Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Lựa chọn giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh bình thuận giai đoạn 2005 2015 luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.43 KB, 138 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ THU THỦY

LỰA CHỌN GIẢI PHÁP

GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TỈNH BÌNH THUẬN GIAI
ĐOẠN 2005 – 2015

Chuyên ngành:
Kinh tế phát triển
Mã số: 5 . 0 2 . 0 5

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ BẢO

LÂM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2004


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ASEAN (The Association of Southeast Asian Nations):


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CSHT: Cơ sở hạ tầng
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm trong nước

MICE (Meetings, Insensitives, Conference and Events):
Hội thảo, hội nghị, tổ chức sự kiện và
tưởng thưởng
TM – DL: Thương mại Du lịch
WTO (World Travel Organization): Tổ chức du lịch
Thế giới UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1.
01

Cơ sở lý luận về du lịch

1.1.1.Du lịch – Khách du lịch – Sản phẩm du lịch – Ngành
du lịch
01
1.1.2.
04

Các loại hình du lịch


1.1.3.
07

Các điều kiện để phát triển du lịch

1.2. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế xã
hội
09
1.3.
Kinh nhiệm phát triển du lịch của một số
quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á

11

1.3.1.
14

Kinh nghiệm của Thái Lan

1.3.2.
15

Kinh nghiệm của Inđonesia

1.3.3.
16

Kinh nghiệm của Singapore


1.3.4.
17

Kinh nghiệm của Malaysia

1.4.
17

Vài nét về ngành du lịch Việt Nam


CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DU LỊCH TỈNH
BÌNH THUẬN

2.1.

Tổng quan về kinh tế – xã hội
21

2.1.1.
21

Điều kiện tự nhiên

2.1.2.
22

Điều kiện xã hội


2.2.
26

Tình hình hoạt động du lịch trong thời gian qua

2.2.1.
26

Khách du lịch

2.2.2.
30

Doanh thu

2.2.3.
33

Cơ sở vật chất

2.2.4.
35

Lực lượng lao động

2.2.5.
36

Hoạt động giới thiệu, quảng bá du lịch


2.2.6.
37

Công tác quy hoạch phát triển du lịch

2.3.
38

Kết luận chương 2

CHƯƠNG 3: LỰA CHỌN GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH

TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2005 – 2015

3.1.
40

Những xu hướng du lịch hiện nay

3.2.
42

Mục tiêu phát triển du lịch


3.2.1.
42

Mục tiêu phát triển của cả nước


3.2.2.
44

Mục tiêu phát triển của Bình Thuận

3.3.Lựa chọn giải pháp phát triển du lịch Bình Thuận
45
3.3.1.
46

Nhóm giải pháp nền tảng

3.3.2.
53

Nhóm giải pháp chiến lược

3.4.
60

Các bước đề nghị thực hiện

3.4.1. Giai đoạn 2005 – 2006

60

3.4.2. Giai đoạn 2006 – 2010

61


3.4.3. Giai đoạn 2010 – 2015

61

KẾT LUẬN

62

PHỤ LỤC

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ trên các
mặt đời sống – kinh tế
– văn hóa – xã hội – khoa học kỹ thuật trên Thế giới, du lịch
đã trở thành hoạt động phổ biến trong các tầng lớp dân
cư. Nhu cầu du lịch đã đi vào cuộc sống của từng gia đình,
làm phong phú thêm hoạt động nghỉ ngơi – vui chơi – giải trí
và bản thân du lịch cũng đang ngày càng phát triển nhằm
thỏa mãn những nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội,
đáp ứng cao nhất khả năng tái tạo sức lao động cho xã
hội nói chung và cho từng cá nhân nói riêng.

