Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận kiểm tra, giám sát trong hoạt động lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.06 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN LÃNH ĐẠO HỌC VÀ CHÍNH SÁCH CƠNG

BÀI THU HOẠCH
MƠN:
KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG LÃNH ĐẠO
Lớp: Cao học Lãnh đạo học khóa 27
Tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2021

Đề tài:
VỊ TRÍ, VAI TRỊ VÀ THỰC TRẠNG KIỂM TRA,
GIÁM SÁT TRONG LÃNH ĐẠO TẠI
SỞ NGOẠI VỤ TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Họ và tên: CAO LÂM NGỌC VÂN
Đơn vị công tác: Sở Ngoại vụ Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc, năm 2021

MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Người lãnh đạo
2. Kiểm tra, giám sát trong hoạt động lãnh đạo
II. THỰC TRẠNG KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG LÃNH
ĐẠO TẠI SỞ NGOẠI VỤ TỈNH VĨNH PHÚC



1
2
2
3
7

1. Giới thiệu chung

7

2. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát tại Sở Ngoại vụ

10

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát tại
Sở Ngoại vụ
KẾT LUẬN

14
16


MỞ ĐẦU
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh: Công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng có vị trí, vai trị và tầm quan trọng đặc biệt trong công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do vậy, Đảng ta xác định kiểm tra, giám sát là
những chức năng lãnh đạo quan trọng của Đảng.
Trong những năm qua, thông qua kiểm tra, giám sát, Ủy ban Kiểm tra các
cấp đã xử lý và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và

cấp ủy các cấp xử lý nghiêm minh nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong
đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước. Với tinh thần làm
nghiêm từ trên xuống, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, giữ vững kỷ
cương, kỷ luật của Đảng, cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã góp phần đấu
tranh, ngăn chặn có hiệu quả suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; chỉ rõ những
thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, chấp hành nghị quyết,
chỉ thị ở một số lĩnh vực, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm
việc; giúp cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước các cấp xem xét lại việc ban
hành và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quyết định cho sát, đúng với
thực tiễn...
Sau khi được học môn Kiểm tra, giám sát trong lãnh đạo, tôi quyết định
chọn đề tài “Vị trí, vai trị và thực trạng kiểm tra, giám sát trong lãnh đạo tại Sở
Ngoại vụ tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2020” để làm bài thu hoạch của mình,
trong đó sẽ tập trung phân tích thực trạng kiểm tra, giám sát trong lãnh đạo của
cơ quan - nơi tôi đang công tác và từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao cơng
tác kiểm tra, giám sát tại Sở Ngoại vụ Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Lãnh đạo:
1


1.1. Khái niệm:
Lãnh đạo là quá trình hành động gây ảnh hưởng lên người khác nhằm
khơi dậy cảm xúc và cam kết cùng hành động vì mục tiêu chung.
1.2. Đặc điểm:
Một là, lãnh đạo là một hệ thống tổ chức xã hội:
Hệ thống này gồm có ba yếu tố: người lãnh đạo, người bị lãnh đạo và

