LỜI MỞ ĐẦU
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là loại hình tổ chức kinh doanh
có vai trò vô cùng quan trọng. Với sự hiện diện của ngân hàng, chúng ta có
thể nhận được các khoản vay để thanh toán cho việc mua ô tô mới hoặc để
trang trải chi phí cho việc học tập, kinh doanh. Bên cạnh đó, ngân hàng
cũng là một địa chỉ hữu ích nếu chúng ta mong muốn nhận được những lời
khuyên về việc đầu tư các khoản tiết kiệm hay lưu trữ và bảo quản các giấy
tờ có giá. Hệ thống ngân hàng với hàng ngàn chi nhánh hoạt động trên toàn
thế giới có thể tác động đến sự phát triển của tất cả mọi lĩnh vực và của
toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Vậy ngân hàng là gì? Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi
và cho vay tiền. Thuật ngữ các ngân hàng (banks) bao gồm những hãng
như các NHTM, các công ty tiết kiệm và cho vay tiền, các Ngân hàng tiết
kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng (tr. 32, Tiền tệ, ngân hàng & thị
trường tài chính- Frederic S.Mishkin ). Công nghiệp ngân hàng gân đây
mới được nói nhiều trên báo chí. Những vụ vỡ nợ của các NHTM vẫn đang
ở tỉ lệ cao nhất từ khi có cuộc Đại suy thoái và công nghiệp tiết kiệm và
cho vay đã đòi hỏi một sự bảo lãnh to lớn. Mặc dù, các ngân hàng đã được
tự chủ tài chính, chủ động huy động vốn và cho vay theo khuôn khổ pháp
luật nhưng vấn đề trọng yếu là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế, đáp ứng một cách nhanh chóng kịp thời tình trạng thừa thiếu
vốn trong nền kinh tế với chi phí hợp lý. Như vậy, có một câu hỏi đặt ra là
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các doanh
nghiệp) hiện nay ra sao? Chắc chắn mối quan hệ đó sẽ ngày càng phải gắn
bó, tương tác lẫn nhau. Vì DN không trả được nợ đến hạn, doanh thu ngân
hàng sẽ giảm, ảnh hưởng đến việc cho DN khác vay vốn, ảnh hưởng đến sự
tồn tại và pháp triển của ngân hàng. Để tránh được rủi ro tín dụng này,
trong quá trình thẩm định cho vay, ngân hàng cần đặc biệt chú trọng khâu
1
phân tích tài chính đối với DN vay vốn tại ngân hàng. Đó cũng chính là lý
do em chọn đề tài: “Thực trạng công tác phân tích tài chính các doanh
nghiệp phục vụ cho hoạt động tín dụng của SGDI-NHCT VN”, nơi em
thực tập.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng và phân
tích tài chính các doanh nghiệp phục vụ công tác tín dụng.
Chương 2: Thực trạng công tác PTTC các doanh nghiệp phục vụ
cho hoạt động tín dụng của SGDI- NHCT VN.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng phân
tích tài chính DN phục cụ cho hoạt động tín dụng tại SGDI- NHCT VN.
Với kiến thức còn hạn chế về nội dung, nên chuyên đề không tránh
khỏi những khiếm khuyết, em mong nhận được những ý kiến đóng góp của
thầy cô để chuyên đề được bổ sung, hoàn chỉnh.
Hà nội, năm 2006.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH PHỤC VỤ
CÔNG TÁC TÍN DỤNG
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng và đặc trưng của quan hệ tín
dụng
Trước hết, để hiểu được tín dụng Ngân hàng ta cần phải nắm rõ khái
niệm tín dụng. Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Tín dụng
là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được
hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa quan hệ
tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng
2
tạm thời một lượng giá trị ( dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật) từ người
sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu ( tr. 15,giáo trình Lý thuyết tiền
tệ Ngân hàng,NXB Thống kê, chủ biên Tô Kim Ngọc ). Quan hệ tín dụng
ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn
vốn để giải quyết hiện tượng thừa, thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các
chủ thể kinh tế trong xã hội. Các quan hệ tín dụng được tổ chức thành hệ
thống và có mối quan hệ hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo hiệu quả của sự dẫn
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Do đó, một quan hệ tín dụng phải thỏa mãn những đặc trưng sau:
Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Và
thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng
lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà
không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
Thứ hai, là tính hoàn trả. Nói cách khác, nó là giá trả cho sự hy sinh
quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu vì thế nó phải đủ hấp dẫn để
người sở hữu sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi
vay và người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập
quan hệ tín dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn dễ được hoàn trả đầy
đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin vào khả năng phát huy hiệu quả của
vốn vay. Sự gặp gỡ này sẽ là điều kiện hình thành nên quan hệ tín dụng.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có thể hiểu là việc ngân hàng tin tưởng
nhường quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một khoảng thời gian
nhất định và kết thúc thời gian đó ngân hàng sẽ thu về cả vốn lẫn lãi. Chính
nhờ hoạt động này mà ngân hàng trang trải được mọi chi phí phát sinh và là
nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. Tuy nhiên, vì lợi nhuận tỉ lệ thuận với
rủi ro nên nó cũng đồng nghĩa với mức lợi nhuận thu được càng lớn thì rủi
3
ro ngân hàng gặp phải sẽ càng cao. Và để hạn chế rủi ro tín dụng này thì
trước khi đặt vấn đề cho vay, ngân hàng cần phải tiến hành công tác phân
tích tài chính các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Làm tốt khâu này sẽ
đảm bảo sự an toàn, ổn định và phát triển quy mô của hoạt động cho vay
của ngân hàng.
