Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Tieu luan thực trạng đầu tư tài chính hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.2 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư kiếm lợi nhuận luôn là mục tiêu của rất nhiều người. Sự phát triển
của nền kinh tế hiện nay đã mở ra thêm nhiều cơ hồi đầu tư, không chỉ trên
lĩnh vực kinh tế mà còn trên lĩnh vực tài chính. Thị trường tài chính Việt Nam
đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, góp phần vào công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Một số kênh đầu tư sinh lợi được nhiều người lựa
chọn phải kể đến như: đầu tư trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoáng… Đầu tư tài
chính không chỉ là sự lựa chọn của các cá nhân mà còn là của các tổ chức
kinh doanh để huy động nguồn vốn, tìm kiếm lợi nhuận. Đây là lĩnh vực dễ
sinh lời nhưng cũng chứa đầy rủi ro, mạo hiểm cho các nhà đầu tư. Sự thu hút
mạnh mẽ nhiều nhà đầu tư cũng như những cơ hội, thách thức, rủi ro trong
đầu tư tài chính đã khiến nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “PHÂN
TÍCH ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH” để hiểu hơn về tình hình đầu tư tài chính ở Việt
Nam.
Trong quá trình làm bài tiểu luận môn này, tuy được sự hướng dẫn tận tình
của thày và sự cố gắng của nhómnhưng do kiến thức còn hạn chế nên chúng
em không tránh khỏi một số sai sót. Kính mong thầy xem xét và bổ sung để
chúng em có thể hoàn thiện về đề tài này hơn.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Chúng em xin chân thành cám ơn!CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự
xuất hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan của
việc giải quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn trong
nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược
nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn. Mâu thuẫn này
ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung
gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và người cần vốn. Khi kinh
tế hàng hóa phát triển cao, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn
nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung
và cầu về các nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy


động vốn như trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính
phủ - Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán.
Và từ đó xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu
khác nhau các loại chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường
để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính.
Do đó, Cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự giải
quyết mẫu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các
công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua
bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh
tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ mà đỉnh cao của nó
là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài
chính.
Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất
hiện những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng cung
Trang 2
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ứng nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các
hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển, hình
thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau
dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính.
2. Khái niệm vá các phân loại đầu tư tài chính
a) Khái niệm
Hoạt động đầu tư tài chính là việc ta sử dụng các loại tài sản tài chính đem
đi dùng vào các mục đích khác nhau nhằm thu lại lợi nhuận từ nó. Thực tế các
mục đích khác nhau chia thành nhiều thứ như : đầu tư vốn vào các đơn vị
khác, đầu tư vốn vào thị trường chứng khoán, đầu tư vốn vào thị trường ngoại
tệ,
Đầu tư tài chính bao gồm đầu tư vào các lĩnh vực như: Váng, chứng

khoáng( cổ phiếu, trái phiếu,…), bất động sản, các đồng tiền,….
Trang 3
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
CHƯƠNG II: YẾU TỐ CẦN ĐỂ ĐƯA RA MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐẦU
TƯ TÀI CHÍNH
1. Phân tích thị trường chứng khoán
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, môi trường xã hội và chính trị luôn có
những tác động nhất định đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Các
điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến những quyết định mua bán các loại
hàng hoá “tài chính” trên thị trường đầu tư - thông qua thị trường chứng
khoán. Đó là những rủi ro do những yếu tố nằm ngoài công ty và gây nên
những ảnh hưởng rộng rãi đến thị trường tài chính.
• Lạm phát
Lạm phát là sự mất giá của đồng tiền làm thay đổi hành vi tiêu dùng và
đầu tư của dân cư. Lạm phát thường được đo qua chỉ số giá tiêu dùng.
Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy lạm phát và thị truờng chứng
khoán có mối liên hệ nghịch chiều, bởi lẽ xu hướng của lạm phát xác định
tính chất tăng trưởng. Lạm phát tăng cao luôn là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế
đang nóng, báo hiệu sự tăng trưởng kém bền vững, trong khi thị trường chứng
khoán như chiếc nhiệt kế đo sức khỏe nền kinh tế.
Khi lạm phát tăng cao, tiền mất giá, người dân không muốn giữ tiền mặt
hoặc gửi tiền trong ngân hàng mà chuyển sang nắm giữ vàng, bất động sản,
ngoại tệ mạnh khiến một lượng vốn nhàn rỗi đáng kể của xã hội nằm im
dưới dạng tài sản “chết”. Thiếu vốn đầu tư, không tích lũy để mở rộng sản
xuất, sự tăng trưởng của doanh nghiệp (DN) nói riêng và cả nền kinh tế nói
chung sẽ chậm lại.
Lạm phát tăng cao còn ảnh hưởng trực tiếp tới các DN, dù hoạt động kinh
doanh vẫn có lãi, chia cổ tức ở mức cao nhưng tỷ lệ cổ tức khó gọi là hấp dẫn
khi lạm phát cao. Điều này khiến hoạt động đầu tư tài chính không còn là