hoàn cảnh tổ chức. Ba yếu tố này có mối quan hệ gắn bó mật thiết không thể
tách rời, phải kết hợp với nhau hài hịa để tạo nên hoạt động lãnh đạo có hiệu
quả.
Hai là, lãnh đạo là một quá trình hoạt động biến động:
Ba yếu tố của lãnh đạo tạo nên hai cặp mâu thuẫn cơ bản: (1) mâu thuẫn
giữa người lãnh đạo và người được lãnh đạo; (2) mâu thuẫn giữa chủ thể của
hoạt động lãnh đạo (thể thống nhất của người lãnh đạo với người bị lãnh đạo)
với khách thể của hoạt động lãnh đạo. “Đầu vào” của người lãnh đạo (sức ảnh
hưởng của thống nhất quản lý và hướng dẫn) cần phải thông qua hành động của
người bị lãnh đạo biến thành “đầu ra” hiệu quả. Hoàn cảnh khách quan có hai
mặt (tính tự nó và tính vì nó), quá trình chủ thể của hoạt động lãnh đạo tác động
vào hồn cảnh khách quan thể hiện thành q trình cụ thể hồn cảnh khách quan
từ “vật tự nó” khơng ngững chuyển hóa thành “vật vì nó”.
Ba là, lãnh đạo là hoạt động quản lý tầng cao nhất:
Lãnh đạo là q trình người lãnh đạo thơng qua ảnh hưởng, tổ chức, chỉ
huy, điều hòa, khống chế hành động, chỉ đường người bị lãnh đạo thực hiện mục
tiêu dự định. Điều này chứng tỏ lãnh đạo có tính chất quản lý nhưng lãnh đạo
thiên về quyết sách phương châm chính trị lớn, nhìn tồn cục, nhìn về tương lai.
Như vậy, lãnh đạo có thuộc tính chung của quản lý lại cao hơn quản lý.
Bốn là, tính quyền uy:
Mọi sự lãnh đạo đều có quyền uy, hai mặt này có quan hệ khăng khít.
Quyền uy của lãnh đạo thể hiện trên quan hệ giữa người lãnh đao và người được
lãnh đạo, nó vừa phản ánh quyền lực và uy tín của người lãnh đạo, vừa phản ánh
sự công nhận và phục tùng của người bị lãnh đạo đối với quyền lực và uy tín ấy.
2. Kiểm tra, giám sát trong hoạt động lãnh đạo:
2.1. Khái niệm:
Kiểm tra là quá trình thiết lập các tiêu chuẩn đo lường kết
quả thực hiện mục tiêu, phân tích và điều chỉnh các sai lệch nếu
2





nhằm

đạt

tới

những

kết

quả

mong muốn.
Giám sát là theo dõi, xem xét và đánh giá hoạt động của
tổ chức và công việc của cá nhân có thực hiện đúng những điều
quy định khơng.
Kiểm tra, giám sát trong lãnh đạo là hoạt động thường
xuyên của người LĐ nhằm theo dõi, xem xét tình hình hoạt động
của các tổ chức, cá nhân để phòng ngừa, ngăn chặn những sai
lầm, khuyết điểm và xử lý kịp thời những vi phạm ngay từ khi
mới manh nha, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của cơ quan, tổ chức.
2.2. Mục đích của kiểm tra, giám sát:
- Nắm bắt được hiện trạng: Chỉ rõ ưu điểm, thành tích để
phát huy, nhân rộng; kịp thời phát hiện thiếu sót, khuyết điểm
và nguyên nhân của tổ chức, cá nhân để lưu ý, cảnh báo, nhắc
nhở, yêu cầu sửa chữa, khắc phục, chủ động phòng ngừa, ngăn

chặn xảy ra vi phạm từ khi còn manh nha;
- Điều chỉnh các hoạt động trong tương lai;
- Khen thưởng, thúc đẩy sự phát triển.
2.3. Chủ thể và đối tượng của kiểm tra, giám sát:
* Chủ thể của kiểm tra, giám sát bao gồm:
- Tập thể lãnh đạo
- Cá nhân người lãnh đạo
* Chủ thể phối hợp:
- Các tổ chức trong hệ thống chính trị, cá nhân, các tổ chức
trong hệ thống chính trị
- Các tổ chức trực thuộc, các cá nhân, các cơ quan chức
năng về bảo vệ pháp luật, nhân dân, cơ quan truyền thông.
* Đối tượng của kiểm tra, giám sát gồm:
- Các tổ chức trực thuộc
- Cá nhân thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý
2.4. Vị trí, vai trị:
2.4.1. Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan trong
hoạt

động

của mọi tổ chức và con người trong xã hội:
Hoạt động của tổ chức và con người trong xã hội là hoạt
động