1.1.2. Ý nghĩa của công tác phân tích tài chính các DN đối với hoạt
động tín dụng của Ngân hàng
Có thể thấy tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng
tới tình hình tài chính của DN. Ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu lại
có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Do đó, trước khi lập kế hoạch tài chính doanh nghiệp, nhất thiết cần phải
nghiên cứu báo cáo tài chính của kỳ thực hiện. Các báo cáo tài chính được
soạn thảo theo định kỳ phản ánh một cách tổng hợp và toàn diện về tình
hình tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh doanh... bằng các chỉ tiêu giá trị,
nhằm mục đích thông tin về kết quả và tình hình tài chính của DN cho
người lãnh đạo và bộ phận tài chính DN thấy được thực trạng tài chính của
đơn vị mình, chuẩn bị căn cứ lập kế hoạch cho kỳ tương lai.Nhưng tất cả
các số liệu của kỳ thực hiện là những tài liệu có tính chất lịch sử và chưa
thể hiện hết những nội dung mà những người quan tâm đòi hỏi. Vì vậy
người ta phải dùng kỹ thuật phân tích để thuyết minh các mối quan hệ chủ
yếu, giúp cho các nhà kế hoạch dự báo và đưa ra các quyết định tài chính
cho tương lai, bằng cách so sánh, đánh giá xem xét xu hướng dựa trên các
thông tin có tính chất lịch sử đó.
Việc phân tích tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều
người khác nhau như các chủ Ngân hàng, các nhà quản trị doanh nghiệp,
các nhà đầu tư, các nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ... Vì thế, họ có
thể tập trung vào việc xem xét những khía cạnh khác nhau của tình hình tài
chính doanh nghiệp.Đặc biệt đối với các chủ Ngân hàng và các nhà tín
4
dụng: mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh
nghiệp. Vì vậy, một mặt họ chú ý đến số lượng tiền và các tài sản có thể
chuyển đổi nhanh thành tiền để so sánh với số nợ ngắn hạn để biết khả
năng thanh toán của doanh nghiệp. Mặt khác, các họ còn chú ý khả năng
sinh lời từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo hoàn trả các
khoản cho vay dài hạn, chú ý đến việc đảm bảo cơ cấu tài chính an toàn
trong doanh nghiệp để đề phòng rủi ro. Ở đây ta thấy có một quan hệ đối
ứng, thông qua phân tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng còn có thể tư
vấn kịp thời cho các doanh nghiệp về quyết định tài chính nhằm tháo gỡ
khó khăn, ổn định và phát triển doanh nghiệp; và đến lượt nó; phân tích,
đánh giá tài chính doanh nghiệp trong Ngân hàng góp phần kiểm tra lại tính
trung thực của kiểm tra tài chính nội bộ. Như vậy, phân tích tài chính
doanh nghiệp có thể đánh giá được rủi ro của doanh nghiệp, đặc biệt là rủi
ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, và quyết định: có nên cho
doanh nghiệp vay vốn không? mức độ rủi ro nếu Ngân hàng gánh chịu khi
chấp nhận cho doanh nghiệp vay? Và lý giải được mục đích vay vốn của
doanh nghiệp liệu có thực sự trung thực không? Phân tích tài chính không
những giúp Ngân hàng đưa ra các quyết định đúng đắn khi tiến hành xét
duyệt các khoản cho vay mà còn trong cả quá trình cho vay. Bởi, trong thời
hạn cho vay, doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ cung cấp cho Ngân hàng các
báo cáo tài chính, các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Qua đó, Ngân hàng có thể phát hiện những dấu hiệu xấu về tình hình tài
chính của doanh nghiệp đó và thu hồi các khoản vay trước hạn. Hơn nữa,
công tác phân tích tài chính các doanh nghiệp còn giúp Ngân hàng xây
dựng kế hoạch cho vay, trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh
và tài chính mỗi doanh nghiệp, Ngân hàng có thể đánh giá nhu cầu vốn
ngắn hạn, trung và dài hạn. Từ đó, Ngân hàng sẽ có chiến lược huy động
vốn phù hợp, tránh lãng phí và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, Ngân hàng có
thể biết được xu hướng phát triển của từng giai đoạn, từng lĩnh vực kinh tế,
5
lập kế hoạch cung cấp tín dụng hướng vào lĩnh vực có tiềm năng phát triển
mạnh trong tương lai. Xây dựng kế hoạch tín dụng phù hợp sẽ giúp Ngân
hàng nâng cao hiệu quả cho vay, đem lại lợi nhuận cao cũng như góp phần
thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng. Và đối với cán
bộ tín dụng thì phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu không thể
thiếu trong quy trình thẩm định cho vay của Ngân hàng.