kênh sinh lợi.
Trang 4
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Leeb và Conrad (1996) đã thống kê tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng của
thị trường chứng khoán Mỹ trong giai đoạn từ năm 1929 đến năm 1981 và
nêu mối liên hệ: “Lạm phát tăng cao luôn là kẻ thù của thị trường cổ phiếu”.
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm của
Gan, Lee và Zhang (2006); Jiranyakul (2009).
• Cung tiền
Quan hệ cơ bản giữa lượng cung tiền và thị trường chứng khoán rõ ràng là
cùng chiều được thể hiện thông qua chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ mở rộng:
Nếu lượng cung tiền mở rộng sẽ dẫn đến một sự gia tăng trong tiêu dùng
hàng hóa cũng như làm gia tăng việc sử dụng các tài sản tài chính mà chứng
khoán là một trong số đó. Khi lượng cung tiền tăng, thanh khoản vượt trội sẽ
ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán khá mạnh do tác động của chính sách
tiền tệ tương đối nhanh và trực tiếp. Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi
suất của nền kinh tế, làm giảm lãi suất chiết khấu của chứng khoán qua đó
làm tăng giá kỳ vọng và tăng thu nhập.
Chính sách tiền tệ thắt chặt:
Lãi suất cao hơn do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt thường có
tác động xấu cho thị trường chứng khoán. Lý do: thứ nhất, làm giảm giá của
chứng khoán do làm tăng lãi suất chiết khấu trong các mô hình định giá; thứ
hai, làm cho các chứng khoán thu nhập cố định trở thành một lựa chọn hấp
dẫn hơn làm giảm thanh khoản vào cổ phiếu; thứ ba, làm giảm xu hướng vay
mượn để đầu tư vào chứng khoán; và cuối cùng, làm tăng chi phí vận hành
DN do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận công ty.
Nghiên cứu của Friedman và Schwartz (1963) đã đưa ra lời giải thích đầu
tiên về mối quan hệ giữa lượng cung tiền và thu nhập chứng khoán. Theo đó

một sự gia tăng trong cung tiền sẽ làm gia tăng thanh khoản và tín dụng cho
Trang 5
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
nhà đầu tư cổ phiếu dẫn đến giá các chứng khoán cao hơn. Jiranyakul (2009),
Mukherjee và Naka (1995), Kwon và Shin (1999) cũng đã nhận thấy rằng có
một mối quan hệ thuận chiều giữa cung tiền và biến động giá chứng khoán,
nghĩa là cung tiền tăng lên sẽ dẫn đến sự tăng trưởng và phát triển ổn định
hơn cho thị trường chứng khoán.
• Tỷ giá hối đoái
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và thu nhập từ chứng khoán được rất
nhiều nhà nghiên cứu nghiên cứu giải thích, tuy nhiên, kết quả của những
nghiên cứu này vẫn không thống nhất được chiều ảnh hưởng của tỷ giá lên giá
chứng khoán.
Về mặt lý thuyết có 3 cách tiếp cận mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và
giá chứng khoán:
Đầu tiên, theo cách tiếp cận của Dornbusch và Fisher (1980) cho thấy mối
quan hệ cùng chiều giữa giá chứng khoán và tỷ giá. Hai ông lý luận: một khi
đồng tiền trong nước được định giá thấp sẽ làm cho những DN trong nước
tăng tính cạnh tranh hơn, kết quả làm gia tăng trong hoạt động xuất khẩu của
họ. Điều này làm cho giá cổ phiếu của những DN này tăng lên.
Tuy nhiên, kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại nếu như những DN này sử dụng
nhiều chi phí nhập khẩu cho đầu vào trong sản phẩm của họ. Sự gia tăng chi
phí trong sản phẩm do đồng tiền trong nước được định giá thấp có thể làm
cho doanh thu và lợi nhuận của họ giảm, điều này sẽ làm cho giá cổ phiếu của
những DN này giảm.
Một cách tiếp cận khác bằng mô hình cân bằng danh mục đầu tư về tỷ giá,
Branson (1983) đã chứng minh rằng: quan hệ giữa tỷ giá và giá cổ phiếu là
ngược chiều. Nguyên nhân tạo ra kết quả này có thể được giải thích từ chiều
tác động của giá cổ phiếu lên tỷ giá. Trong mô hình này, những nhà đầu tư cá

Trang 6
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
nhân nắm giữ những tài sản trong nước và tài sản nước ngoài (bao gồm cả
tiền tệ trong danh mục đầu tư của họ).
Ở đây, tỷ giá hoái đoái giữ một vai trò là điều chỉnh cân bằng cung và cầu
tài sản. Một khi những nhà đầu tư cá nhân này muốn mua nhiều tài sản trong
nước hơn thì họ sẽ bán bớt những tài sản nước ngoài mà hiện tại ít hấp dẫn
họ. Điều này sẽ dẫn đến đồng tiền trong nước được định giá cao hay tỷ giá
giảm (vì tỷ giá được xác định là giá của một đơn vị ngoại tệ được tính theo
giá của một đồng tiền khác – trong nước), vì vậy mối quan hệ của giá chứng
khoán và tỷ giá là ngược chiều.
Sự tăng lên về giá của những tài sản trong nước làm cho những nhà đầu tư
gia tăng nhu cầu của họ về tiền tệ, điều này lại làm cho lãi suất gia tăng. Một
hoạt động khác cũng làm cho mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá
ngược chiều là khi có sự gia tăng đầu tư trong khối đầu tư nước ngoài vào tài
sản trong nước cũng làm gia tăng giá chứng khoán. Điều này cũng là nguyên
nhân của sự đánh giá cao đồng tiền trong nước.
Khi tiếp cận tỷ giá như một tài sản (giá của một đơn vị ngoại tệ) trong thị
trường tài sản, Gavin (1989) trong mô hình tiền tệ đã khẳng định tỷ giá và giá
cổ phiếu có mối quan hệ yếu hoặc hoàn toàn không có quan hệ. Giống như
giá của những tài sản khác, tỷ giá cũng được xác định bởi tỷ giá tương lai kỳ
vọng. Bất kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến giá trị tương lai của tỷ giá thì sẽ ảnh
hưởng đến tỷ giá ở hiện tại.
Những yếu tố gây nên sự thay đổi trong tỷ giá có thể khác biệt với những
yếu tố gây nên sự thay đổi trong giá cổ phiếu, trong những trường hợp này sẽ
không tồn tại quan hệ giữa những tài sản trên. Khi có một vài yếu tố ảnh
hưởng đến cả giá cổ phiếu và tỷ giá, chúng ta hy vọng rằng có sự liên hệ giữa
hai biến này. Sự không liên hệ xảy ra khi: đồng tiền trong nước được định giá
thấp để nâng cao giá trị của những DN xuất khẩu hàng hóa nhưng nếu những