3


ý thức. Trước khi hành động, các tổ chức và con người đều phải

suy

nghĩ,

xác

định rõ chủ trương, kế hoạch tiến hành và tổ chức thực hiện
thắng lợi chủ trương, kế hoạch ấy trong thực tiễn. Song, thực
tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng theo
quy luật khách quan, nên chủ trương, kế hoạch đã xác định dù
được nghiên cứu tính tốn, cân nhắc kỹ vẫn có thể có những
thiếu sót, sơ hở, thậm chí sai lầm nghiêm trọng; hơn nữa, con
người thực hiện các nhiệm vụ đó cũng chịu chi phối của nhiều
yếu tố. Vì vậy, muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem
xét tình hình thực tế để nhận xét, đánh giá, có nghĩa là phải
kiểm tra, giám sát.
2.4.2 Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo
quan trọng để duy trì sự vận động ổn định và phát triển của
một tổ chức:
Muốn tổ chức đạt được mục tiêu (ngắn hạn hay dài hạn) và
phát

triển

khơng ngừng, địi hỏi phải tiến hành kiểm tra, giám sát thường
xun,

kịp

thời,


có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nếu tổ chức
việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn "pha". Bao
nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán
bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười
khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm
tra". "Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và
cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm
gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc
củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức".
2.4.3. Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường
xuyên của người lãnh đạo:
Thông qua kiểm tra, giám sát, người lãnh đạo mới biết rõ
năng

lực
4




khuyết điểm, hạn chế của nhân viên thừa hành, kịp thời phát
hiện

những

sai

sót


trong khâu tổ chức thực hiện quyết định. Đồng thời, thông qua
kiểm tra, giám sát, bằng cách thức sử dụng nghệ thuật lãnh đạo
của mình, người lãnh đạo, quản lý đưa ra các phương pháp
động viên, khen thưởng, khích lệ tinh thần tích cực làm việc của
nhân viên. Có thể nói rằng, nếu người lãnh đạo, quản lý quan
tâm thường xuyên và trực tiếp tham gia làm công tác kiểm tra,
giám sát thì sẽ góp phần vào việc duy trì sự ổn định và phát
triển của tổ chức, ổn định về tư tưởng trong cán bộ, nhân viên.
2.4.4. Thể hiện quyền hạn, trách nhiệm của người lãnh
đạo:
Công tác kiểm tra, giám sát gắn liền một cách tất yếu với
quyền hạn, trách nhiệm của người lãnh đạo, bởi người lãnh đạo
khơng chỉ là người đưa ra những đường lối, chính sách cho tổ
chức, thực hiện công tác cán bộ mà còn phải kiểm tra, giám sát
việc thực hiện những đường lối, chính sách đó của tổ chức, của
đội ngũ cán bộ.
2.4.5. Kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng của
công tác xây dựng Đảng:
Sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng
bắt nguồn từ sự đồn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng,
được đảm bảo bằng sự thông nhất vật chất về tổ chức. Để thực
hiện vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của mình trước giai cấp
và dân tộc là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành
công chủ nghĩa cộng sản, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới,
tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và
tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có

5


đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương
thức lãnh đạo khoa học, ln gắn bó với nhân dân. Để đạt được
điều đó, Đảng phải coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát bảo đảm không ngừng nâng cao sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, có tiến
hành tốt cơng tác kiểm tra, giám sát mới góp phần thiết thực và
có hiệu quả vào việc phịng ngừa và khắc phục những nguy cơ
có thể nảy sinh của đảng cầm quyền.
2.3.6. Tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát trong lãnh
đạo là góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội, dân chủ,
cơng bằng, văn minh:
Đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp trong giai đoạn cách mạng hiện nay
do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo. Đảng ta là đảng cầm quyền
nên những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất
của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của
Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng. Trong điều kiện thị trường, kinh tế nhiều thành
phần, hội nhập quốc tế, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ
chịu sự tác động của nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả những
hành động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng đang đứng trước thách thức mới; một bộ
phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ
luật, sa địa về đạo đức và lối sống; tổ chức đảng cơ sở ở nhiều
nơi còn yếu kém ...