1.2. NỘI DUNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VAY VỐN
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc
tổ chức huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh
doanh.Phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ (tr.139, giáo trình Phân
tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống kê Hà nội 2005, chủ biên
NGƯT,TS . Lê Thị Xuân ). Thông qua phân tích tình hình tài chính, người
sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như
những rủi ro hay triển vọng của doanh nghiệp.
1.2.2. Tài liệu phân tích tình hình tài chính DN.
a) Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh toàn bộ
giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của DN tại một
thời điểm nhất định.
Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm 2 phần:
- Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của DN,
bao gồm: tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (loại A) và tài sản
6
cố định, đầu tư dài hạn (loại B). Mỗi loại đó lại bao gồm nhiều
chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với
yêu cầu của công tác quản lý trong từng giai đoạn. Xét về mặt
kinh tế, các chỉ tiêu ở phần này phản ánh số tài sản hiện có của
DN ở thời điểm lập báo cáo; còn xét về mặt pháp lý, nó phản
ánh vốn thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý lâu dài của
DN.
- Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành nên các tài sản,
bao gồm: Nợ phải trả (loại A) và nguồn vốn chủ sở hữu (loại
B). Mỗi loại A và B lại bao gồm các chỉ tiêu khác nhau và cũng
được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu của công
tác quản lý. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn
vốn phản ánh các nguồn hình thành nên tài sản có của DN; còn
xét về phương diện pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách
nhiệm pháp lý của DN đối với các đối tượng đầu tư vốn(nhà
nước, ngân hàng, cổ đông), cũng như với khách hàng thông qua
công nợ phải trả.
Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm như sau:
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình thái
giá trị. Cho nên, ta có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
tại một thời điểm. Từ đó, cho phép ta đánh giá khái quát tình hình tài chính
qua các chỉ tiêu.
+) Bảng cân đối kế toán có kết cấu 2 phần, thực chất là phản ánh 2 mặt
của một lượng tài sản, cho nên tổng tài sản luôn luôn bằng nguồn vốn, tức
là:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hoặc: Vốn chủ sở hữu = Tài sản – Nợ phải trả
7
Như vậy, thông qua bảng cân đối kế toán, ta có thể biết được toàn bộ
tài sản hiện có của doanh nghiệp, hình thái vật chất, cơ cấu của tài sản,
nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn. Do đó, bảng cân đối kế toán là một tài liệu
quan trọng để nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả
kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp.
b) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo phản ánh toàn
bộ kết quả hoạt động kinh doanh của trong một thời kỳ nhất định và những
nghĩa vụ mà DN phải thực hiện với Nhà nước. Số liệu trên báo cáo này
cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, về việc sử
dụng các tiềm năng vốn, lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của doanh
nghiệp, và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay
gây ra tình trạng lỗ vốn. Đây là một bản báo cáo tài chính được những nhà
lập kế hoạch rất quan tâm, vì nó cung cấp các số liệu về hoạt động kinh
doanh mà doanh nghiệp đang thực hiện trong kỳ. Nó còn được coi như một
bản hướng dẫn để dự báo xem doanh nghiệp sẽ hoạt động ra sao trong
tương lai.
Nội dung của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi theo
từng thời kỳ tùy theo yêu cầu quản lý, nhưng phải phản ánh được bốn nội
dung cơ bản sau đây: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp, lợi nhuận và được xác định qua đẳng thức sau
đây:
LN hoạt
động KD
=
Doanh thu
thuần
-
Giá vốn
hàng bán
-
Chi phí
bán hàng
-
Chi phí quản
lý DN
c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kì báo cáo của DN.
8
- Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ: báo cáo các khoản thu, chi
tiền được phân loại theo các hoạt động.
- Ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
+) Xác định lượng tiền do các hoạt động kinh doanh mang lại trong kì và
dự đoán các dòng tiền trong tương lai.
+) Đánh giá khả năng thanh toán nợ vay và khả năng trả lãi cổ phần bằng
tiền.
+) Chỉ ra mối liên hệ giữa lãi, lỗ ròng và việc thay đổi tiền của DN.
+) Là công cụ lập kế hoạch.
- Cấu trúc của báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Theo chế độ kế toán Việt
Nam qui định một báo cáo lưu chuyển tiền tệ được chia làm 3 phần:
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN.
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động đầu tư của DN.
+) Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính.
d)Thuyết minh báo cáo tài chính
- Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống
báo cáo tài chính của DN, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của DN trong
kì báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi
tiết được.
- Nội dung của báo cáo:
+) Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của DN.
+) Nội dung một số chế độ kế toán được DN lựa chọn để áp dụng
9
+) Tình hình và lí do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn
vốn đối tượng quan trọng.
+) Phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của DN.
1.2.3. Các phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ
và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồn dịch chuyển và biến đổi tài chính,
các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính
DN. Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính DN nhưng trên
thực tế, người ta sử dụng chủ yếu hai phương pháp là lập báo cáo dạng so
sánh và phân tích tỷ số tài chính
Phương pháp lập báo cáo tài chính dạng so sánh: có 3 dạng như sau:
+) Lập báo cáo khuynh hướng (so sánh ngang)
+) Lập báo cáo so sánh dọc
+) Lập báo cáo thay đổi hàng năm
Việc sử dụng phương pháp này nhằm mục đích:
+) Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch mà DN đặt ra bằng
các so sánh giữa trị số của các chỉ tiêu tài chính kỳ thực tế với kỳ kế hoạch.