Trang 7
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
DN này nhập khẩu nhiều chi phí cho đầu vào ở nước ngoài thì giá cổ phiếu có
thể sẽ không tăng khi đó chi phí cho sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tăng làm
cho DN giảm tính cạnh tranh.
Mặt khác, những DN không xuất khẩu những sản phẩm của họ đến quốc
gia khác nhưng lại nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giá cổ phiếu của chúng
sẽ giảm khi đồng tiền trong nước được định giá thấp có thể nguyên nhân làm
cho doanh thu hoặc lợi nhuận của họ giảm.
Tóm lại, mối quan hệ giữa tỷ giá với chỉ số giá chứng khoán là một câu
hỏi thực nghiệm. Những nghiên cứu thực nghiệm ở các thị trường khác nhau
sẽ cho ra những kết quả khác nhau (có mối quan hệ cùng chiều, ngược chiều
hay thậm chí không có mối liên hệ ràng buộc nào giữa TTCK và tỷ giá).
• Giá vàng
Vàng khác với các tài sản khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh
khoản cao và nó phản ứng với những thay đổi giá (Lawrence, 2003, dẫn từ
Nguyễn Thị Hòa, 2011). Sự biến động của giá vàng ảnh hưởng đến phần lớn
các nền kinh tế trên thế giới trong đó có thị trường tài chứng khoán. Các nhà
đầu tư có thói quen sử dụng chiến lược quản trị rủi ro đơn giản là đa dạng hóa
trong danh mục đầu tư của họ các hàng hóa có cả đầu tư vàng hoặc dầu vì hai
khoản đầu tư này thường có mối quan hệ nghịch đảo với xu huớng của thị
trường chứng khoán.
Nỗi sợ hãi của người Mỹ được đo bằng chỉ số biến động của thị trường
(VIX - Volatility Index). Vàng và chỉ số biến động của thị trường có quan hệ
nhân quả theo chiều giá vàng tăng thì độ hỗn loạn của nền kinh tế tăng. Khi
giá vàng biến động tăng điều này có nghĩa là thị trường đang hoảng loạn và từ
đó làm giảm đi niềm tin của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư thường đầu tư vàng,
cả trực tiếp và gián tiếp để phòng ngừa rủi ro.
Trang 8

Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
2. Phân tích ngành
Việc phân tích các ngành ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của đẩu tư.
Trong những khoản thời gian bất kỳ tỷ suất sinh lời và rủi ro của các nhà
ngành khác nhau dẫn đến các nhà đầu tư phải có chính xác nhũng thông tin
cụ thể về lĩnh vực mà mình đã đầu tư để đảm bào rằng sẽ đem lại cho doanh
nghiệp mình những lợi nhuận như mong muốn.
3. Phân tích công ty và chứng khoán
Quan tâm đến doanh nghiệp đầu tư là việc thiết yếu cùa những nhà đầu tư.
Công ty tang trưởng như thế nào? nguồn gốc của tăng trưởng? và sự tăng
trưởng đó được duy trì bao lâu?. Đó là những vấn đề mà nhà đầu tư tài chính
nào cũng phải đặt ra khi đưa ra một quyết định đầu tư.
4.Nội dung cụ thể của các phân tích
a) Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bàn là quá trình đánh giá quá khứ, tương lai, triển
vọngvà tiềm năng sinh lời của công ty. Phân tích cơ bản là nghiên cứu
xác định giá trị của công ty,các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của công
tycác yếu tố ảnh hưởng đến giá giao dịch các loại chứng khoán của
công ty tên thị ttrường…Phân tích cơ bản được thực hiện bằng cách
nghiên cứu các báo cáo tài chính của công ty, tìm hiểu xu hướng lợi
tức, tìm hiểu các tỷ số phản ánh khà năng sinh lời, lải suất đầu tư. Phân
tích cơ bản là phân tích rất cần thiết, thể hiện các ý nghĩa:
- Phân tích cơ bản để biết tình trạng tăng trưởng của công ty trong
quá khứ để có thể dự đoán mức tăng trưởng của công ty trong
tương lai:
- Phân tích cơ bản để biết tỷ số phản ánh khả năng sinh lời và tỷ số
phản ánh doanh lợi để xác định được liệu công ty có bị đánhgiá
thấp hơn hoặc cao hơn giá thực của nó căn cứ vào tình hình của
toàn bộ thị trường.

Trang 9
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
- Phân tích cơ bản để biết sức cạnh tranh về tài chính của công ty
xem công ty vững mạnh đến mức nào, liệu có chịu nổi qua một
năm kinh doanh yếu kém hoặc một cuộc suy thoái kinh tế hay
không, công ty có nhiềi nợ nần hay không. Để từ đó đưa ra
những quyết định đầu tư.
b) Phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật là một phương pháp phân tích chứng khoán dự
báo hướng của giá cả thông qua việc nghiên cứu các dữ liệu thị trường
quá khứ, chủ yếu là giá cả và khối lượng.
Phân tích kỹ thuật sử dụng các mô hình và quy tắc trao đổi dựa trên
các biến đổi giá cả và khối lượng, chẳng hạn như chỉ số sức mạnh
tương đối, trung bình động, hồi quy, mối tương quan giá cả liên thị
trường và nội thị trường, chu kỳ kinh doanh, chu kỳ thị trường chứng
khoán hoặc, theo cách cổ điển, thông qua sự công nhận của các mẫu
hình biểu đồ.
Phân tích kỹ thuật là trái ngược với cách tiếp cận phân tích cơ bản
đối với phân tích chứng khoán và cổ phiếu. Phân tích kỹ thuật phân tích
giá cả, khối lượng và thông tin thị trường khác, trong khi phân tích cơ
bản nhìn vào các sự kiện của công ty, thị trường, tiền tệ hoặc hàng hóa.
Hầu hết các nhà môi giới lớn, nhóm hoạt động trao đổi, hoặc tổ chức tài
chính thường sẽ có cả hai đội ngũ phân tích kỹ thuật và phân tích cơ
bản.
Phân tích kỹ thuật được sử dụng rộng rãi trong các thương nhân và
các chuyên gia tài chính và được sử dụng thường xuyên bởi các thương
nhân trong ngày tích cực, các nhà tạo lập thị trường và các thương nhân
trên sàn. Trong những năm 1960 và 1970 nó đã bị các học giả gạt bỏ
rộng khắp. Trong một nghiên cứu gần đây, Irwin và Park[13] báo cáo