Về mặt kinh tế, ngày nay du lịch đã tạo nên những

thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế của một quốc gia,
những khoản thu nhập với lợi thế hơn hẳn các ngành
trọng yếu khác, đặc biệt là khoản thu ngoại tệ, đã, đang
và sẽ tiếp tục đưa du lịch trở thành ngành công nghiệp
số một trong tương lai.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, các quốc gia
trên thế giới đã đầu tư thích đáng cho sự phát triển
của ngành du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn và đóng vai trò quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, không phải
quốc gia nào cũng có thể phát triển du lịch được do
những đặc trưng riêng có của du lịch, cụ thể là tiềm
năng du lịch của quốc gia và khả năng đón tiếp
khách của họ.
Bình Thuận là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải
miền Trung có nguồn tài nguyên du lịch khá phong phú
và đa dạng. Trong một thời gian dài, ngành du lịch ở đây
dường như đã ngủ quên và chỉ thực sự được đánh thức
từ sau sự kiện nhật thực toàn phần diễn ra vào tháng
10/1995 mà Mũi Né là nơi duy nhất có thể quan sát
được toàn cảnh hiện tượng này. Sau sự kiện này, khách


du lịch bắt đầu biết đến Phan Thiết, Mũi Né với những
bờ biển trong xanh, những đồi cát mênh mông như đang
ở sa mạc, biết đến những công trình kiến trúc đặc
trưng của người Chăm, biết đến lầu ông Hoàng và
hàng loạt các danh thắng khác…



Qua hơn 10 năm phát triển, ngành du lịch Bình Thuận
đã đạt được một số thành tựu đáng kể, số lượng
khách du lịch đến với Bình Thuận và thu nhập từ du lịch
của Tỉnh đã liên tục tăng ở mức tương đối cao, thậm
chí có năm tốc độ tăng trưởng đạt ở mức 3 chữ số.
Nhưng nếu nghiên cứu qua từng năm thì sự tăng
trưởng này dường như không ổn định và đang có xu
hướng giảm dần. Trong tình hình “người người làm du
lịch, nhà nhà làm du lịch” ở một số địa phương như
hiện nay dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh và “góp phần” hủy hoại môi trường tự nhiên
của địa phương thì Bình Thuận, là người đi sau có thể
học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, cần có
những hành động cụ thể và kịp thời ngay từ bây giờ
để có thể định hướng cho sự phát triển du lịch của
tỉnh nhà theo hướng phát triển bền vững.
Là một du khách có dịp may được đến với Bình
Thuận từ những ngày đầu mới phát triển của ngành
du lịch, tôi thực sự ngạc nhiên và khâm phục trước sự
phát triển quá “nóng” của vùng đất này. Thế nhưng,
bên cạnh niềm vui tôi cũng lo sợ một ngày nào đó
không còn được nhìn ngắm những đồi cát trùng điệp,
không còn được tắm mình trong làn nước trong xanh nữa
vì sự xuất hiện của đủ thứ rác bẩn, nước thải và
những khách sạn mini, những khu dân cư “ăn theo” sự
phát triển của du lịch… Tất cả những thứ đó sẽ làm
thay đổi cảnh quan và môi trường tự nhiên nơi đây, cản
trở sự phát triển của du lịch.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi quyết định thực hiện
đề tài nghiên cứu “Lựa


chọn giải pháp góp


phần phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai
đoạn 2005 – 2015”.
Thông qua việc đánh giá tiềm năng du lịch của
tỉnh Bình Thuận, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn,
phân tích và đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh


du lịch của tỉnh trong thời gian qua để tìm ra nguồn gốc
sự phát triển cũng như những nguyên nhân, những khó
khăn tồn tại cản trở sự phát triển. Trên cơ sở đó đề
xuất và lựa chọn những giải pháp góp phần phát
triển du lịch phù hợp với điều kiện thực tế của Tỉnh.
Tuy nhiên, du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp,
du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của các
ngành khác nhưng để du lịch có điều kiện phát triển
thì cũng cần sự hỗ trợ, phối hợp của rất nhiều ban
ngành. Giới hạn nghiên cứu của luận văn chỉ dừng lại
ở góc độ quản lý về du lịch và trong bối cảnh hiện
tại của tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham
khảo trong việc xây dựng hoặc điểu chỉnh quy hoạch
phát triển tổng thể của tỉnh vì du lịch là một trong
những thành phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế của
tỉnh, cũng như các quy hoạch chi tiết về phát triển du
lịch của từng khu vực mà Sở Thương mại – Du lịch tỉnh
đang thực hiện.

Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn
chủ yếu là phương pháp thống kê phân tích, sau đó
tổng hợp lại và dựa trên những khả năng có thể xảy
ra để đưa ra kết luận. Một số chỉ tiêu được tính toán
bằng cách áp dụng mô hình tăng trưởng trên phần
mềm Excel.
Luận văn gồm 61 trang với 3 chương, 6 bảng số liệu,
8 đồ thị minh họa và 7 phụ lục.
-

Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch và vai trò
của du lịch trong phát triển kinh tế.

-

Chương 2: Tình hình hoạt động của du lịch tỉnh Bình
Thuận


-

Chương 3: Lựa chọn giải pháp góp phần phát
triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 – 2015


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH
VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ


1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH:
1.1.1. Du lịch – Khách du lịch – Sản phẩm du lịch –
Ngành du lịch:
1.1.1.1.Du lịch – Du lịch bền vững:
Thuật ngữ “du lịch” ngày càng trở nên thông dụng
đối với mọi người. “Du lịch” là từ được bắt nguồn từ
tiếng Pháp “Tour” có nghóa là đi vòng quanh, là cuộc dạo
chơi; còn từ “Touriste” là ngøi đi dạo chơi. Du lịch gắn
liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm hồi phục, nâng cao
sức khỏe và khả năng lao động của con người, nhưng
trước hết nó có liên quan mật thiết với sự di chuyển chỗ
của họ.
Năm 1991, tổ chức du lịch Thế giới WTO đã thống
nhất được định nghóa về du lịch theo phát biểu như sau: “Du
lịch bao gồm những hoạt động của con người, di chuyển
đến và ở lại những nơi ngoài môi trường quen thuộc của
họ ít hơn 1 năm liên tục để giải trí, công vụ và những
mục đích khác” (Theo Charles R. Goeldner & những người khác,
Tourism: Principles, Practices, Philosophies, tái bản lần thứ tám,
NXB Johnwiley & Sons, New York 2000, Ch.1,tr.6).

Do những thay đổi theo hướng tiêu cực của môi
trường sống, năm 1999 Hội đồng Thế giới về tham quan


và du lịch WTTC, Hội đồng về trái đất CT và WTO đã đưa ra
định nghóa về du lịch bền vững như sau: “Du lịch bền vững
là loại hình du lịch đáp ứng được nhu cầu hiện tại của du
khách và của những vùng đón tiếp mà



vẫn đảm bảo và cải thiện nguồn lực cho tương lai. Du lịch
bền vững dẫn tới một phương thức quản lý tất cả các
nguồn lực sao cho thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội và
thẩm mỹ mà vẫn giữ gìn được sự trọn vẹn của văn hóa
và môi trường sống”.
Theo Pháp lệnh du lịch Việt Nam thì: Du lịch là hoạt
động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải
trí… trong một khoảng thời gian nhất định.

1.1.1.2.Khách du lịch:
Tháng 09/1968, hội nghị của WTO họp tại Roma đã
chính thức xác định phạm trù khách du lịch và khách du
lịch quốc tế. Theo đó thì:
Khách du lịch là những người lưu lại ít nhất một đêm
tại một nơi không phải là nhà mình và mục đích của sự di
chuyển này không phải là để kiếm tiền.
Khách du lịch quốc tế là những người đi ra nước
ngoài với mục đích thăm viếng người thân, nghỉ dưỡng,
chữa bệnh, tham gia vào các hội nghị, hội thảo quốc tế,
ngoại giao, thể thao, thực hiện công vụ (ký kết hợp đồng
mua bán, thăm dò thị trường…) và có lưu trú qua đêm tại
đó.