+) Đánh giá tốc độ, xu hướng pháp triển của hiện tượng và kết quả kinh
tế thông qua việc so sánh giữa kết quả kỳ này với kỳ trước.
+) Đánh giá mức độ tiên tiến hay lạc hậu của đơn vị bằng cách so sánh
giữa kết quả của bộ phận hay của đơn vị thành viên với hệ số trung bình
của ngành hoặc so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị
khác có cùng qui mô hoạt động, trong cùng lĩnh vực hoạt động.
Phương pháp phân tích tỷ số tài chính:
- Tỷ số phản ánh mối quan hệ tỉ lệ giữa chỉ tiêu này và chỉ tiêu khác.
10
- Tỷ số tài chính phản ánh mối quan hệ tỉ lệ giữa các chỉ tiêu tài chính
với nhau.
- Các tỷ số tài chính có ý nghĩa quan trọng là khái quát một cách chung
nhất tình hình tài chính trên tất cả các mặt trong một thời kỳ nhất định.
- Lưu ý: Mặc dù mỗi một tỷ số đều có ý nghĩa nhất định tuy nhiên
những kết quả thu cần được tổng kết,phân tích, nhìn nhận trên nhiều
phương diện, trong mối quan hệ với nhau mới cho được những nhận xét
chính xác.
1.2.4. Nội dung và các chỉ tiêu:
1.2.4.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính qua các cân bằng tài
chính trên bảng CĐKT
(1) Các cân bằng tài chính trên bảng CĐKT
a) Vốn lưu động thường xuyên
Vốn lưu động thường xuyên là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài
hạn với TSCĐ và đầu tư dài hạn. Nói cách khác, nó là một phần nguồn vốn
ổn định dùng vào việc tài trợ cho tài sản lưu động.
Có thể chia bảng cân đối thành các nhóm:
Tài sản lưu động và
đầu tư ngắn hạn
Tài sản cố định và
đầu tư dài hạn
Nguồn vốn ngắn hạn
Nguồn vốn dài hạn
- Nợ dài hạn
- Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn lưu động thường xuyên có thể xác định theo 2 cách sau:
Cách 1: Vốn LĐTX= Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ và ĐTDH
Cách 2:
Vốn LĐTX =
Tài sản lưu động và
đầu tư ngắn hạn
- Nguồn vốn ngắn hạn
11
Vốn lưu động thường xuyên lớn hơn 0 chứng tỏ DN có một phần
nguồn vốn dài hạn đầu tư cho TSLĐ. Điều này đem lại cho DN một nguồn
vốn tài trợ ổn định, một dấu hiệu an toàn, một quyền độc lập nhất định.
Nếu nguồn vốn dài hạn nhỏ hơn tài sản cố định và đầu tư dài hạn, lúc này
vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn 0, chứng tỏ TSCĐ và đầu tư dài hạn
được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn, DN kinh doanh với cơ cấu vốn rất
mạo hiểm.
b) Nhu cầu vốn lưu động
Nhu cầu vốn lưu động là nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh của DN nhưng chưa được tài trợ bởi người thứ ba trong
quá trình kinh doanh đó.
Để xác định nhu cầu vốn lưu động có thể chia bảng cân đối kế toán
thành các nhóm sau:
Ngân quỹ có:
- Tiền
- Đầu tư tài chính NH
Tài sản KD và ngoài kinh doanh:
- Phải thu
- Hàng tồn kho
- TSLĐ khác...
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Ngân quỹ nợ:
- Vay ngắn hạn
- Nợ dài hạn đến hạn trả
Nợ KD và ngoài KD:
- Phải trả người bán
- Người mua ứng trước
- Thuế và các khoản phải nộp
Nguồn vốn dài hạn:
- Nợ dài hạn
- Nguồn vốn chủ sở hữu
12
Nhu cầu VLĐ = (Tài sản KD & ngoài KD) - (Nợ KD & ngoài KD)
- Khi tài sản KD và ngoài KD lớn hơn nợ KD và ngoài KD, thể
hiện nhu cầu vốn lưu động dương, DN có một phần tài sản lưu
động cần nguồn tài trợ. Điều này cũng có nghĩa, trong DN có
một phần TSLĐ chưa được tài trợ bởi bên thứ ba.