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, đổi
mới công tác xây dựng Đảng, kiên quyết đấu tranh với những
6


phần tử cơ hội, xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy trong sạch,
vững mạnh... Giữ vững, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
và năng lực của cán bộ, đảng viên, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng
cường, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đặc biệt
là kiểm tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng và
kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

II. THỰC TRẠNG KIỂM TRA, GIÁM SÁT TRONG LÃNH
ĐẠO TẠI SỞ NGOẠI VỤ TỈNH VĨNH PHÚC:
1. Giới thiệu chung:
Sở Ngoại vụ tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập vào tháng 4/2008 theo Quyết
định Số 1010/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh. Sở Ngoại vụ là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham mưu giúp Tỉnh ủy, Hội đồng nhân
dân tỉnh và UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các hoạt động
đối ngoại của tỉnh và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền
của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật.
Sở Ngoại vụ có những nhiệm vụ và quyền hạn chính sau đây: (1) Tham
mưu cho tỉnh định hướng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ trương và lộ trình hội
nhập quốc tế của tỉnh; tham mưu xây dựng các văn bản chỉ đạo, Nghị quyết
chuyên đề, chương trình, kế hoạch, đề án hoạt động đối ngoại của theo định kỳ
hàng năm hoặc theo nhiệm kỳ 05 năm của tỉnh; (2) Tham mưu về công tác hợp

tác, hội nhập quốc tế của tỉnh phù hợp với đường lối chính sách đối ngoại của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; (3) Làm đầu mối quan hệ của UBND tỉnh với
Bộ Ngoại giao và các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc quảng
bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ về
xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các
tổ chức kinh tế của tỉnh ở nước ngồi; (4) Tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch và chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngồi tại tỉnh; (5) Tổ chức
thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
7


người Việt Nam ở nước ngoài; vận động, hướng dẫn và hỗ trợ người Việt Nam ở
nước ngoài và thân nhân của họ trong làm việc, đầu tư kinh doanh, sinh sống và
học tập tại tỉnh; (6) Quản lý hoạt động xuất nhập cảnh của cán bộ, công chức
thuộc đối tượng sử dụng hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ; tiếp nhận hồ sơ,
kiểm tra, quản lý và đề nghị cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu ngoại giao,
hộ chiếu công vụ tại tỉnh theo quy định; (7) Quản lý phóng viên nước ngồi hoạt
động báo chí tại tỉnh; xây dựng chương trình hoạt động, tổ chức việc tiếp và trả
lời phỏng vấn của lãnh đạo tỉnh, cung cấp thơng tin có định hướng, theo dõi và
quản lý hoạt động của phóng viên nước ngồi theo quy định của pháp luật; (8)
Thực hiện tổ chức và quản lý các hội nghị, hội thảo quốc tế tại tỉnh thuộc thẩm
quyền quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh; (9) Thực hiện quản lý nhà nước về
ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế tại tỉnh; (10) Làm cơ quan đầu mối
giúp UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức
phi chính phủ nước ngồi tại tỉnh; quản lý các hoạt động quan hệ và vận động
viện trợ phi chính phủ nước ngồi trên địa bàn tỉnh; xây dựng chương trình, kế
hoạch và hỗ trợ các sở, ban, ngành, địa phương trong vận động viện trợ phi
chính phủ nước ngồi…
Về cơ cấu tổ chức, Sở Ngoại vụ có bốn phịng chun môn và một đơn vị
sự nghiệp trực thuộc với tổng số 32 biên chế và một số cán bộ hợp đồng.