1.1.1.3.Sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch là tổng hợp các yếu tố khác nhau
nhằm cung cấp cho du khách một kinh nghiệm du lịch trọn
vẹn và sự hài lòng.
Sản phẩm du lịch thường được cấu thành từ 7 yếu tố

sau:
-

Di sản thiên nhiên: đồi, núi, sông, biển, thác, suối,
rừng, đảo…


-

Di sản do con người tạo ra: chùa chiền, đền thờ, bảo
tàng, các công trình kiến trúc, tượng đài, công viên…

-

Các yếu tố mang tính chất xã hội: thái độ của người
dân tại khu vực, quốc gia tiếp nhận khách, của nhân
viên phục vụ khi tiếp xúc với khách…


-

Các yếu tố hành chính: thủ tục xuất nhập cảnh, xuất
khẩu hàng hóa…

-

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho ngành du lịch:
hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí…

-


Tình hình kinh tế, tài chính, chính trị của quốc gia…

-

Các dịch vụ công cộng: hệ thống giao thông, phương
tiện vận chuyển, thông tin liên lạc…
Do được cấu thành từ những yếu tố như trên nên

sản phẩm du lịch thường có những đặc điểm như sau:
-

Sản phẩm du lịch được bán trước khi khách hàng thấy
hoặc tiêu thụ chúng.

-

Sản phẩm du lịch mang tính trừu tượng, vô hình nhưng dễ
bắt chước.

-

Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm tổng hợp mà các
nguồn kinh doanh khác phải tiêu phí thời gian và tiền
bạc trước khi sử dụng nó.

-

Khách mua sản phẩm du lịch phải được thông tin đầy
đủ về chuyến đi.


-

Các sản phẩm du lịch thường ở xa nơi khách hàng cư
trú. Do đó cần phải có hệ thống phân phối thông
qua việc sử dụng các đơn vị trung gian như các đại lý
du lịch, các cơ quan du lịch… tức là các đơn vị có khả
năng ảnh hưởng đến nguồn du khách tiềm năng.

-

Sản phẩm du lịch có chu kỳ sống ngắn, dễ bị thay
đổi vì sự biến động của tỷ giá tiền tệ; tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội… và nó cũng không thể tăng
theo ý muốn của khách du lịch một cách nhanh chóng.

-

Khách mua sản phẩm du lịch thường ít trung thành
hoặc không trung thành với điểm du lịch, tạo nên sự
bất ổn về nguồn khách.


-

Nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm du lịch,
ngoại trừ việc đi du lịch công vụ, phần lớn hết sức
uyển chuyển và mang tính cạnh tranh cao.



1.1.1.4.Ngành du lịch:
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến
nhiều khu vực ngành khác nhau một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp.
Theo Victor T.C. Middleton trong tác phẩm Marketing in Travel
and Tourism (tái bản lần thứ hai, NXB Bulterworth Heinemann,
Oxford 1994, tr.4) thì năm khu vực chính trong ngành du lịch bao
gồm:
-

Khu

vực

vận

chuyển:

bao

gồm

các

hãng

hàng

không, hãng tàu biển, phà, thuyền, tàu hỏa, nhà
điều hành xe bus, xe khách, công ty cho thuê xe…

-

Khu vực lưu trú: bao gồm các khách sạn, lữ quán,
nhà hàng, khu nghỉ mát, trung tâm hội nghị, trung
tâm triển lãm, căn hộ, villa, nông trại…

-

Khu vực tổ chức lữ hành: nhà điều hành du lịch, nhà
bán sỉ, môi giới du lịch, đại lý du lịch bán lẻ, nhà
tổ chức hội nghị, đại lý đặt chỗ…

-

Khu vực điểm du lịch: bao gồm công viên giải trí, viện
bảo tàng và trưng bày nghệ thuật, công viên quốc
gia, công viên hoang dã, di tích lịch sử và các trung
tâm thể thao, thương mại…

-

Khu vực tổ chức điểm đến: bao gồm cơ quan du lịch
quốc gia NTO, cơ quan du lịch vùng, cơ quan du lịch địa
phương và các Hiệp hội du lịch…

1.1.2.