- Khi tài sản KD và ngoài KD nhỏ hơn nợ KD và ngoài KD, thể
hiện phần vốn chiếm dụng được từ bên thứ ba của DN nhiều
hơn toàn bộ nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình kinh doanh
của DN.
c) Vốn bằng tiền (Ngân quỹ ròng)
Để xác định vốn bằng tiền, có thể sử dụng một trong 2 cách xác định
sau:
- Cách 1: Vốn bằng tiền = (Ngân quỹ có)- (Ngân quỹ nợ)
+) Nếu ngân quỹ có > ngân quỹ nợ tức vốn bằng tiền dương, chứng
tỏ DN chủ động về vốn bằng tiền
+) Nếu ngân quỹ có < ngân quỹ nợ tức vốn bằng tiền âm, chứng tỏ
DN bị động về vốn bằng tiền
- Cách 2: Vốn bằng tiền = (Vốn LĐTX) – (Nhu cầu VLĐ)
Phương trình trên cho phép giải thích:
+) Vốn bằng tiền > 0 (nếu nhu cầu vốn lưu động dương) chứng tỏ
vốn lưu động thường xuyên thỏa mãn nhu cầu vốn lưu động. Ngược lại,
DN quá nhiều tiền do chiếm dụng được vốn của bên thứ ba (nếu nhu cầu
vốn lưu động âm)
+) Vốn bằng tiền < 0 chứng tỏ vốn lưu động thường xuyên chỉ tài trợ
được một phần nhu cầu vốn lưu động, phần còn lại dựa vào tín dụng ngắn
13
hạn Ngân hàng, phần này càng nhiều chứng tỏ DN càng phụ thuộc vào
Ngân hàng.
(2) Phân tích mối quan hệ cân đối giữa vốn lưu động thường
xuyên và nhu cầu vốn
Trong hoạt động kinh doanh của các DN, việc phát sinh nhu cầu vốn
lưu động là tất yếu. Để tài trợ nhu cầu vốn, một cơ cấu vốn an toàn là DN
thường xuyên có một phần nguồn vốn dài hạn để bù đắp, phần còn lại sử
dụng vốn tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, cơ cấu tham gia của vốn dài hạn và
vốn tín dụng ngắn hạn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động nhiều hay ít sẽ
quyết định mức độ an toàn hay rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các
DN. Nếu DN sử dụng quá nhiều vốn dài hạn cho nhu cầu vốn lưu động, có
thể sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh trong kỳ. Ngược lại, nếu DN vay quá
nhiều (khi chi phí trả lãi tiền vay ngốn hết toàn bộ lợi nhuận tạo ra có nghĩa
là chủ Ngân hàng phải chuẩn bị để tài trợ cho các khoản lỗ), lúc này cũng
có nghĩa là Ngân hàng đã trở thành người cung cấp vốn để đảm bảo rủi ro
cho DN thay thế các cổ đông. Do vậy cần phải phân tích cụ thể để có giới
hạn hợp lý. Mối quan hệ giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn
lưu động có thể xảy ra theo các trường hợp sau đây:
• Cơ cấu vốn khá an toàn: DN có dư thừa ngân quỹ
Vốn bằng tiền > 0
Nhu cầu vốn lưu động > 0
Vốn lưu động thường xuyên > 0
• Cơ cầu vốn vẫn đảm bảo an toàn; nhu cầu vốn lưu động được tài trợ
một phần bằng nguồn vốn dài hạn, một phần bằng vốn tín dụng ngắn
hạn
14
Nhu cầu vốn lưu động > 0
Vốn bằng tiền < 0
Vốn lưu động thường xuyên > 0
• Cơ cầu vốn vẫn đảm bảo an toàn; nhu cầu vốn lưu động được tài trợ
hoàn toàn bằng nguồn vốn dài hạn
Nhu cầu vốn lưu động > 0 Vốn lưu động thường xuyên > 0
• DN có nguồn vốn dồi dào do hưởng trả chậm, giải phóng hàng
nhanh; đảm bảo cơ cấu vốn an toàn
Vốn bằng tiền > 0
Nhu cầu vốn lưu động < 0
Vốn lưu động thường xuyên > 0
• DN dùng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn; tiền dự trữ nhiều do chiếm
dụng nhiều; nợ kinh doanh và ngoài kinh doanh lớn hơn tài sản kinh
doanh và ngoài kinh doanh
Vốn bằng tiền > 0
Vốn lưu động thường xuyên < 0
Nhu cầu vốn lưu động < 0
• DN dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn; dự trữ tiền trên các tài khoản
tiền đúng bằng khoản tiền DN vay ngắn hạn; nợ kinh doanh và ngoài
kinh doanh lớn hơn tài sản kinh doanh và ngoài kinh doanh.
Vốn lưu động thường xuyên < 0 Nhu cầu vốn lưu động < 0
• DN dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn; nợ kinh doanh và ngoài kinh
doanh lớn hơn tài sản kinh daonh và ngoài kinh doanh
Vốn lưu động thường xuyên < 0
Nhu cầu vốn lưu động < 0
Vốn bằng tiền < 0
15
• DN dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn; mức độ vay nợ nhiều
Nhu cầu vốn lưu động > 0
Vốn lưu động thường xuyên < 0
Vốn bằng tiền < 0
(3) Phân tích sự biến động của từng chỉ tiêu
a) Phân tích vốn lưu động thường xuyên
- So sánh vốn lưu động thường xuyên của DN giữa các kỳ để thấy được
sự biến động của VLĐ thường xuyên
- Phân tích các nhân tố, các nguyên nhân gây nên tình trạng biến động
của các chỉ tiêu
Vốn lưu động thường xuyên tăng, giảm do ảnh hưởng của 2 nhân tố:
nguồn vốn dài hạn; TSCĐ và đầu tư dài hạn. Việc tăng hoặc giảm các nhân
tố trên đều cần phải tìm lý do giải thích. Song, nhìn chung, các trường hợp
nguồn vốn dài hạn giảm, tài sản cố định giảm hoặc TSCĐ tăng nhưng gây
mất cân đối tình hình tài chính của DN là những vấn đề cần được quan tâm
xem xét hơn cả.
