Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

chiec thuyen ngoai xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.1 KB, 7 trang )

Nhà thơ A. Musset từng nói: “Hãy cố gắng đứng ở thời đại chúng ta cho đến khi
chúng ta không còn tồn tại nữa”. Bởi lẽ, cuộc sống vốn dĩ mn hình vạn trạng,
thế sự và nhân sinh ln đặt ra những câu hỏi dày vò lương tâm con người, cho
nên nó địi hỏi người cầm bút cũng phải có suy nghĩ và thái độ phù hợp. Với
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã thực sự đứng
vững trong thời đại của mình để nói cho hết bộn bề hiện thực. Đặc biệt, trong
truyện ngắn này nhà văn đã xây dựng thành cơng hình tượng người đàn bà hàng
chài trong câu chuyện của chị ở tòa án huyện, từ đó bộc lộ một tinh thần nhân
đạo sâu sắc.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Mĩ. Mang trên mình màu xanh áo lính, người nghệ sĩ – chiến sĩ ấy
đã để lại những tác phẩm xuất sắc mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, đưa sự nghiệp của nhà văn đạt đến thành côn rực rỡ trong nền văn
học cách mạng. Nhưng khi cuộc chiến đã qua đi, con người bước ra từ khói lửa
để trở lại với đời thường, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã bắt nhịp ngay
với thời đại, hướng tới cuộc sống đời tư, thế sự với phong cách tự sự - triết lí
đặc sắc. Phải chăng đó là minh chứng rõ nét nhất cho điều mà ông vẫn hằng tâm
niệm: “Nhà văn phải là một thứ côn trùng dùng cái râu của mình mà thăm dị
khơng khí thời đại”. Vì nhạy bén với những đổi thay của thời cuộc như thế, cho
nên truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thường thiên về khám phá hiện thực ở bề
sâu của nó, khám phá cả bề sâu tâm hồn con người để từ đó cất lên tiếng nói
đồng cảm và xót thương sâu sắc trước số phận con người trong cuộc mưu sinh
nhọc nhằn, trong hành trình gian nan tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân
cách. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là minh chứng cho quan
niệm sáng tác ấy của Nguyễn Minh Châu. Đây là một tác phẩm xuất sắc của
ông trong giai đoạn sáng tác thứ hai, được viết năm 1983 và in trong tập truyện
ngắn cùng tên, xuất bản năm 1987. “Chiếc thuyền ngoài xa” kể về hành trình đi
tìm một bức ảnh đẹp cho bộ lịch của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Sau gần một tuần
tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một “cảnh “đắt” trời cho”. Nhưng ngay
trong giây phút người nghệ sĩ ấy vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự tồn
thiện”, vừa bắt được “cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, thì cũng là lúc


Phùng phải chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình: người đàn bà bị chồng đánh
đập dã man. Chỉ trong ba hôm phải chứng kiến cảnh tượng ấy đến hai lần khiến
Phùng không thể chịu được, bản lĩnh và phẩm chất của một người chiến sĩ –
nghệ sĩ đã thôi thúc anh phải dùng vũ lực buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành
động độc ác. Cũng vì thế mà anh bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án
huyện. Tại đây, anh đã được nghe câu chuyện của người đàn bà hành chài, cũng