* Về đội ngũ lãnh đạo Sở Ngoại vụ tỉnh Vĩnh Phúc:
Trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan có 08 người giữ
các chức vụ lãnh đạo được bổ nhiệm theo đúng quy trình và quy định. Trong đó,
lãnh đạo Sở là 05 người, lãnh đạo đơn vị sự nghiệp là 03 người. Số người đạt
trình độ cao cấp lý luận chính trị là 06 người, chiếm 75%; trung cấp lý luận
chính trị: 02 người, tương đương 25%; 08/08 người tốt nghiệp đại học trở lên;
100% đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên qua các năm kể từ khi được bổ nhiệm
vào vị trí lãnh đạo. Về độ tuổi: từ 30 - 40 tuổi chiếm 50%, dưới 40 - 50 tuổi
chiếm 40%, trên 50 tuổi: 10%; về giới tính: nữ chiếm 37,5%, nam 62,5%.
* Một số thành tựu đã đạt được dưới sự lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo Sở Ngoại vụ:
Kể từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cơ quan, Sở Ngoại vụ đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại quan trọng
8


trên cả ba trụ cột ngoại giao (ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại
giao văn hóa), cụ thể như sau:
Về ngoại giao chính trị, các hoạt động hợp tác quốc tế được triển khai
mạnh mẽ, vừa duy trì các mối quan hệ truyền thống, vừa mở rộng hợp tác với
các địa phương mới. Tính đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã có quan hệ với 11 địa
phương của Lào (trong đó có thủ đơ Viêng Chăn); Hàn Quốc (kết nghĩa với tỉnh
Chungcheongbuk, có quan hệ hữu nghị với tỉnh Geonggy); Nhật Bản (ký kết
hợp tác hữu nghị với tỉnh Akita); Trung Quốc (Vân Nam); Philippines
(Kidapawan); Hoa Kỳ (bang Oregon)…; hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất với tổng
giá trị trên 11 triệu USD cho một số tỉnh Bắc Lào; hỗ trợ đào tạo gần 200 cán
bộ, sinh viên cho các địa phương Bắc Lào; hỗ trợ 04 cán bộ của tỉnh
Chungcheongbuk sang học tập và làm việc tại Vĩnh Phúc… Bên cạnh đó, tỉnh
cịn có mối quan hệ thân thiết, hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Đại sứ quán các
nước tại Việt Nam như Ấn Độ, Irseal, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Về ngoại giao kinh tế, hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế
triển khai hiệu quả thơng qua các chính sách mở cửa thu hút đầu tư, cải thiện
môi trường đầu tư thu hút đầu tư của tỉnh. Tính đến nay, đã thu hút được hơn
415 dự án FDI với số vốn đăng ký trên 6,2 tỷ USD của các nhà đầu tư đến từ 19
quốc gia và vùng lãnh thổ. Các doanh nghiệp FDI đóng góp cho nguồn thu ngân
sách của tỉnh, tạo việc làm cho người lao động và chuyển giao công nghệ, khoa
học kỹ thuật. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh có mức tăng trưởng khá, đạt hơn 05
tỷ USD/ năm; kiều hối do kiều bào người lao động ở nước ngoài của tỉnh gửi về
đạt 03- 05 triệu USD/ năm; hàng năm có từ 15 - 17 tổ chức phi chính phủ nước
ngồi thực hiện 25 - 30 chương trình/dự án viện trợ với giá trị giải ngân đạt từ
02 - 2,5 triệu USD/năm.
Về ngoại giao văn hóa, các hoạt động ngoại giao văn hóa, thơng tin đối
ngoại được triển khai với nhiều hoạt động ý nghĩa được tổ chức thành cơng như
Ngày Văn hóa ASEAN tại Vĩnh Phúc (2017), giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật
Bản (2013, 2017), giao lưu hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc (2013, 2018), Ngày
quốc tế Yoga tại Vĩnh Phúc (tổ chức vào tháng 6 hàng năm)…