b) Phân tích nhu cầu vốn lưu động
Để phân tích nhu cầu vốn lưu động có thể thực hiện phép so sánh nhu
cầu vốn lưu động giữa các kỳ kinh doanh. Nhìn chung, nhu cầu vốn lưu
động tăng sẽ gây khó khăn cho ngân quỹ của DN. Tuy nhiên, khi phân tích
cần làm rõ việc nhu cầu vốn tăng, giảm có hợp lý hay không qua xem xét
những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vốn lưu động. Các yếu tố chủ yếu,
thường ảnh hưởng là:
- Sự tăng, giảm của hàng tồn kho
- Sự tăng, giảm của các khoản phải thu
- Sự tăng, giảm của các khoản nợ phải trả
16
Sự thay đổi của các yếu tố trên có thể do các nguyên nhân: việc thay
đổi qui mô hoạt động, sự biến động của giá cả vật tư hàng hóa trên thị
trường...
Phân tích nhu cầu vốn lưu động ngoài việc so sánh ở chỉ tiêu tuyệt đối
có thể xem xét mức biến động tương đối của nhu cầu vốn lưu động so với
mức hoạt động của DN theo chỉ số sau:
Nhu cầu VLĐ
Doanh thu thuần
x 100
Hoặc phân tích sự biến động của các chỉ tiêu hoạt động như vòng
quay của hàng tồn kho, của các khoản phải thu...
1.2.4.2. Phân tích các hệ số tài chính đặc trưng của doanh nghiệp
Các số liệu báo cáo tài chính chưa lột tả được hết thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, do vậy các nhà tài chính còn dùng các hệ số tài chính để giải
thích thêm các mối quan hệ tài chính. Mỗi một doanh nghiệp khác nhau, có
các hệ số tài chính khác nhau, thậm chí một doanh nghiệp ở những thời
điểm khác nhau cũng có các hệ số tài chính không giống nhau. Do đó
người ta coi các hệ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình
hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Tình hình tài chính được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể
hiện ở khả năng chi trả, vì vậy chúng ta bắt đầu đi từ việc phân tích khả
năng thanh toán.
(1)Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn
Đây là những hệ số được rất nhiều người quan tâm như: các nhà ngân
hàng, nhà đầu tư, người cung cấp... Trong mọi quan hệ với doanh nghiệp,
họ luôn đặt ra câu hỏi: liệu doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản
17
nợ đến hạn không? Để trả lời câu hỏi trên, các chỉ tiêu sau đây thường được
sử dụng:
a)Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn
=
TSLĐ và ĐT ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà các tài
sản có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu
hệ số này cao, có thể đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm
giá trị của TSLĐ. Điều đó thể hiện tiềm năng thanh toán cao so với nghĩa
vụ phải tham gia thanh toán. Tuy nhiên, một DN có hệ số KNTT nợ ngắn
hạn quá cao cũng có thể DN đó đã đầu tư quá mức vào tài sản hiện hành,
một sự đầu tư không mang lại hiệu quả. Mặt khác, trong toàn bộ tài sản lưu
động của doanh nghiệp, khả năng chuyển hóa thành tiền của các bộ phận là
khác nhau. Khả năng chuyển hóa thành tiền của bộ phận hàng tồn kho
thường được coi là kém nhất. Do vậy, để đánh giá khả năng thanh toán một
cách khắt khe hơn, có thể sử dụng hệ số khả năng thanh toán nhanh.
b)Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh đo lường khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng việc chuyển đổi các tài sản lưu
động, không kể hàng tồn kho. Hệ số này được tính như sau:
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu
Nợ ngắn hạn
- Nhiều trường hợp, tuy doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán
nợ ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nhanh cao nhưng vẫn không có
khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn thanh toán do các
khoản phải thu chưa thu hồi được hàng tồn kho chưa chuyển hóa được
18
thành tiền. Bởi vậy, muốn biết khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp
tại thời điểm xem xét, nhà phân tích còn có thể sử dụng chỉ tiêu sau:
Hệ số khả năng
thanh toán ngay
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
- Nhiều chủ nợ cho rằng nhìn chung hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn nên ở mức bằng 2, hệ số khả năng thanh toán nhanh nên ở mức
bằng 1 và hệ số khả năng thanh toán ngay nên ở mức 0,5 là hợp lí. Tuy
nhiên, trong thực tế, các hệ số này được chấp nhận là cao hay thấp còn tùy
thuộc vào đặc điểm, tính chất kinh doanh, mặt hàng kinh doanh của mỗi
ngành kinh doanh, cơ cấu, chất lượng của tài sản lưu động, hệ số quay vòng
của tài sản lưu động trong mỗi loại hình doanh nghiệp... Do vậy, cách xem
xét tốt nhất là so sánh các hệ số khả năng thanh toán của doanh nghiệp với
hệ số khả năng thanh toán trung bình của ngành để có thể đưa ra nhận xét
đúng đắn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích chủ yếu là so sánh hệ số khả năng thanh toán của
doanh nghiệp giữa các kỳ khác nhau, hệ số khả năng thanh toán của doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động hoặc
với hệ số trung bình của ngành. Tuy nhiên, để có kết luận đúng về khả năng
thanh toán của doanh nghiệp cần phải có cách nhìn toàn diện, phải thấy
được sự tác động của các nhân tố làm tăng hoặc giảm các chỉ tiêu.