từ đó mà hình ảnh người đàn bà với số phận khổ đau nhưng lại mang những
phẩm chất cao đẹp hiện lên thật rõ nét.
Trong cuộc gặp gỡ ở tòa án huyện, nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên
trước hết với số phận khổ đau, bất hạnh. Số phận ấy dường như ám ảnh chị đến
mức nó được thể hiện ra ngay cả trong dáng vẻ: “Người đàn bà chỉ quen sống
giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong gian phịng đầy bàn ghế và giấy má liền
tìm đến một góc tường để ngồi”. Đẩu phải mời đến hai lần, chị mới “rón rén đến
ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ ấy, quả khiến người đọc
khơng khỏi có chút xót xa, thương cảm. Phải chăng đó là dáng vẻ của một
người ln mang mặc cảm tội lỗi, vì khơng muốn làm người khác khó chịu mà
phải thu mình? Hay đó là tư thế tự vệ bản năng của một con người đã quá nhiều
lần bị đối xử thơ bạo? Dù là gì đi chăng nữa, thì dáng ngồi ấy vẫn gợi lên vẻ tội
nghiệp, đáng thương. Thì ra, người phụ nữ ấy lại là nạn nhân của một cuộc sống
cùng quẫn, tối tăm vì nghèo đói. Hồn cảnh gia đình khiến chị phải ngậm ngùi:
“Giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tơi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Cả gia
đình chen chúc trên con thuyền chật hẹp như thế, lại phải “nuôi nấng đặng một
sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”, thử hỏi làm sao mà không cùng
quẫn, làm sao mà không cực khổ. Và sự thật quả nhiên như thế: “...trước kia vào
vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn
cây xương rồng luộc chấm muối”. Cái đói, cái nghèo đã khiến cuộc đời những
con người ấy rơi xuống vực sâu cùng quẫn, tối tăm, khơng lối thốt.
Nhưng tấn bi kịch lớn nhất trong cuộc đời người đàn bà hàng chài khơng đến từ

cuộc sống nghèo đói hay cuộc mưu sinh nhọc nhằn, mà là nạn bạo lực gia đình
mà chính chị là nạn nhân trực tiếp. Trận địn của lão chồng vũ phu cứ đều đặn
theo chu kì, ngày qua ngày tàn bạo trút xuống người đàn bà: “Ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Thậm chí cũng chẳng cần chờ đến ngày, đó là
những trận địn tùy hứng: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tơi ra đánh”.
Điều đó khiến cho Đẩu – vị chánh án của vùng biển phải buông lời kết tội: “Cả
nước khơng có một người chồng nào như hắn”. Nhưng có lẽ chừng ấy chẳng
thấm vào đâu với người đàn bà. Chị vẫn cắn răng chịu đựng. Duy chỉ có một
điều làm chị đau đớn nhất, đó là việc phải chứng kiến đứa con đang dần hình
thành một nhân cách lệch lạc vì phải sống quá lâu trong cảnh bạo lực. Nó đã thủ
sẵn một con dao găm để chống lại cha ruột của nó! Cịn gì đau đớn, cịn gì nhục
nhã hơn với người mẹ khốn khổ ấy. Trước kia, bi kịch của người phụ nữ trong
“Vợ chồng A Phủ”, hay “Vợ nhặt” đều do bọn thống trị dã man gây ra, chỉ có
Cách mạng mới đem đến cho họ tương lai tươi sáng. Nhưng “Chiếc thuyền
ngoài xa” được viết khi nước nhà đã độc lập, thống nhất được 8 năm, cớ sao bi


kịch của con người vẫn cịn, thậm chí cịn đau đớn, bế tắc hơn gấp bội? Phải
chăng đó cũng là “mối quan hồi thường trực” trong lịng người nghệ sĩ về số
phận con người. Cuộc kháng chiến trường kì dù lâu dài đến mấy, hi sinh đến
mấy nhưng chẳng phải cũng đã kết thúc rồi sao. Chỉ có cuộc đấu tranh với đói
nghèo, tăm tối để kiếm tìm hạnh phúc là vẫn còn triền miên dai dẳng, mà chừng
nào chưa thốt khỏi đói nghèo, chừng đó con người vẫn cịn phải sống với cái
xấu, cái ác. Cho nên, trước hiện thực của cuộc đời và số phận con người, người
nghệ sĩ càng không thể thờ ơ. Bởi lẽ: “Nghệ thuật mà khơng gắn liền với đời
sống thì nó chỉ là những bơng hoa ác mà thơi” (Nguyễn Huy Tưởng)
Vượt thốt khỏi bóng đêm của hiện thực, ở người đàn bà hàng chài vẫn ngời
sáng lên những vẻ đẹp tâm hồn đáng q. Trước hết, đó là tấm lịng bao dung,
vị tha và giàu đức hi sinh. Với người chồng vũ phu, thơ bạo, chị chẳng những
khơng hề ốn trách mà cịn nhận hết lỗi về mình. Có thể nào cầm lịng được