9


Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại nhân dân đã được đổi mới và nâng cao
hiệu quả, tập hợp được hàng ngàn người tham gia vào 12 hội hữu nghị song
phương và đa phương, trở thành hạt nhân của đối ngoại nhân dân, giữ mối liên
hệ chặt chẽ với kiều bào Vĩnh Phúc ở nước ngoài; thường xuyên tổ chức các
hoạt động giao lưu, gặp mặt nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của Việt Nam
cũng như của các nước bạn qua đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết hữu
nghị giữa nhân dân trong tỉnh với các bạn bè quốc tế.
Có được những thành tựu như vậy là nhờ bên cạnh việc luôn bám sát chủ
trương, chính sách, quy định về cơng tác đối ngoại để tham mưu thực hiện tốt
các nhiệm vụ, lãnh đạo Sở Ngoại vụ cũng luôn chú trọng rèn luyện, nâng cao

phẩm chất đạo đức của mình để đáp ứng được yêu cầu địi hỏi của q trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của địa phương, đồng thời đảm bảo lãnh đạo
cơ quan theo đúng định hướng, tầm nhìn của cơng tác đối ngoại trong tình hình
mới.
2. Thực trạng cơng tác kiểm tra, giám sát tại Sở Ngoại vụ:
2.1. Kết quả đạt được:
Đảng bộ Sở Ngoại vụ được thành lập vào tháng 3/2016 trên cơ sở nâng
cấp từ Chi bộ Sở Ngoại vụ. Hiện nay, Đảng bộ Sở Ngoại vụ có 36 đảng viên
(chính thức: 36, dự bị: 0), trong đó có 20 đảng viên nam, 16 đảng viên nữ, được
sinh hoạt tại 05 chi bộ trực thuộc, gồm: Chi bộ Văn phòng, Chi bộ Thanh tra,
Chi bộ Hợp tác quốc tế và Lãnh sự, Chi bộ đơn vị sự nghiệp và Chi bộ Liên
hiệp.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, công tác kiểm tra, giám sát của Sở Ngoại vụ
Vĩnh Phúc đã đạt được một số kết quả như sau:
Xác định công tác kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng,
trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, kể từ khi được
thành lập vào năm 2016, cấp ủy cơ quan luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Đảng ủy Sở Ngoại vụ đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt, triển khai
thực hiện đầy đủ các nghị quyết, quyết định, quy định, hướng dẫn của cấp trên
về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng cho cán bộ lãnh đạo
10


chủ chốt, đồng thời chỉ đạo các chi bộ trực thuộc triển khai quán triệt đến toàn
thể đảng viên. Trên cơ sở các văn bản, hướng dẫn của cấp trên, Đảng bộ Sở đã
ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ tổ chức triển khai và thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; hàng năm căn cứ chương trình hoạt động, bám
sát nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tế của tỉnh và cơ quan, sự tham mưu của
Ủy ban kiểm tra, Đảng bộ Sở Ngoại vụ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm

tra, giám sát và chỉ đạo các chi bộ thực hiện nghiêm túc và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát.
Đã tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt các văn bản, nghị quyết, chỉ thị
về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng như Quy định tại Điều 30 - Điều lệ
Đảng, Quyết định 46-QĐ/TW ngày 01/11/2011 của Ban chấp hành Trung ương
hướng dẫn thực hiện quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng trong chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng Khoá XI; Quyết định số
68-QĐ/TW ngày 21-3-2012 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát
trong Đảng; Nghị quyết 01-NQ/ĐUK, ngày 15/7/2013 về của Ban chấp hành
Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh về "Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám
sát của cấp uỷ cơ sở giai đoạn 2013-2020"; Quy định số 30-QĐ/TW ngày
26/7/2016 của Ban chấp hành về việc thi hành chương VII và Chương VIII Điều
lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Qua công tác phổ
biến, quán triệt các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát đã tạo
được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cấp uỷ và Ủy
ban Kiểm tra Đảng uỷ, trước hết là nhận thức của đồng chí Bí thư Đảng uỷ, các
Bí thư chi bộ về vị trí, vai trị, ý nghĩa, tác dụng của cơng tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng; vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; trách nhiệm của Đảng bộ, các Chi
bộ, Ủy ban Kiểm tra Đảng uỷ và của cán bộ, đảng viên đối với cơng tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng góp phần đấu tranh phịng, chống tham nhũng, tiêu
cực, suy thối, đồng thời chủ động phịng ngừa, ngăn chặn kịp thời tình trạng vi
phạm trong Đảng.
Trên cơ sở mục tiêu Nghị quyết 01-NQ/ĐUK ngày 15/7/2013 của Ban
chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh về "Nâng cao chất lượng công tác
11