rằng 56 trong tổng số 95 nghiên cứu hiện đại cho thấy nó tạo ra các kết
quả tích cực nhưng lưu ý rằng nhiều kết quả tích cực đã được kết xuất
Trang 10
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
không rõ ràng bởi các vấn đề như can thiệp vào dữ liệu, cho nên bằng
chứng hỗ trợ của phân tích kỹ thuật là không thuyết phục; nó vẫn bị
nhiều học giả coi là giả khoa học. Các nhà nghiên cứu như Eugene
Fama nói rằng bằng chứng cho phân tích kỹ thuật là thưa thớt và không
phù hợp với dạng yếu của giả thuyết thị trường hiệu quả. Những người
sử dụng cho rằng ngay cả khi phân tích kỹ thuật không thể dự đoán
tương lai, nó cũng giúp xác định các cơ hội trao đổi.
Trong các thị trường ngoại hối, sử dụng của nó có thể rộng rãi hơn
phân tích cơ bản. Điều này không có nghĩa là phân tích kỹ thuật là thích
hợp hơn tại các thị trường ngoại hối, mà là phân tích kỹ thuật được
công nhận hơn do hiệu quả của nó có nhiều hơn tại đây so với những
thị trường khác. Trong khi một số nghiên cứu độc lập đã chỉ ra rằng các
quy tắc trao đổi kỹ thuật có thể dẫn đến hoàn vốn phù hợp trong giai
đoạn trước năm 1987, hầu hết công trình học thuật tập trung vào bản
chất của vị trí bất thường của thị trường ngoại hối. Có thể suy đoán
rằng sự bất thường này là do sự can thiệp của ngân hàng trung ương,
mà rõ ràng là phân tích kỹ thuật không được thiết kế để dự đoán.
Nghiên cứu gần đây cho thấy việc kết hợp các tín hiệu kinh doanh khác
nhau thành cách tiếp cận tín hiệu tổ hợp có thể tăng khả năng lợi nhuận
và giảm sự phụ thuộc vào một quy tắc duy nhất bất kỳ.
Trang 11
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ PHÁT

TRIỂN
1. Các tổ chức tham gia đầu tư tài chính
a) Các ngân hàng đầu tư
Hoạt động đầu tư ngoài ngành những năm trước, thực chất có dính dáng
đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Hiện nay không chỉ các tập đoàn, tổng công
ty, một số ngân hàng cũng đang rời bỏ mảng đầu tư. Công ty chứng khoán
Ngân hàng Á Châu (ACBS), một công ty con của ACB đã bán gần như toàn
bộ các khoản đầu tư vào các ngân hàng khi kết thúc năm tài chính 2012.
Nguồn tin của phóng viên cho biết những khoản đầu tư vào các doanh nghiệp
còn lại, ACBS sẽ tìm người mua và chuyển nhượng hết mức tối đa có thể
trong năm nay.
Một số ngân hàng khác đang tập trung rút lại những khoản ủy thác đầu tư
hoặc trái phiếu doanh nghiệp không chỉ vì hai nghiệp vụ này phải được tính
vào tăng trưởng tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro, mà còn vì nó cũng liên
quan đến mảng ngân hàng đầu tư. Một số trái phiếu doanh nghiệp có tính
chuyển đổi và trong trường hợp doanh nghiệp không trả được gốc và lãi, trái
phiếu được chuyển thành cổ phần cho ngân hàng.
Tuy nhiên sở hữu chéo (ngân hàng nắm giữ cổ phần của nhau), một hình
thức của ngân hàng đầu tư, lại đang được xử lý rất chậm, thậm chí hầu như
ách tắc. Không phải ngân hàng nào cũng quyết liệt bán ra cổ phần các ngân
hàng khác trị giá tới hơn 5.000 tỷ đồng như ACB. ACB chủ trương không chỉ
các khoản đầu tư có lời mới thanh lý, mà họ chuyển nhượng vì thay đổi chiến
lược phát triển ngân hàng.
b) Các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán
Trang 12
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trên thế giới, quỹ đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của thị trường chứng khoán. Lực lượng quỹ đầu tư thường chiếm 30-
50% giá trị giao dịch thị trường, với tỷ lệ tương ứng trong việc nắm giữ cổ

phần của các công ty đại chúng và niêm yết. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi
quỹ đầu tư sẽ giúp làm tăng nhanh tính ổn định của thị trường, góp phần tác
động thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp Trong khi đó, ở thị trường
chứng khoán Việt Nam, sau hơn 10 năm phát triển, số lượng quỹ đầu tư vẫn
còn khá khiêm tốn và chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư.
Ra đời năm 2000, tính tới nay thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
đã trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm và mang lại không ít “quả ngọt lẫn
trái đắng” cho các quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, giai đoạn năm
2006-2007, TTCK Việt Nam tăng trưởng mạnh, rất nhiều quỹ đầu tư dạng
đóng được thành lập và huy động vốn, tạo nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà
đầu tư (NĐT) trong và ngoài nước. Con số 6 tỷ USD chính là tổng tài sản các
quỹ đầu tư vào TTCK Việt Nam trong giai đoạn này. Thời điểm đó, các chứng
chỉ quỹ được giao dịch ở mức giá trên giá trị tài sản ròng/chứng chỉ quỹ rất
cao.
Tuy nhiên, khi niềm vui của các quỹ đầu tư trong và ngoài nước chưa
được “tày gang” thì bước sang năm 2008, cùng với cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu và tình hĩnh vĩ mô xấu đi nhanh chóng, TTCK Việt Nam
chứng kiến chu kỳ giảm mạnh, giá các chứng chỉ quỹ đóng cũng theo đó mà
giảm mạnh, thấp hơn rất nhiều so với giá trị tài sản ròng (NAV). Năm 2009,
TTCK Việt Nam phục hồi nhờ vào các gói kích thích kinh tế của Chính phủ.
Mặc dù giá của các chứng chỉ quỹ có phục hồi nhẹ, nhưng TTCK Việt Nam
vẫn kém hấp dẫn so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới.
Tất nhiên, điều này khiến giá trị thị trường chứng chỉ quỹ tiếp tục suy giảm và
mức chiết khấu (mức chênh lệch giữa giá các chứng chỉ quỹ và giá trị tài sản
Trang 13
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ròng của chứng chỉ quỹ) tiếp tục duy trì tại mức âm khá cao. Từ đó tới nay,
tình trạng này vẫn chưa được cải thiện nhiều.
Theo báo cáo ngày 16/04/2012 của Công ty LCF Rothschilds (Anh), hiện