khơng khi nghe lời thú nhận của người đàn bà khốn khổ ấy: “Giá tơi đẻ ít đi”,
“cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Dường như chị mang nặng
mặc cảm rằng mình là kẻ làm nặng thêm cái gánh mưu sinh, khiến cả gia đình
rơi xuống vực sâu bế tắc, cùng quẫn như bây giờ. Thậm chí cịn hơn thế, chị cịn
cảm thơng, thấu hiểu cho chồng, nhìn nhận người chồng ở góc độ bản chất của
anh ta. Ở góc độ này, xem ra Phùng đã quá cứng nhắc, duy ý chí khi cho rằng
cái ác chỉ bắt nguồn từ phía địch: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy
khơng ?” Đáp lại cái suy nghĩ giản đơn kiểu thời chiến ấy, người đàn bà trả lời
rằng không. Hơn thế, anh ta cịn trốn lính, khơng chấp nhận cầm súng bắn vào
đồng bào mình để đổi lấy đồng tiền máu của giặc. Người như thế sao có thể gọi
là kẻ ác? Vậy có phải rượu chè be bét làm gã đổ đốn? Cũng khơng, thậm chí
người vợ cịn ao ước: “Giá mà lão uống rượu...thì tơi cịn đỡ khổ”. Chỉ cịn một
ngun nhân nữa, là bản tính của lão. Theo lời người vợ thì: “Lão chồng tơi khi
ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, khơng bao giờ đánh đập
tơi”. Thậm chí giờ đây khi đánh vợ, lão cũng khơng hả hê mà cịn “rên rỉ đau
đớn”. Như vậy thì cả ba nguyên nhân, chẳng cái nào là phải. Mà nguyên nhân
thực sự ở đây, chính là những bế tắc, cùng quẫn trong đời sống, trong cuộc mưu
sinh nhọc nhằn đã khiến lão khổ sở, u uất. Thuyền chật, con đông, lại thêm gánh
nặng miếng cơm manh áo làm cuộc sống cứ thế chìm trong tăm tối triền miên,
tất cả như vượt quá sức chịu đựng của con người. Khơng uống rượu như đàn
ơng thuyền khác, thì lão chỉ còn một cách duy nhất để giải tỏa: đánh vợ. Chính
người đàn bà cũng xác nhận điều đó: “Bất cứ khi nào thấy khổ quá là lão xách
tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu”. Như vậy, nói cho đúng
thì lão chồng cũng là một nạn nhân khốn khổ của hồn cảnh. Vì thế mà cách chị


nhẫn nhục chịu đựng đòn roi, cũng là cách mà chị chia sẻ, làm dịu đi nỗi u uất
trong lòng chồng. Một con người bao dung như thế, vị tha như thế, thì dù việc
chị làm có vơ lí cách mấy cũng khơng thể khiến ta cầm lịng!
Với chồng là vậy, còn với đứa con, điều cảm động nhất ở người đàn bà chính là