Các loại hình du lịch:

Du lịch ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và

phổ biến. Để phân loại, chúng ta thường phải căn cứ
vào một số tiêu thức như:
1.1.2.1. Căn cứ vào nhu cầu của khách: có thể có
những loại hình sau


-

Du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh: đáp ứng nhu cầu
điều trị bệnh, phục hồi sức khỏe của khách. Ngày
nay, một số nước có điều kiện thiên nhiên ưu đãi
đã biết kết hợp có hiệu quả việc khai thác sử dụng
các nguồn nước khoáng, suối


nước nóng, bùn thuốc, khí hậu biển trong lành… với
kinh doanh dịch vụ phục vụ đối tượng khách du lịch
này. Nhu cầu nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe của
khách du lịch đôi khi chỉ đơn giản là muốn được gần
gũi với thiên nhiên hay thay đổi môi trường sống
hàng ngày. Vì vậy, loại hình du lịch này đòi hỏi phải
có điều kiện thiên nhiên tốt như bờ biển, sông
suối, hồ nước, cao nguyên… những nơi có khí hậu
trong lành.
-

Du lịch tham quan: là những chuyến đi qua nhiều địa
danh du lịch, đặc biệt là các khu di tích văn hóa, lịch
sử, các công trình kiến trúc…, nó gắn liền với nhu
cầu làm tăng thêm sự hiểu biết của khách về kinh

tế, xã hội, phong tục tập quán của người dân địa
phương nơi mà họ đến thăm. Khách du lịch thường rất
quan tâm đến phương tiện di chuyển và các thông tin
về điểm tham quan.

-

Du lịch thể thao: nhu cầu, sở thích của khách gắn liền
với một môn thể thao nào đó. Có thể chia loại hình
du lịch này thành 2 loại Chủ động và Thụ động. o
Chủ động: khách du lịch chính là các vận động
viên đi đến những vùng có tiềm năng về thể thao
như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi
lội, lướt ván… hoặc đến những khu vực có tổ
chức các giải thi đấu để trực tiếp thi đấu hoặc
tham gia vào các hoạt động thể thao đó như là
một nhu cầu rèn luyện thân thể hoặc giải trí.

o Thụ động: khách du lịch đi đến những nơi này để xem các
trận thi đấu.


-

Du lịch có tính chuyên nghiệp: nó gắn liền với yêu
cầu nghề nghiệp. Khách du lịch đi đến một địa danh
nào đó với những mục đích rõ ràng và họ có sự
chuẩn bị cho những nội dung cần giải quyết tại nơi
đến. Khách du lịch của loại hình này thường là các
nhà khoa học, kỹ thuật viên hay các nhà nghiên cứu

lịch sử, dân tộc, tôn giáo, những nhà khoa học về
tự nhiên, môi trường


hoặc văn hóa nghệ thuật, và bao gồm cả những
người đi dự hội nghị, hội thảo khoa học, hội diễn tài
năng… Khách đề ra mục đích rõ ràng và yêu cầu
tìm hiểu về những nơi họ tham quan thường rất cao, rất
cụ thể, đồng thời họ cũng có nhu cầu cao về trang
thiết bị, tiện nghi và người giúp việc phục vụ cho các
nội dung liên quan đến lónh vực nghiên cứu.
-

Du lịch công vụ: hay còn gọi là du lịch kết hợp với
công tác. Đối tượng khách chủ yếu là những người
đi dự hội nghị, hội chợ, lễ kỷ niệm, đi thảo luận trao
đổi ký kết văn bản hợp tác, trao đổi về chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật… Loại khách này
có nhu cầu cao về phòng ngủ, nhà hàng, phòng
họp và hệ thống tiện nghi phục vụ đi kèm như dịch
thuật, máy chiếu phim, điện thoại… các chương trình
tham quan du lịch, vui chơi giải trí phụ trợ.