kiểm tra, giám sát của cấp uỷ cơ sở giai đoạn 2013-2020" đề ra, hàng năm, Đảng
uỷ, Ủy ban Kiểm tra và 100% các chi bộ trực thuộc Sở đã xác định được phương

hướng, nhiệm vụ và xây dựng được chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ
thể sát với nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng đảng để chỉ đạo thực hiện.
Ủy ban Kiểm tra của Đảng bộ Sở Ngoại vụ thường xuyên được củng cố,
kiện toàn về tổ chức đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu; 100%
các chi bộ trực thuộc đã phân cơng được đồng chí cấp uỷ viên phụ trách công
tác kiểm tra, giám sát theo quy định. Đảng uỷ, các chi bộ trực thuộc cử cán bộ,
đảng viên tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng do cấp trên tổ chức và giao chỉ tiêu tham dự.
Bên cạnh đó, Đảng bộ Sở Ngoại vụ cũng đã có kiến nghị về việc xây
dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước phục vụ công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Dựa vào tình hình thực tiễn, thơng
qua các báo cáo của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Đảng
uỷ và các Chi bộ trực thuộc Sở thường xun có những đề xuất, kiến nghị nhằm
hồn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước phục vụ công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Thực hiện tốt việc công khai các chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên
biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan Nhà nước đã được Đảng uỷ lãnh đạo,
chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc như: cơng tác giới thiệu đồn
viên ưu tú cho đảng; cơng tác tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển,
đào tạo cán bộ, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công
chức, viên chức và người lao động và việc tổ chức, triển khai các hoạt động,
nhiệm vụ được giao khác.
Ngồi ra, Đảng bộ ln chú trọng việc đổi mới, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp uỷ và Uỷ ban Kiểm tra cơ sở bảo đảm có hiệu
lực, hiệu quả. Trong những năm qua, Đảng uỷ đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ
đạo Ủy ban Kiểm tra Đảng uỷ và các chi bộ trực thuộc nghiêm túc thực hiện các
quy định của Đảng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đồng thời đổi mới,

12



tăng cường đối với công tác này trên mọi mặt hoạt động, nhiệm vụ chính trị,
chun mơn được giao.
Để thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát, trong giai đoạn 2016 2020, Đảng uỷ đã lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra và các chi bộ trực thuộc
tiến hành kiểm tra các nội dung gồm: triển khai quán triệt, học tập và tổ chức
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", gắn với việc thực
hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ
thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tổ chức học tập, triển khai,
quán triệt, tuyên truyền phổ biến, chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm
việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đồn kết nội bộ;
việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm; phòng chống tham nhũng, lãng phí;
rèn luyện phẩm chất, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên; lãnh chỉ đạo và tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chi bộ cơ sở theo quy định số 98QĐ/TW ngày 22/3/2004 của Ban Bí thư; lãnh, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nội
dung sinh hoạt chi bộ theo Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 02/3/2012 của
Ban tổ chức Trung ương; kiểm tra việc lãnh chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ
trong cơ quan theo tinh thần Chỉ thị số 30 của Bội Chính trị và Nghị định 71 của
Chính phủ đối với Chi bộ cơ sở; lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiên cải cách
hành chính, tuyển dụng, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.
Nhằm giúp Ủy ban Kiểm tra và các chi bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát hàng năm được thuận tiện và đảm bảo quy định hiện hành, Đảng uỷ đã
xây dựng quy trình hướng dẫn và các mẫu biểu kèm theo. Do vậy, các đợt kiểm
tra, giám sát thường xuyên, giám sát theo kế hoạch, chuyên đề, kiểm tra có dấu
hiệu vi phạm được thực hiện khá nghiêm túc; tổ chức đảng, cán bộ cấp uỷ, đảng
viên được kiểm tra, giám sát thực hiện đầy đủ các yêu cầu theo chương trình, kế
hoạch đề ra; quy trình, cách thức, hồ sơ các cuộc kiểm tra, giám sát đảm bảo