tình mẫu tử. Dường như trong thẳm sâu tâm thức của chị, tình mẫu tử như một
thiên tính đương nhiên của người phụ nữ: “Ơng trời sinh ra người đàn bà là để
đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”.
Người mẹ ấy đã coi cái khổ là đương nhiên, cũng có nghĩa là chị chấp nhận hi
sinh hạnh phúc của mình vì con cái. Cho nên chị ý thức được rằng: “Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ khơng thể sống cho mình như trên đất
được!” Chính tình mẫu tử đã làm nên đức hi sinh ở người đàn bà hàng chài,
khiến chị phải cắn răng chịu đựng đòn roi tàn nhẫn, cốt làm sao giữ lại người
cha cho con mình, để cịn có người chèo chống mỗi lúc phong ba, gánh vác
công cuộc mưu sinh khó nhọc. Ra thế, hỏi làm sao người phụ nữ ấy cứ bám riết
lấy kẻ đã hành hạ mình. Chuyện tưởng chừng như nghịch lí, nhưng ẩn sau đó là
biết bao nước mắt, có thể là máu nữa chăng! Cũng chính tình mẫu tử thiêng
liêng ấy lại đẩy chị đến nỗi đau, nỗi lo sợ tột cùng khi chứng kiến đứa con đang
chịu những tổn thương tinh thần sâu sắc. Khi chịu những địn roi tàn bạo, chị
khơng rơi một giọt nước mắt, nhưng khi đối diện với đứa con thì nỗi đau chẳng
thể kìm lại mà tn ra thành dịng trên khn mặt. Chị “vừa đau đớn, vừa vô
cùng xấu hổ, nhục nhã” khi để thằng Phác phải thấy cảnh bố đánh mẹ. Chính
tuổi thơ bất hạnh, phải sống triền miên trong cảnh tối tăm và bạo lực đã khiến
đứa bé dần hình thành một nhân cách lệch lạc. Nó đánh bố để cứu mẹ, và than
ơi, nó đã định ra tay với cha ruột bằng một con dao găm! Rồi tương lai của nó
sẽ đi về đâu, với một xuất phát điểm tối tăm như thế. Đó chính là điều khiến
người đàn bà vừa đau đớn vừa nhục nhã. Chứng kiến sự thiệt thòi, bất hạnh của
đứa con, có người mẹ nào có thể cầm lịng. Trong truyện ngắn “Trẻ con khơng
được ăn thịt chó”, Nam Cao từng viết: “Người đàn bà, nghĩ đến bộ mặt tiu
nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt ra lúc ấy”. Chỉ cần con “tiu nghỉu” một chút
thôi đã vậy, thử hỏi ở đây, người đàn bà còn đau đớn đến mức nào. Nhưng
khơng chỉ có nỗi đau, đứa trẻ còn là niềm vui hiếm hoi của người mẹ khốn khổ
ấy. Kì lạ, một câu nói chân chất, dung dị thế thơi mà sao cũng khiến ta khơng
thể cầm lịng: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”.
Giây phút ấy gương mặt chị “chợt ửng sáng lên như một nụ cười”, mà có lẽ đó

cũng là độn lực để chị sống tiếp. Tơi cứ tự hỏi mãi, rằng cả cuộc đời người phụ
nữ, bao dung, thấu hiểu cho chồng, nụ cười hay nước mắt lại cũng vì con, có
bao giờ chị nghĩ cho mình chưa? Có phải vì thế mà đức hi sinh, lịng bao dung,