(2)Các chỉ tiêu phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
a) Hệ số nợ và tỷ suất tự tài trợ
• Hệ số nợ: được đo bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả với tổng tài sản
hay tổng nguồn vốn của DN:
Tổng số nợ phải trả
Hệ số nợ =
Tổng NV của DN
19
Hệ số nợ nói lên trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn từ
bên ngoài ( từ các chủ nợ ) là bao nhiêu phần hay trong tổng số tài sản hiện
có của doanh nghiệp, có bao nhiêu phần do vay nợ mà có.
• Tỷ suất tự tài trợ: Chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ để đo lường sự góp vốn
của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này được tính như sau:
Nguồn vốn CSH
Tỷ suất tự tài trợ = = 1- Hệ số nợ
Tổng NV
Nếu hệ số nợ càng thấp ( hay tỷ suất tự tài trợ càng cao) thì sự phụ thuộc
của doanh nghiệp vào người cho vay càng ít, món nợ của người cho vay
càng được đảm bảo và do vậy việc cho vay càng an toàn và ngược lại sẽ
kém an toàn. Tuy nhiên, nếu hệ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp rất có lợi.
b)Hệ số nợ dài hạn
Nợ dài dạn trên nguồn
vốn CSH
=
Nợ dài hạn
Nguồn vốn CSH
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của DN đối với chủ nợ. Chỉ tiêu
này càng cao thì rủi ro của DN càng tăng. Chỉ tiêu này cao hay thấp cũng
tùy theo từng ngành hoạt động. Chẳng hạn: ngành có tài sản cố định chiếm
tỷ trọng lớn thường có hệ số này cao hơn. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm ở
một số nước, để hạn chế rủi ro tài chính, thường người cho vay chỉ chấp
nhận chỉ tiêu này ở mức nhỏ hơn 1 hay nợ dài hạn không vượt quá nguồn
vốn chủ sở hữu. Khi chỉ tiêu này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả
năng được vay thêm các khoản vay dài hạn.
c)Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản cố định và đầu tư dài hạn
bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
20
Tỷ suất tự tài trợ
TSCĐ
=
Nguồn vốn CSH
TSCĐ và ĐT dài hạn
Tỷ suất này lớn hơn 1, thể hiện khả năng tài chính vững vàng. Ngược
lại, nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là có một phần tài sản cố định được tài trợ bằng
nguồn vốn vay. Nếu nguồn vốn đó ngắn hạn thể hiện doanh nghiệp đang
kinh doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm.
d)Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
Hệ số khả năng thanh
toán lãi tiền vay
=
LN trước thuế + Lãi tiền vay phải trả
Lãi tiền vay phải trả
Hệ số này nói lên trong kỳ DN đã tạo ra lợi nhuận gấp bao nhiêu lần lãi
phải trả về tiền vay. Hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng chi trả lãi
tiền vay càng thấp và ngược lại. Thông thường hệ số này được các chủ nợ
chấp nhận ở mức hợp lý khi nó lớn hơn hoặc bằng 2.
e)Tỷ suất đầu tư
Tỷ suất đầu tư TSCĐ =
TSCĐ
Tổng tài sản
x 100
Thực chất của chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tài sản cố định của
doanh nghiệp trong tổng tài sản nói chung. Chỉ tiêu này càng lớn và xu
hướng ngày một tăng thể hiện tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của
doanh nghiệp tăng lên, điều này tạo năng lực sản xuất và xu hướng phát
triển kinh doanh lâu dài, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Để phân tích các chỉ tiêu kể trên, phương pháp phân tích chủ yếu là so
sánh các chỉ tiêu cuối kỳ với đầu năm hoặc so sánh các chỉ tiêu của doanh
nghiệp với các chỉ tiêu bình quân của ngành.
(3)Các chỉ tiêu phân tích năng lực hoạt động của tài sản
a)Vòng quay các khoản phải thu và kỳ thu tiền trung bình
• Vòng quay các khoản phải thu
21
Vòng quay các
khoản phải thu
=
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Các khoản phải thu BQ
• Kỳ tiền trung bình
Kỳ thu tiền
trung bình
=
( Các khoản phải thu BQ) x (Số ngày trong kỳ
PT)
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Trong đó: số ngày trong kỳ phân tích được xác định thường là 30, 90,
360 ngày nếu kỳ phân tích là 1 tháng, 1 quý, 1 năm.