đúng quy định và được lưu trữ đầy đủ.
13


Năm 2020, qua quá trình kiểm tra, giám sát, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã
phát hiện 01 trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật. Ủy ban đã thực hiện đúng
quy trình và đề xuất Đảng ủy Sở Ngoại vụ thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển
trách.
Đồng thời, Đảng bộ Sở luôn chú trọng nâng cao chất lượng công tác
nghiên cứu lý luận, đổi mới công tác sơ kết, tổng kết định kỳ, chuyên đề về công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp ủy. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và trách nhiệm, trình độ của đảng
viên.
2.2. Đánh giá:
2.2.1. Thuận lợi:
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra,
giám sát, Đảng bộ Sở Ngoại vụ luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh
ủy, Ban Cán sự Đảng của Ủy ban nhân dân tỉnh, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh;
từ đó kịp thời quán triệt, triển khai đến các chi bộ trực thuộc và nhìn chung các
chi bộ đều thực hiện nghiêm túc.
Hàng năm Đảng uỷ, Ủy ban kiểm tra Đảng uỷ, các Chi bộ trực thuộc đã
bám sát các quy định hiện hành, từ đó chủ động xây dựng chương trình kiểm tra,
giám sát và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ.
2.2.2. Tồn tại, hạn chế:
Số lượt cán bộ, đảng viên được kiểm tra hàng năm chưa nhiều, do tư tưởng
và nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát của đảng đối với tổ chức đảng và
đảng viên ở một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế.
Một số cán bộ chưa thực sự coi trọng công tác kiểm tra, giám sát của đảng
chưa coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, không thể thiếu nhằm xây dựng và
củng cố tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong

hàng ngũ của Đảng.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát tại Sở
Ngoại vụ:

14


Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng các cấp trong việc học
tập, quán triệt, triển khai thực hiện các quy định của đảng về công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật Đảng.
Ln tạo ra sự đồn kết thống nhất trong cấp uỷ của cơ quan và các đơn vị
trực thuộc trong lãnh chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ
luật Đảng;
Luôn bám sát các quy định hiện hành về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật Đảng trong quá trình tham mưu, ban hành các văn bản liên quan.
Thường xuyên nghiên cứu lý luận, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo,
tuyên truyền, quán triệt, tổ chức, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
Đảng.
Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên, người
đứng đầu cơ quan tổ chức về ý nghĩa và vai trị quan trọng của cơng tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật Đảng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm.

KẾT LUẬN
15


Kiểm tra, giám sát là một bộ phận vô cùng quan trọng của công tác xây
dựng Đảng; là cơ sở để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo của người lãnh đạo.

Thông qua kiểm tra, giám sát, việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và chun
mơn của tổ chức càng có hiệu quả và nghiệm túc.
Kể từ khi được thành lập vào năm 2016 đến nay, Sở Ngoại vụ luôn chú
trọng thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và đạt được một số kết quả nhất
định. Qua đó, đã nâng cao vai trị lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, sự
đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ
cương, kỷ luật đảng. Phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thối về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015- 2020
và những năm tiếp theo; tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và
hành động trong toàn Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh, trước hết là trong cấp uỷ,
đặc biệt là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng đối với công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật của Đảng; từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơng tác kiểm
tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới; kịp thời phát hiện ưu điểm của tổ
chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng; đồng thời phát hiện, làm rõ
thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh khi có vi
phạm nhằm góp phần xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Trong những năm tới, Đảng bộ Sở Ngoại vụ sẽ tiếp tục phát huy những kết
quả đã đạt được, tiếp tục tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ của cơ
quan và các đơn vị trực thuộc; luôn bám sát các quy định hiện hành về kiểm tra,
giám sát, kỷ luật Đảng trong quá trình triển khai công tác kiểm tra, giám sát
hàng năm để trở thành Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh./.

16



×