vị tha của người đàn bà lại càng ngời sáng, mà càng ngời sáng bao nhiêu, ta
càng nhói lịng bấy nhiêu.
Có lẽ, vì bao năm lăn lộn mưu sinh như thế mà chị đã trở thành một người phụ
nữ từng trải, thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Điều đó được thể hiện rõ ngay từ sự thay
đổi trong cách xưng hô với Phùng và Đẩu. Ban đầu, chị khúm núm, sợ sệt, chỉ
dám xưng “con”: “Con lạy quý tòa”. Nhưng rồi chị nhanh chóng thay đổi, xưng
“chị” và gọi Phùng và Đẩu là “các chú”: “Chị cám ơn các chú!” Nhưng “người
đàn bà lộ ra vẻ sắc sảo chỉ đến thế”, chỉ một câu đó thơi, bởi chị khơng hề muốn
lên mặt hay dạy dỗ ai. Đó là cách để chị rũ bỏ vẻ khúm núm, sợ sệt, để thoải
mái chia sẻ câu chuyện của mình. Bằng chứng là sau đó, cách xưng hơ chuyển
sang “tơi” – “chú”. Nếu theo Các Mác: “Ngôn ngữ là lớp vỏ vật chất của tư
duy”, thì sự thay đổi cách xưng hơ ở người đàn bà chính là sự thay đổi tâm thế từ bị động, yếu ớt đến chủ động, mạnh mẽ. Chị đã chỉ rõ cái sự thiếu thực tế ở
Phùng và Đẩu: “Lịng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm
ăn...cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó
nhọc...”. Rồi chị nhẹ nhàng phản bác suy nghĩ của hai người họ: “Là bởi vì các
chú khơng phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
của người đàn bà trên một chiếc thuyền khơng có đàn ơng”. Vai trị của một
người đàn ông trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn trên biển là như thế nào, chị hiểu
rõ hơn ai hết. Con thuyền “cần phải có người đàn ơng để chèo chống khi phong
ba”, người đàn bà cần một người chồng “để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một
sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”, còn những đứa con đương nhiên lại
càng cần một người cha để cho chúng một gia đình trọn vẹn. Có thể thấy, người
đàn bà hàng chài đã giải thích lí do từ chối li hơn bằng những lí lẽ hết sức thuyết
phục. Bởi lẽ, lí lẽ ấy không đến từ sách vở, giáo điều khô cứng mà từ chính sự
từng trải của người đàn bà trong cuộc mưu sinh khó nhọc. Phải là người trong

cuộc, trải bao tủi cực, đắng cay mới có thể sâu sắc đến thế. Nó khiến người đọc
vừa khâm phục, vừa cảm thương. Và sự sâu sắc, từng trải của người đàn bà
cũng dạy cho Phùng và Đẩu nhiều điều. Giải pháp li hôn mà Đẩu đưa ra xuất
phát từ mong muốn tốt đẹp là giải thoát cho người đàn bà khỏi bi kịch, nhưng
nó lại là giải pháp phi thực tế, bởi nó q giáo điều, cứng nhắc. Bởi vai trị của
người chồng trong cuộc mưu sinh quan trọng ra sao, người đàn bà cũng đã nói
rồi. Phùng và Đẩu học nhiều hiểu rộng, nhưng lại thiếu đi sự từng trải, do vậy
mà nông nổi, do vậy mà ngây thơ. Cho nên, người đàn bà cũng đã cho họ một
bài học, rằng phải có một cái nhìn khách quan, đa chiều và sâu sắc trước những
vấn đề của đời sống.


Có thể thấy, qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện,
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành cơng hình tượng người phụ nữ với số
phận bi thảm nhưng ngời lên những phẩm chất tâm hồn đáng quý. Qua đó,
truyện cũng mang đến cho độc giả một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận
cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản
chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Để làm được điều đó phải kể đến
những đặc sắc vè nghệ thuật của truyện ngắn này. Nhà văn đã xây dựng thành
cơng tình huống truyện độc đáo, thuộc dạng tình huống nhận thức, đem đến
những khám phá, phát hiện mới mẻ về hiện thực đời sống. Bên cạnh đó,
Nguyễn Minh Châu cũng đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sâu
sắc, vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa hàm chứa những triết lí
nhân sinh. Cùng với đó là nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn, từ giọng điệu,
ngôi kể cho đến hình thức kể chuyện, điểm nhìn trần thuật. Tất cả đã góp phần
làm nên thành cơng cho truyện ngắn này.
Nguyễn Minh Châu vẫn luôn hằng tâm niệm: “Văn học và cuộc sống là hai
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là con người”. Và truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngồi xa” chính là minh chứng tiêu biểu cho quan niệm ấy, khi
nó hàm chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị nhân đạo của tác phẩm