tại Việt Nam đang có 32 quỹ đầu tư có tên tuổi và công khai thông tin đang
hoạt động (còn khá nhiều quỹ đầu tư và NĐT tổ chức khác hoạt động ở trên
thị trường song LCF Rothschilds không thể thu thập được số liệu trong báo
cáo). Theo báo cáo này, đa số các quỹ hoạt động ở thị trường Việt Nam đều có
thời gian hoạt động từ 5-10 năm và đầu tư vào nhiều dạng tài sản như: cổ
phiếu, trái phiếu, đầu tư vốn trực tiếp, bất động sản, cơ sở hạ tầng và nguồn
tài nguyên. Tổng giá trị tài sản ròng của các quỹ đầu tư tại thời điểm
16/04/2012 là: 4,1 tỷ USD. Như vậy, so với lúc đỉnh cao (có tổng tài sản lên
tới 6 tỷ USD) thì tại thời điểm này rõ ràng tính trung bình các quỹ ngoại đã
thua lỗ hơn 31%
Theo nhiều chuyên gia, với lĩnh vực quản lý quỹ, nhà đầu tư thường dựa
vào mức chiết khấu để xem xét tương lai của quỹ. Nếu mức chiết khấu âm lớn
cho thấy tương lai không tốt đẹp của quỹ, ngược lại nếu mức chiết khấu lớn
hơn 0 cho thấy tương lai của quỹ đó rất tốt. Số liệu gần đây cho thấy mặc dù
TTCK Việt Nam đã phục hồi khá tốt nhưng giá trị chiết khấu vẫn còn âm rất
lớn. Gần như tất cả các quỹ trên đều có mức chiết khấu âm, đặc biệt là quỹ
DWS Vietnam Fund (do Deutsche Bank quản lý) âm tới mức -40,6%, chỉ duy
nhất FTSE Vietnam Index ETF có mức chiết khấu dương bằng 2,2. Các quỹ
nội địa đa số có mức chiết khấu gần - 30%, trừ VFMVFA (Quỹ đầu tư năng
động của VFM) là có mức chiết khấu thấp nhất -22%.
Trong một báo cáo mới hơn cũng của Công ty này (ngày 5/6) về cập nhật
kết quả hoạt động của hơn 100 quỹ đầu tư toàn cầu, LCF Rothschild cũng tái
khẳng định, NAV của hầu hết các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều
tăng trưởng âm, nhất là các quỹ đầu tư tư nhân. Đơn cử, tính đến ngày
Trang 14
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
5/6/2012 quỹ PCA Vietnam Segregated Portfolio có mức chiết khấu so với
NAV là -21,2% trong khi Vietnam Resource Investment là -27,5%
2. Tình hình đầu tư tài chính ở Việt Nam hiện nay

a) Đầu tư tài chính trong nước
• Thực trạng thị trường vốn
Thị trường vốn tín dụng ngân hàng: Sau khi trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã quan tâm đến việc tái cấu
trúc thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng, phù hợp với
thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được cải thiện về năng
lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế
toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự
bứt phá mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã đưa Việt Nam
lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã hội trên GDP cao nhất thế giới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội
nhập WTO đều ở mức cao; Đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất
nhập khẩu liên tục ghi nhận các kỷ lục mới; đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm
nước có thu nhập thấp vào năm 2011. Những động thái này đã tạo cung vốn
lớn cho nền kinh tế thông qua thị trường vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia
trên thị trường (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, DN, các quỹ
đầu tư ) cần phải tăng quy mô hoạt động, cải thiện tiềm lực tài chính, mở
rộng sản xuất, áp dụng công nghệ trong kinh doanh để nâng cao năng suất lao
động.
Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do
thị trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc
gia, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ
điều hành theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ
mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị
Trang 15
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
trường vốn. Có thể thấy rõ sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị
trường vốn tín dụng ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể
tham gia thị trường, tình trạng sở hữu chéo giữa DN với ngân hàng, giữa ngân

hàng với công ty bảo hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng với nhau…
Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường
vốn. Thị trường cổ phiếu tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình
cổ phần hóa DN nhà nước (DNNN), nhưng quy mô thị trường cổ phiếu vẫn
nhỏ. Mức độ vốn hóa trên thị trường (của các công ty niêm yết) so với GDP
đã được cải thiện và đạt 39%/GDP vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống
còn 26% vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một
trong số các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới). Vì thế, khi tín
dụng cho nền kinh tế giảm, hệ số giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng
kinh tế giảm (năm 2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9 tháng năm
2013 chỉ còn 1,2 lần), điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của
người lao động.
Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho DN nhưng do khó khăn từ
nền kinh tế, khó khăn từ nội tại các DN và ngân hàng, những điểm nghẽn của
nền kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không được giải quyết rốt ráo, trong khi
giá vốn rất cao (lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức 13-15%/năm,
năm 2013 ở mức 10 -12%/năm), quá sức chịu đựng của DN. Tình trạng nhiều
DN không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho tăng cao (năm 2012
bình quân khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%), năng lực
cạnh tranh thấp, kinh doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ
chiếm gần 66%)… dẫn đến nhiều DN phá sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo
theo cầu về vốn giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ dừng
lại ở con số 8,91% so với mục tiêu được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa
Trang 16
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ra là 15-17%, 9 tháng đầu năm 2013 tăng 6,14% so với chỉ tiêu 12%/năm. Nợ
xấu và tốc độ tăng nợ xấu. Điều này không có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên
mà do hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại nợ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ,
sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua Công ty Quản

lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với
những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã giảm xuống còn
4,64%.
• Thị trường chứng khoán:
Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn nhưng
kinh tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà
đầu tư và sự phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu
đã tăng khá mạnh. Chỉ số VN-Index tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng
giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương đương gần 1.661 tỷ đồng/phiên.
Tuy nhiên, các giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có dấu
hiệu chững lại do thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ đầu tư
ngoại có những hoạt động thoái vốn. Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 8/2013,
khối ngoại đã bán ròng với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ đồng và 881 tỷ đồng,
dẫn đến thị trường cổ phiếu bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.
Như vậy, mặc dù vẫn được xem là thị trường có tốc độ tăng trưởng khá so với
năm 2012 nhưng TTCK vẫn tiềm ẩn những rủi ro ngắn hạn, tính thanh khoản
còn thấp. Thị trường trái phiếu DN vẫn chưa phát triển, ngân hàng vẫn là
thành viên chủ chốt tham gia thị trường này. Những bất cập này đã hạn chế
việc cung cấp vốn với giá cạnh tranh cho các DN.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến tháng 9/2013, dư nợ TTTP chiếm từ
14,23% đến trên 18% GDP. Tại thời điểm cuối tháng 9/2013, dư nợ TTTP đạt
mức 679.787 tỷ đồng, chiếm 18,4% GDP ước của năm 2013. Tại thời điểm
Trang 17
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
30/9/2013, dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) là 406.950 tỷ đồng,
TTTP được Chính phủ bảo lãnh là 163.553 tỷ đồng, TTTP DN là 96.895 tỷ
đồng, TTTP chính quyền địa phương là 12.389 tỷ đồng.
Đối với TTTP được Chính phủ bảo lãnh, trong giai đoạn 2006 - 2012 có
mức tăng trưởng mạnh nhất là 408,6%, theo đó là thị trường TPCP tăng

trưởng 193,9%, thị trường TPDN tăng trưởng 127% và TTTP chính quyền địa
phương tăng trưởng 92,4%.
Có được sự tăng trưởng trên, một phần quan trọng là trong thời gian qua,
Bộ Tài chính đã thực hiện điều hành lãi suất phát hành phù hợp với lãi suất
của thị trường. Đặc biệt, từ năm 2012 đến nay, lãi suất phát hành TPCP và trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh đã giảm hoàn toàn tương ứng với điều hành
giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).Cụ thể, lãi suất phát hành
TPCP đã giảm từ 3,10% đến 6,0% đối với các kỳ hạn dưới 10 năm, giảm
2,20% đối với kỳ hạn 10 năm. Phương thức phát hành TPCP đã chuyển dịch
dần từ bảo lãnh sang đấu thầu. Trước năm 2010, TPCP được phát hành chủ
yếu qua phương thức bảo lãnh (chiếm trên 80% khối lượng phát hành). Từ
năm 2011 đến nay, TPCP được phát hành chủ yếu bằng phương thức đấu thầu
(chiếm đến 95% khối lượng phát hành).
Cơ cấu nhà đầu tư TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chưa có
chuyển biến, vẫn tập trung chủ yếu vào các ngân hàng thương mại (chiếm đến
86,7% khối lượng trái phiếu đang niêm yết). TTTP trong nước vẫn chưa thực
sự thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài (chiếm 13,33% khối lượng trái
phiếu đang niêm yết).
Đối với trái phiếu chính quyền địa phương, giai đoạn 2003 - 2011, trên
quy mô toàn quốc, có 3 tỉnh/ thành phố là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đồng
Nai phát hành đạt 15.697 tỷ đồng. Năm 2012, có 2 tỉnh/ thành phố phát hành
trái phiếu là TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, với tổng khối lượng phát hành là
Trang 18
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
4.810 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm 2013, có 3 tỉnh/thành phố phát hành
trái phiếu là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh phát hành đạt
3.820 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2012, dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương
đạt 9.125 tỷ đồng, tương đương khoảng 0,31% GDP 2012. Tính đến
30/9/2013, dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương đạt 12.389 tỷ đồng.