-

Du lịch có tính chất xã hội: khách đi du lịch kết hợp
với thăm viếng người thân, quê hương… loại khách
này chủ yếu phát triển ở những nước có nhiều
kiều dân nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Nam Tư,
Tây Ban Nha; các vùng có tôn giáo lớn như Ấn Độ,

Trung Đông…

-

Du lịch sinh thái, du lịch xanh…: là những loại hình du
lịch đang có xu hướng phát triển rất mạnh. Chúng ta
đang sống trong một môi trường công nghiệp, tiếp
xúc với máy móc, tiếng ồn, không khí nóng bức bụi
bặm, tác phong làm việc khẩn trương theo khuôn phép
và luôn căng thẳng… Do đó mới phát sinh nhu cầu
được trở về với thiên nhiên, được thư giãn trong không
khí trong lành của môi trường nguyên sinh; tìm hiểu về


con người, cuộc sống và những điều huyền bí, kỳ
diệu của tự nhiên, đồng thời góp tay giữ gìn, bảo tồn
tài nguyên và môi trường đó bằng cách tạo cơ hội
về việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng địa
phương, lợi ích kinh tế cho địa phương, các tổ chức và
chủ thể quản lý.


1.1.2.2. Căn cứ theo quốc tịch của khách: có thể chia
thành 2 loại
-

Du lịch nội địa – Domestic Tourism: là loại hình mà công
dân của một nước đi du lịch dưới bất cứ hình thức
nào trong phạm vi quốc gia của nước mình.


-

Du lịch quốc tế – International Tourism: là loại hình du lịch
mà công dân của một nước đi du lịch ở các nước
khác. Quan hệ kinh tế, văn hóa giữa các nước trên
cơ sở hai bên cùng có lợi tác động tích cực đến sự
phát triển du lịch quốc tế.

1.1.2.3. Căn cứ theo phương tiện giao thông mà khách sử

dụng để đi du lịch:
có thể có các loại hình như du lịch bằng xe đạp, xe
máy, ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thời gian
gần đây đã có xuất hiện loại hình du lịch bằng
tàu vũ trụ để bay vào không gian, tuy còn khá
mới và chi phí khá cao nhưng loại hình này hứa hẹn
sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
1.1.2.4. Căn cứ theo đặc điểm cơ sở lưu trú: có thể chia
thành các loại hình du lịch như du lịch trong khách sạn
– hotel, du lịch trong nhà nghỉ dọc đường
– motel, du lịch trong nhà trọ, hoặc du lịch cắm trại…
1.1.2.5. Căn cứ vào thời gian lưu trú: có 2 loại hình chính
là du lịch ngắn ngày (thời gian đi du lịch là những
ngày nghỉ cuối tuần hoặc kéo dài không quá 2
tuần) và du lịch dài ngày (thời gian đi du lịch kéo
dài hơn 2 tuần nhưng không quá 1 năm).

1.1.3.

Các điều kiện để phát triển du lịch:


Du lịch là một hoạt động đặc trưng mà nó chỉ có
thể phát triển được trong những điều kiện nhất định và


trong những hoàn cảnh thuận lợi. Trong những điều kiện
này, có những điều kiện thuộc về các mặt của cuộc
sống xã hội, có đặc tính chung, đồng thời có những điều
kiện khác lại trực tiếp gắn liền với những đặc điểm và
vùng địa lý nhất định. Do đó có thể chia chúng thành 2
nhóm điều kiện:


×