được thể hiện trước hết ở niềm xót thương với số phận của những con người
nghèo khổ miền biển, phải lăn lôn trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn mà cuộc đời
cứ mãi cùng quẫn, tối tăm vì nghèo đói. Từ đó, nhà văn bộc lộ sự cảm thông,
thấu hiểu với con người. Người nghệ sĩ cảm thông cho số phận của người đàn
bà bị chồng bạo hành, muốn cất lên tiếng nói bênh vực chị. Bên cạnh đó là sự
đồng cảm với cả người chồng vũ phu – một nạn nhân của hoàn cảnh, đáng trách
nhưng cũng rất đáng thương. Nhưng điều đáng quý nhất ở tác phẩm đó là nhà
văn đã phát hiện, khẳng định và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp mà ông hằng
xem như “những hạt ngọc ẩn giấu ở bề sâu tâm hồn con người”. Sự đối lập
ngoài – trong của người đàn bà hàng chài đã làm nổi bật điều đó, khi ẩn sau một
người đàn bà lam lũ, thất học, với những hành động phi lí, khó hiểu lại là một
người phụ nữ bao dung, vị tha, sâu sắc, từng trải. Từ những điều ấy, nhà văn cất
lên một câu hỏi đau đáu với thời đại, rằng làm sao để con người được sống đúng
nghĩa là người, làm sao để chiến thắng cái xấu, cái ác trong cuộc mưu sinh nhọc
nhằn để vươn tới hạnh phúc và hồn thiện nhân cách,... Đó là những câu hỏi
mang ý nghĩa nhân sinh, vẫn còn đau đáu trong mỗi chúng ta đến tận hôm nay.
Và cuối cùng, không thể phủ nhận rằng “Chiếc thuyền ngoài xa” đã để lại trong
tôi và những bạn đọc yêu văn chương những bài học đắt giá. Cái giây phút “một
cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”, cũng


là lúc tôi vỡ ra nhiều điều. “Cuộc đời đa diện, con người đa đoan”, cho nên khi
nhìn nhận những vấn đề nhân sinh, ta cũng phải có cái nhìn đa chiều và sâu sắc,
tuyệt đối không thể phiến diện, chủ quan. Cùng với đó là bài học về sự cảm
thơng với con người. Con người ln mang trong mình những nỗi đau khơng
phải ai cũng có thể hiểu được, cũng khơng có ai “chính diện” hay “phản diện”
hồn tồn, mà ai cũng có cái đáng trách, có cái đáng thương. Cho nên, cuộc đời
có khi chẳng cần gì nhiều hơn hai chữ “cảm thông”. Gần 40 năm đã trôi qua kể
từ khi “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời, cuộc sống đã có nhiều đổi thay tích cực,
nhưng những cảnh đời bất hạnh như người đàn bà hàng chài không phải là

khơng cịn. Cuộc mưu sinh nhọc nhằn đã bao giờ bng tha con người, mà
chừng nào chưa thốt khỏi đói nghèo, tăm tối, chừng đó con người vẫn phải
sống với cái xấu, cái ác, nói chi đến kiếm tìm hạnh phúc thực sự. Để đem lại đổi
thay thực sự cho những kiếp đời tăm tối, tôi cho rằng bên cạnh sự chung tay của
mỗi người, cần phải có cả sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền, dĩ nhiên
khơng phải vào cuộc với lòng tốt nhưng lại chủ quan, cứng nhắc như chánh án
Đẩu.
“Nghệ thuật nằm ngoài quy luật băng hoại, chỉ mình nó khơng thừa nhận cái
chết” ( Schedrin ). Để làm được điều đó, người nghệ sĩ phải có cái nhìn sâu sắc,
đa chiều về hiện thực, toàn tâm toàn ý hướng đến con người với một tinh thần
nhân đạo cao cả. Và như thế, tôi tin rằng “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tuyệt
tác trường tồn. Tác phẩm ấy, cùng tên tuổi Nguyễn Minh Châu – “người mở
đường tinh anh và tài năng” sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn không phai trong
nền văn học nước nhà.
Nội dung: Vanh Văn Vở



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×