Trong giai đoạn 2010 - 2013, TTTP đã phát triển mạnh mẽ trên thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp. Về khung khổ pháp lý, giai đoạn từ năm 2000
đến nay, khung pháp lý về phát hành trái phiếu đã được ban hành đầy đủ,
đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường. Trong năm
2012, Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư quy định đầy đủ quy trình, thủ
tục phát hành, đăng ký, lưu ký và niêm yết các loại trái phiếu theo quy định
tại Nghị định số 01/2011/NĐ-CP, hướng tới các thông lệ của thị trường quốc
tế. Đặc biệt là việc niêm yết và giao dịch tín phiếu Kho bạc Nhà nước
(KBNN) tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Bên cạnh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, Bộ Tài chính đã thực hiện
nhiều biện pháp để hỗ trợ sự phát triển của TTTP, cụ thể: (thực hiện đa dạng
hoá các sản phẩm trái phiếu theo hướng tăng cường các công cụ nợ có kỳ hạn
dài để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Trong năm 2013, KBNN đã thực hiện
phát hành trái phiếu kỳ hạn kéo dài 15 năm theo phương thức bảo lãnh phát
hành; hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ giao dịch tại Sở Giao dịch
Chứng khoán để thúc đẩy việc đăng ký, lưu ký, niêm yết giao dịch trái phiếu
trên thị trường thứ cấp; giảm thời gian đưa trái phiếu phát hành vào giao dịch
từ T+6 thành T+5 (giảm 1 ngày làm việc); thực hiện đề án tái cơ cấu hàng hoá
trên TTTP Chính phủ để giảm bớt mã trái phiếu giao dịch, tăng quy mô niêm
yết và tăng tính thanh khoản cho TPCP. Kể từ năm 2012, KBNN đã bắt đầu
thực hiện hoán đổi TPCP để tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp;rà soát,
cải tiến cơ chế thuế, phí lệ phí để khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào
Trang 19
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
TTTP. Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về .
theo thống kê, tổng lượng TPDN phát hành trong 6 tháng đầu năm 2013 vào
khoảng 15.000 tỷ đồng, trong khi cả năm 2012 chỉ là 17.000 tỷ đồng. Đặc
biệt, trong quý III/2013 có ít nhất 13.000 tỷ đồng TPDN được phát hành.
Như vậy, với ít nhất 3 đợt chào bán TPDN quy mô khoảng 2.000 tỷ đồng/đợt

đang được thực hiện, tổng lượng TPDN phát hành trong năm 2013 có thể lên
tới 34.000 tỷ đồng (gấp đôi năm 2012). Một trong những doanh nghiệp thành
công nhất trong việc phát hành TPDN là Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).
Trang 20
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Cụ thể, cuối tháng 8 vừa qua, Vinacomin đã phát hành thành công 5.000 tỷ
đồng trái phiếu, gấp 1,7 lần khối lượng dự kiến là 3.000 tỷ đồng khi tập đoàn
này bắt đầu thăm dò thị trường.
Tương tự, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) phát hành thành công trái phiếu 10 năm, với kết quả vượt 5% so
với mục tiêu 3.000 tỷ đồng ban đầu và vượt gần 60% so với con số 2.000 tỷ
đồng khi ngân hàng này thăm dò nhu cầu thị trường hồi quý II/2013.
Trước đó không lâu, Công ty cổ phần (CTCP) Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) thu được 950 tỷ đồng từ trái phiếu bằng việc phát hàng 950 trái phiếu,
mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu. Số trái phiếu được HAG phát hành lần này có
kỳ hạn 3 năm và lãi suất kỳ tính lãi đầu tiên 14%/năm.
Trong tháng 7, CTCP Đại lý vận tải SAFI (SFI) cũng thông báo đã phát
hành hết 20 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi. Số trái phiếu này được SFI phát
hành với mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu, lãi suất 9%/năm. Theo kế hoạch
trái phiếu sẽ đáo hạn vào ngày 4/7/2014.
Trong một thông báo mới đây, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank) cho biết sẽ phát hành 2.500 tỷ đồng trái phiếu với kỳ hạn 10 năm 1
ngày. trái phiếu có mệnh giá 1 tỷ đồng, tiền lãi trái phiếu được trả sau định kỳ
hàng năm với lãi suất 5 năm đầu tối đa 10,6%/năm. Sau thời gian này nếu
VPBank không thực hiện cam kết mua lại lãi suất áp dụng tối đa 11%/năm.
Số tiền thu được từ đợt phát hành VPBank sẽ dùng để gia tăng nguồn vốn
trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, cho vay các dự án trong dài
hạn của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác. Theo dự báo của giới

đầu tư, khả năng trái phiếu của VPBank cũng sẽ “cháy hàng” trước nhu cầu
quá lớn từ phía nhà đầu tư.
Hiện tượng TPDN “khan hàng” đã khiến không ít nhà đầu tư bất ngờ bởi
trước đó, thời điểm 6 tháng đầu năm, thị trường này vẫn còn hết sức ảm đạm
Trang 21
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
khi có rất ít doanh nghiệp tổ chức phát hành TPDN để huy động vốn. Trong 6
tháng, chỉ có duy nhất thỏa thuận đạt được giữa CTCP Đầu tư hạ tầng kỹ
thuật TP. Hồ Chí Minh (CII) và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank). Theo đó, Vietcombank sẽ mua toàn bộ 1.000 tỷ đồng TPDN
do CII phát hành.
Đây là trái phiếu có thời hạn 6 năm, lãi suất cố định 13,2%/năm. Trên
thực tế, thị trường TPDN chỉ thật sự sôi động kể từ cuối quý II/2013, khi trái
phiếu chính phủ không còn hấp dẫn do lợi suất mang lại đã giảm về mức rất
thấp. Bên cạnh đó, với bối cảnh thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào
trong khi các kênh đầu tư như bất động sản, CK đều khá rủi ro đã thúc đẩy
các nhà đầu tư chuyển hướng nhu cầu sang đầu tư vào TPDN với mức lợi suất
cao hơn hẳn, trung bình 12-14%/năm.
Đáng nói là đa phần các doanh nghiệp phát hành TPDN đều là những
doanh nghiệp uy tín, có năng lực tài chính tốt với những dự án sản xuất - kinh
doanh. Chính vì yếu tố này thị trường TPDN luôn trong cảnh cung không đủ
cầu.
b) Đầu tư tài chính từ nước ngoài
Mặc dù tình hình kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn nhưng các nhà
đầu tư vẫn đánh giá thị trường Việt Nam còn nhiều tiềm năng. Hiện các tập
đoàn tài chính, Ban quản lý các khu công nghiệp trọng điểm đã có nhiều biện
pháp nhằm quản lý tài sản, đầu tư và bất động sản, thu hút doanh nghiệp trong
và ngoài nước đầu tư tại Việt Nam.
Trang 22

Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
trong 10 tháng năm nay kể cả vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt
10,48 tỷ USD, bằng 75,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tuy lượng vốn đăng ký
giảm sâu, nhưng vốn đầu tư thực hiện đạt tương đương với cùng kỳ năm trước
(bằng 98,9%). Đây là tín hiệu khả quan để cả năm có thể đạt xấp xỉ 11 tỷ
USD, tương đương với 4 năm trước và cũng là một kết quả tích cực góp phần
làm cho cán cân vốn tài chính có số dư và góp phần cải thiện cán cân thanh
toán tổng hợp, làm tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá. Mục tiêu là tiếp tục
thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn đã cam kết; thu hút đầu
tư vào các vùng, các lĩnh vực ưu tiên với trọng tâm là các dự án sử dụng công
nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh.
Nhận định về sự phát triển của thị trường, Chủ tịch Tập đoàn VinaCapital
Horst F.Geicke cho biết, Chính phủ Việt Nam đã ứng phó rất tốt với khủng
hoảng toàn cầu, việc suy giảm tạm thời của dòng vốn đầu tư nước ngoài mới
sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động và kế hoạch của VinaCapital. VinaCapital
sẽ chủ động trong các giao dịch và hoạt động đầu tư do còn lượng tiền mặt
trong các quỹ đạt trên 300 triệu USD và kêu gọi vốn thành lập quỹ mới để đẩy
Trang 23
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
mạnh đầu tư và tiếp tục quảng bá Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài
trên khắp thế giới.
Vừa qua, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã cam kết cấp tối đa cho
Việt Nam khoản vay trị giá gần 4 tỷ USD, bên cạnh khoản hỗ trợ kỹ thuật
không hoàn lại gần 25 triệu USD từ năm 2013-2015 cho thấy sự tin tưởng của
hệ thống ngân hàng thế giới vào hoạt động tài chính, tín dụng của Việt Nam.
Tính đến cuối tháng 3 năm nay, danh mục của Ngân hàng Phát triển châu Á
dành cho Việt Nam gồm 59 khoản vay và 48 dự án hỗ trợ kỹ thuật đạt giá trị

ròng là 7,1 tỷ USD, trong đó 3,4 tỷ USD đã được dự chi và 1,7 tỷ USD đã
được giải ngân.
Theo Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á Tomoyuki Kimura, ADB sẽ tiếp
tục hỗ trợ những cải cách thể chế và chính sách, bao gồm: cải cách các doanh
nghiệp Nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng hài hòa thông qua hướng mục tiêu đến
các khu vực khó khăn và tăng cường năng lực của Chính phủ trong việc giải
quyết các thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, Chính phủ
cần đưa ra những tín hiệu tích cực cho thị trường, trong đó sự minh bạch rất
quan trọng. Những hỗ trợ của ADB hướng đến tính chất trung hạn và dài hạn
hơn thông qua việc tăng cường giám sát và quản lý nói chung của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và giúp thành lập thị trường tiền tệ và vốn hiệu quả.
4. Một số sai lầm thường gặp của các nhà đầu tư, những hạn chế và
phương hướng phát triển
a) Một số sai lầm thường gặp
Hầu hết mọi người ai cũng đã, đang hay sẽ gặp phải một số sai lầm
trong các quyết định đầu tư. Nếu biết rõ xu hướng hành động của mình,
bạn sẽ dễ dàng hơn để nhận biết vấn đề và rút kinh nghiệm.
Những sai lầm này có thể mang lại lợi nhuận trong tương lai khi mà
chúng ta biết vận dụng nó để đưa ra những quyết định đầu tư và kinh
Trang 24
Carliss
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
doanh đúng đắn hơn, dù cho chúng khiến ta mất nhiều tiền vào lần đầu
tư đầu tiên.
Cũng như lời khuyên của bố mẹ, phải qua trải nghiệm bản thân
chúng ta mới thực sự rút ra được bài học. Tuy nhiên nếu biết rõ xu
hướng hành động của mình, sẽ dễ dàng hơn cho mỗi người trong việc
nhận biết vấn đề cũng như rút ra được bài học kinh nghiệm. Dưới đây là
10 sai lầm chúng ta hay mắc phải khi đầu tư.
 Bị phần thưởng làm mờ mắt

Bị mờ mắt bởi khoản lợi nhuận có thể xảy ra của một khoản đầu tư
có thể khiến bạn lạc lối, bởi lợi nhuận cũng đi kèm rủi ro. Khi nghe
người ta nói về vụ đầu tư với cổ tức đáng kinh ngạc, hoàn trái khổng lồ
hay lợi nhuận tuyệt vời ta có thể lao ngay vào đầu tư mà không xem xét
các rủi ro kèm theo. Lời khuyên là bạn nên thường xuyên dừng lại một
chút và cân nhắc xem tại sao lợi tức của khoản đầu tư lại cao như vậy,
rồi mới quyết định có đáng hay không khi chấp nhận rủi ro như thế chỉ
để đổi lấy một phần thưởng phù du.
Thiếu kiên nhẫn
Thiếu kiên nhẫn chính là điều đã giết chết nhiều nhà đầu tư khôn
ngoan. Không đợi giai đoạn suy thoái qua đi hoặc giả định cổ phiếu
đang trong giai đoạn đáng giá nhất và bán nó quá sớm, dù đó là khoản
đầu tư ổn định, có thể khiến bạn thấy hối tiếc.
Ví dụ, một nhà đầu tư từng đầu tư vào cổ phiếu của Tập đoàn khách
sạn Hilton. Nhà đầu tư này đã mua cổ phiếu với giá 10 USD. Khi cổ
phiếu chạm mốc 14 USD và duy trì mức giá này trong vài tháng, ông đã
mất niềm tin dù vẫn biết rằng cổ phiếu này là một sự đầu tư vững chắc.
Lúc đó ông không cần tiền nhưng lại trở nên mất kiên nhẫn và bán tháo
cổ phiếu, thu về lợi nhuận. Vài năm sau, cổ phiếu Hilton được mua lại
với giá 40 USD một cổ phiếu. Sự thiếu kiên nhẫn thắng thế, nhà đầu tư
mất một khoản lớn.
Trang 25
Carliss

×