viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, có tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ
được xây dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực
đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà
những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt
có ý nghĩa thúc đẩy cho q trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc,
cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh
hùng, chiến sỹ thi đua những tấm gương của những người tiêu biểu cho từng
ngành, từng cấp, những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời

16


thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta khơng thể coi thường. Về vấn đề này
Hồ Chí Minh đã nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào,
giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
2.2.2. Xây đi đơi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi
đạo đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức
mới, vừa phải chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ
Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân
nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính
tổ chức và kỷ luật”.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội
nhất là trong những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng
trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi

người để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách
mạng là việc làm “Sung sướng vẻ vang nhất trong đời này” tiếp nhận sự giáo
dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự
trau dồi đạo đức ở mỗi người cịn quan trọng hơn nhiều đó cũng chính là điều
mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ
biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại
cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá
nhân. Trong tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá
nhân được công bố vào ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập

17


Đảng cộng sản Việt Nam đã mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao
đạo đức cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
2.2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải
thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng
là cơng việc phải kiên trì bền bỉ suốt đời, khơng người nào có thể chủ quan tự
mãn. Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có
cơng với cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cá nhân trở
thành con người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó
mà tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi

hồn cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái
xấu, vấn đề là khơng tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái
thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn
luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm
gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới.
Những đức tính quý báu của người khơng phải là bẩm sinh có được mà do q
trình tu dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và
nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người
Việt Nam trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ln ln có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn hết sức sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong suốt những năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng
đất nước Việt Nam trong giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy,
18


việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là
cơng việc quan trọng để mỗi chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo
dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của
Đảng, nhiệm vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt
lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức
cách mạng, từng bước quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê
phán những biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao

nhận thức, giác ngộ trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa,
đồng thời phát hiện những nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt,
những tấm gương sáng tiêu biểu để nhân rộng, tạo nên một phong trào sống
chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa
thực tiễn và có sức thuyết phục.

19


CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ TỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CHO THẾ
HỆ SINH VIÊN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện
đạo đức của thế hệ sinh viên hiện nay
3.1.1. Nhận thức của thế hệ sinh viên Việt Nam về việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào quá trình rèn luyện đạo đức hiện nay
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc được ví “là tấm gương sáng, là
hiện thân của nền đạo đức cách mạng Việt Nam, mãi mãi là ngọn đèn pha chiếu
rọi con đường rèn luyện, phấn đấu để trở nên “tốt” hơn, đạt đến “chân thiện mỹ”
của con người Việt Nam ngày nay và mai sau”. Theo Người, đạo đức là một yếu
tố quan trọng nhất của nhân cách tạo nên giá trị con người, mọi người cần chú
trọng rèn luyện đạo đức để ngày càng hoàn thiện hơn. Đạo đức Hồ Chí Minh là
đạo đức của bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”, của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách
mạng, một người cộng sản ưu tú; đồng thời, cũng là đạo đức của một người chân
chính nhưng cũng rất gần gũi và bình thường mà ai cũng có thể học tập và noi
theo. Bác Hồ từng viết trong thư gửi các bạn thanh niên (1947): “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương
lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của
mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”. Theo Người, thường xuyên
chú trọng quan tâm giáo dục về tư tưởng đạo đức, chăm lo rèn luyện đạo đức

cho thế hệ sinh viên là vô cùng cần thiết và cấp thiết.
Sinh viên là tầng lớp tri thức cao của mỗi quốc gia - là tương lai của đất
nước, là những người quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những
“mùa xuân” của xã hội, đất nước. Hành trang vào đời quan trọng của sinh viên
chính là vốn kiến thức được học để thành danh trên ghế nhà trường. Tuy nhiên,
một hành trang không thể thiếu bên cạnh những vốn kiến thức là đạo đức của
mỗi người. Họ phải là những người có đạo đức, có lối sống tốt nếu khơng muốn
nói là chuẩn mực để xứng đáng với cương vị là một sinh viên – chủ nhân tương
lai của đất nước, hay nói đúng hơn “Trước khi thành tài thì phải thành nhân".

20


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà khơng có đức thì là người vơ
dụng, có đức mà khơng có tài thì làm gì cũng khó". Qua đó cũng đủ hiểu Người
coi trọng như thế nào về đạo đức, lối sống của mỗi người, đặc biệt đối với
những “mùa xuân” của đất nước.
Để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho bản thân, trước tiên mỗi sinh viên cần
nhận thức đầy đủ và đúng đắn về các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí
Minh như sau:
Thứ nhất, nhận thức đầy đủ về vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
đời sống xã hội. Tuy Người đã đi xa nhưng đã để lại cho dân tộc một tài sản vơ
giá đó là hệ thống tư tưởng của mình, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức. Xã hội
đang có những thay đổi, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp con người tự giáo dục, rèn
luyện mình, hướng mỗi người trở thành cách mạng vừa hồng vừa chuyên, góp
phần xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước phồn
thịnh.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ về vai trò, nhiệm vụ của sinh viên Việt Nam
với sự phát triển xã hội. Thế kỉ XXI là thế kỉ của văn minh trí tuệ, của sự phát
triển khoa học - kĩ thuật nên rất cần những con người trẻ tuổi, nhiệt huyết có

trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp thu cái mới nhanh và biến
đổi linh hoạt. Nhiệm vụ của mỗi sinh viên là nỗ lực học tập, tiếp thu kiến thức
mới, rèn luyện bản thân bằng những hoạt động cụ thể góp phần xây dựng đất
nước.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội là những mặt trái của
nó: những trào lưu tư tưởng, kinh tế thị trường, văn hóa ngoại lai… ảnh hưởng
khơng nhỏ đến tâm tư, tình cảm, trách nhiệm và đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ
hiện nay. Việc quán triệt tinh thần học tập và rèn luyện theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là việc làm rất cấp thiết, có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, đáp ứng
được yêu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Thực
tế, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, thế hệ sinh viên đã và đang vận dụng tốt tư

21


tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào q trình rèn luyện đạo đức của mình, cụ thể
là:


Trong cơng tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường sinh viên:

Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và học
theo tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, “nói đi đơi
với làm”. Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân
làm theo lời Bác dạy. Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần
trách nhiệm, tính trung thực, ln “nói đi đơi với làm” để cho những người khác
noi theo. Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt"
với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập
tốt.

Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều người xung quanh mình có nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về vai trị, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh
thần trách nhiệm, trung thực, “nói đi đơi với làm”; chỉ rõ tác hại của những hành
vi vô trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà
làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội. Chú ý phát hiện, tuyên dương,
nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên hoặc các cơ sở Đồn, Hội
có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành theo tư tưởng,
tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm.


Mỗi sinh viên đều xác định rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ

quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp chung của đất nước.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta khơng một phút
nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế
giới". Nhiệm vụ của thanh niên khơng phải là hỏi nước nhà đã cho mình những
gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu
22


chừng nào?". Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận
nhiệm vụ và có trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để
hồn thành nhiệm vụ khơng tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay
người khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình
khơng hồn thành nhiệm vụ, khơng đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
Nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc
và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và q báu, là phẩm giá cần thiết

của mỗi người.


Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung

thực, trách nhiệm, trước hết phải nói đi đơi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến
về tình cảm và nhân cách:
Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Phải
tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa
khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt
tích cực
Sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình, thật sự
trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn bè, đồng
chí, với Tổ quốc và nhân dân. Tự khắc phục cho được tình trạng thiếu trung
thực, dối mình, dối người, dối Đảng, dối dân. Biết chống lại thói ích kỷ, tính
tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vơ cảm,"đục nước béo cị" khi người
khác gặp hoạn nạn. Ln đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi
hộ, bằng giả, mua bán tri thức, chảy máu chất xám,…
Đã trung thực với chính mình thì khơng bao giờ từ bỏ trách nhiệm của
mình. Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội. Phần lớn sinh viên Việt
Nam luôn tin tưởng và đồng thuận với đường lối chính trị của Đảng, chấp hành
chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức học tập, rèn luyện và lao động sản
xuất. Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí
23


vươn lên, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ thanh
niên lớp trước, trở thành tấm gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo. Ở

nhiều cuộc thi trí tuệ thế giới, học sinh, sinh viên nước ta ln đạt giải cao. Cùng
với đó là những tấm gương điển hình tiên tiến, xung kích đi đầu trong học tập và
công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng
định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ; là kết quả và minh chứng sinh
động cho quá trình bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng kế cận của Đảng và
Nhà nước.
Ngoài ra, mỗi người sinh viên cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn
những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sơng, Tổ quốc Việt Nam
độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự
hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi
người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân, sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi
ích đất nước.
Trung với nước hiếu với dân ngày nay là tôn trọng, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, kính già yêu trẻ, có ý chí vươn lên vượt khó, vượt qua nghèo
nàn, lạc hậu; tham gia các phong trào góp phần xây dựng đất nước. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng thế hệ trẻ Việt Nam luôn xứng đáng
với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng xung kích
trong sự nghiệp cách mạng. Theo suốt chiều dài lịch sử, nhiều tấm gương, điển
hình tiên tiến trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác đã thuộc về tuổi trẻ
Việt Nam. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển đất nước hiện nay,
thanh niên vẫn khẳng định là lực lượng hăng hái xung kích, đi đầu trong thực
hiện các chương trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, nổi bật là hai phong trào
lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” được tiến hành cụ thể ở bốn
chương trình hành động “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”,
“Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng
24



trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Cơng tác xã hội, bảo vệ môi trường”... đã thu
hút hàng triệu thanh niên tham gia, chủ động sáng tạo, cống hiến cho Tổ quốc.
Bên cạnh đó, dân tộc ta có truyền thống “lá lành đùm lá rách”, đó là
truyền thống đạo đức cao cả của toàn dân tộc. Sinh viên đã phát huy truyền
thống này qua việc yêu thương, giúp đỡ bạn bè trong học tập. Một người giỏi
giúp một người yếu sẽ được hai người giỏi, hai người giỏi giúp hai người nữa
được bốn người giỏi, cứ như vậy mọi người trong lớp sẽ đều giỏi lên. Sinh viên
giỏi thì cả trường sẽ giỏi, đất nước sẽ giàu mạnh hơn. Sinh viên ln đặt mình
trong tập thể, tơn trọng ngun tắc, pháp luật, kỷ cương, biết gần dân, học dân,
có trách nhiệm với dân, nghiêm khắc với chính mình.
Sinh viên ngày nay cũng đã phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện
tồn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế bằng các hoạt động trao đổi
học tập, du nhập các tinh hoa văn hóa – xã hội quốc tế để nâng cấp xã hội nước
nhà,... Nâng cao tinh thần độc lập dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự
ti, phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư
bản.
Sinh viên Việt Nam vẫn đang quyết tâm học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách của Hồ Chí Minh, thi đua học tập, rèn luyện, vì ngày mai lập
nghiệp, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quốc
năm châu như Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Tuy nhiên vẫn cịn một bộ phận
sinh viên khơng có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền thống cách
mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc tế.
Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đồn, xa chính trị”, khơng có ý thức
vươn lên trong học tập và rèn luyện đạo đức, có những sinh viên giảm sút niềm
tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lơi kéo,
kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật, ảnh hưởng xấu đến
văn hóa đất nước. Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích
trước mắt, lợi ích cá nhân của mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập
25



×