Thông qua sự biến động của hệ số quay vòng các khoản phải thu hay
kỳ thu tiền trung bình, nhà phân tích có thể đánh giá tốc độ thu hồi các
khoản nợ của doanh nghiệp.
So với kỳ trước, hệ số quay vòng các khoản phải thu giảm hoặc thời
gian bán chịu cho khách hàng dài hơn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản
nợ của doanh nghiệp chậm hơn, từ đó là tăng vốn ứ đọng trong khâu thanh
toán, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
b) Vòng quay hàng tồn kho và số ngày của một vòng quay hàng tồn kho
• Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay
hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho BQ
• Số ngày của một vòng quay hàng tồn kho
Số ngày một vòng
quay hàng tồn kho
=
Hàng tồn kho BQ x Số ngày trong kỳ PT
Giá vốn hàng bán
So với kỳ trước, vòng quay hàng tồn kho giảm thì thời gian của một
vòng hàng tồn kho sẽ tăng, chứng tỏ hàng tồn kho luân chuyển chậm, vốn ứ
đọng nhiều hơn kéo theo nhu cầu vốn của doanh nghiệp tăng ( trong điều
kiện quy mô sản xuất không đổi). Cần đi sâu tìm hiểu lý do cụ thể để có
biện pháp tác động.
c) Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
22
Hiệu suất sử dụng
tài sản cố định
=
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Tài sản cố định bình quân
Hiệu suất sử dụng TSCĐ nói lên cứ một đồng tài sản cố định đưa vào
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu thuần. So với kỳ trước, hệ số giảm phản ánh sức sản xuất của
TSCĐ giảm.
d) Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng
tổng tài sản
=
Tổng DT và thu nhập khác của DN trong kỳ
Tổng tài sản bình quân
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản nói lên cứ một đồng tài sản đưa vào hoạt
động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. So
với kỳ trước, hệ số giảm phản ánh sức sản xuất của tổng tài sản giảm.
Phương pháp phân tích bao gồm:
- So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp giữa các kỳ, so sánh với các
chỉ tiêu tương ứng của doanh nghiệp khác trong cùng một lĩnh vực
hoạt động hoặc với hệ số trung bình của ngành.
- Phân tích các nhân tố, các nguyên nhân làm tăng, giảm các chỉ tiêu
để làm rõ tình hình tài chính của DN và đề ra các biện pháp cần thiết
nhằm nâng cao năng lực hoạt động của tài sản trong DN.
(4) Các chỉ tiêu sinh lời
Các chỉ tiêu sinh lời luôn luôn được các nhà quản trị tài chính quan tâm.
Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh trong một thời kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh
doanh và còn là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các
quyết định tài chính trong tương lai.
a)Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
23
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu thể hiện trong một trăm đồng doanh thu mà
doanh nghiệp thực hiện trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này
được xác định như sau:
Tỷ suất lợi nhuận
doanh thu
=
Lợi nhuận
Doanh thu
x 100
Lợi nhuận được xác định trong công thức trên có thể là lợi nhuận thuần
từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận
sau thuế.
Tương ứng với chỉ tiêu lợi nhuận, doanh thu được xác định trong công
thức trên có thể là doanh thu hoạt động kinh doanh hoặc cũng có thể là
tổng thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ.
So với kỳ trước, tỷ suất lợi nhuận doanh thu càng cao chứng tỏ khả năng
sinh lợi của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt.
b)Tỷ suất sinh lời của tài sản
Tỷ suất sinh lời
tổng tài sản
=
Tổng lợi nhận trước thuế
Tổng tài sản bình quân
x 100
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh cứ một trăm đồng tài sản
đưa vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong điều
kiện bình thường, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời của tài
sản càng tốt.
Tùy theo mục đích của nhà phân tích, lợi nhuận trước thuế có thể chỉ là
phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu, cũng có thể là tổng lợi nhuận trước
thuế mà tài sản tạo ra trong một kỳ kinh doanh ( bao gồm cả phần lợi nhuận
tạo ra cho người cho vay).
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản còn có thể được xác định như
sau:
Tỷ suất lợi nhuận
trên tổng TS
=
Tổng LN trước thuế
D T & thu nhập khác
x
DT & thu nhập khác
Tổng TS bình quân
24
Công thức này được công ty DuPont đề xuất và được gọi là phương trình
hoàn vốn, hay phương trình phân tích DuPont. Người ta có thể dùng công
thức này để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận tổng tài
sản.
c)Tỷ suất sinh lợi nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ suất LN sau thuế
trên nguồn vốn CSH
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
Nguồn vốn chủ sở hữu BQ
x100
Chỉ tiêu này nói lên với một trăm đồng vốn chủ sở hữu đem đầu tư mang
lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở
hữu, có thể sử dụng công thức sau đây:
Tỷ suất LN
sau thuế
trên VCSH
=
LN sau thuế
DT&TNkhác
x
DT&TN khác
Tổng tài sản
BQ
x
Tổng tài sản
BQ
Vốn CSHBQ
Bằng phương pháp thay thế liên hoàn hay phương pháp số chênh lệch, có
thể xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố trên đến tỷ suất lợi
nhuận nguồn vốn chủ sở hữu.
25