Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quan hệ việt nam và trung quốc thời tiền lê LSNGVN(1) (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.78 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

BÁO CÁO
Học phần: Lịch sử Ngoại giao Việt Nam
Chủ đề:
QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC THỜI TIỀN LÊ
Giáo viên hướng dẫn: Cô Nguyễn Thùy Minh

Ngày nộp: 29/11/2021

Lớp: LSNGVN(1)

Số từ: 3679 từ

Sinh viên: Nhóm 2 (12 thành viên)
Lê Hồng Minh Ngọc, QHQT48C1-1054
Huỳnh Trung Hiếu, QHQT48C1-0914
Đinh Phương Thu, QHQT48C1-1132
Ngô Minh Kiên, QHQT48C1-0964
Bùi Thị Châu Giang, QHQT48C1-0882
Nguyễn Nam Khánh, QHQT48C1-0956
Nguyễn Minh Thành, QHQT48C1-1123
Đặng Phương Anh, QHQT48C1-0775
Chu Đức An, QHQT48C1-0763
Đặng Hoàng Khánh Linh, QHQT48C1-0978
Nguyễn Linh Lan, QHQT48C1-0972
Cao Lê Quỳnh Anh, QHQT48C1-0773 (Nhóm trưởng)


I. Lời mở đầu


Báo cáo thuyết trình học phần Lịch sử Ngoại giao Việt Nam trình bày về chủ đề: “Quan hệ
Việt Nam và Trung Quốc thời Tiền Lê”. Báo cáo bao gồm các phần nội dung như sau:
[1] Bối cảnh lịch sử - chính trị thời kỳ chuyển giao nhà Đinh-Tiền Lê
[2] Sự thiết lập, duy trì chính sách ngoại giao giữa nhà Tiền Lê và nhà Tống
a. Chính sách ngoại giao từ khi Lê Hồn lên ngơi đến khi nối lại quan hệ ngoại giao với nhà
Tống (986)
b. Các chính sách ngoại giao trong suốt thời kỳ trị vì cịn lại của Lê Hồn
c. Phân tích bối cảnh nhà Tống và nguyên nhân dẫn đến các chính sách ngoại giao nhà Tống
thực hiện với Tiền Lê
[3] Đánh giá thành quả ngoại giao dưới triều đại nhà Tiền Lê
[4] So sánh, liên hệ chính sách ngoại giao nhà Tiền Lê với các triều đại khác
a. Đấu tranh ngoại giao nhằm mục tiêu giữ vững vị thế quốc gia, quốc thể
b. Đấu tranh ngoại giao nhằm mục tiêu giữ gìn hòa hiếu các nước, nhất là đối với các nước
láng giềng
II. Nội dung báo cáo
[1] Bối cảnh lịch sử-chính trị thời kỳ chuyển giao nhà Đinh-Tiền Lê.
Sau 12 năm trị vì, năm 979 Đinh Tiên Hồng cùng con trai Đinh Liễn bị cận thần sát hại. Con
nhỏ là Đinh Toàn lên ngôi khi chỉ mới 5 tuổi. Sự ra đi của vua Đinh đã dấy lên những tình
hình bất ổn trong nước, những người Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền,
Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh. Với tình hình
đó, phị mã Ngơ Nhật Khánh dẫn qn Chiêm Thành vào đánh nước ta, dự cướp đi vùng đất
Hoa Lư.
Về phía nhà Tống, sự bất ổn của Đại Cồ Việt đã khiến cho Trung Hoa bấy giờ vừa diệt được
nước cuối cùng trong “thập ngũ”, thống nhất lãnh thổ rộng lớn chuyển sang dịm ngó, mong
muốn xâm lược nước ta. Nguyễn Lương Bích từng cho rằng hành động gửi tối hậu thư
“...Người theo về không?... chớ rước lấy tội lỗi… nếu trái lệnh thì ta quyết đánh” là một hành
động phạt giao, đe dọa nước ta1.

Nguyễn Lương Bích, Lược sử Ngoại giao Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, 2000):32.


1

1


Thế nhưng, mặc dù Đinh Tiên Hoàng đã tạ thế, nhưng trong nước cịn có Thập đại tướng qn
Lê Hồn, dân ta cũng không chịu khuất phục trước sự uy hiếp của Đại Tống. Đỉnh điểm là khi
nhận được tin nhà Tống sang đánh, Lê Hoàn cử Phạm Cự Lạng ra nghênh chiến, trước khi ra
trận, tướng quân Phạm Cự Lạng đã đề cử Lê Hoàn lên thành thiên tử, làm chủ vận mệnh đất
nước giữa thời cuộc rối ren: giặc bên ngoài phần nước lớn, phần quân được dẫn vào đang hăm
he, trong nước thì bất ổn. Đại Việt sử ký tồn thư có chép về sự việc này như sau: “Trăm quan
tại triều và Dương Thái Hậu mẹ vua nhỏ Đinh Tồn đều vui lịng quy phục”. Sự đồng thuận
của mẹ con Dương Thái Hậu phần vì đại cuộc trước mắt, phần vì đảm bảo an tồn khi đội
quận Phạm tướng quân kéo vào triều đình.
[2] Sự thiết lập, duy trì chính sách ngoại giao giữa nhà Tiền Lê và nhà Tống.
a. Chính sách ngoại giao từ khi Lê Hồn lên ngơi đến khi nối lại quan hệ ngoại giao với
nhà Tống (986)
Sau khi được tiến cử lên ngơi năm 980, Lê Hồn vẫn bang giao với nhà Tống trên danh nghĩa
là Đinh Tồn. Vua Tống khơng hề biết điều này, lợi dùng tình thế Đại Cồ Việt đang có tiểu Vệ
vương mà nảy ý đồ xâm lược. Tháng 8/980, Tống Thái Tơng chính thức phát lệnh đánh nước
ta, trước đó cịn sai cận thần là Lư Đa Tốn sang đưa thư đe dọa, muốn “nhà Đinh” phải đầu
hàng trước. Tháng 10 cùng năm, Lê Hoàn sai nha hiệu đưa thư sang nước Tống giả làm thư
của Vệ Vương Đinh Tồn thỉnh cầu nối ngơi Đinh Tiên Hồng, xin được ban mệnh lệnh chính
thức. Chủ đích của bức thư này là để hồ hỗn cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống. Vì
muốn trách cứ về việc xưng đế và đổi niên hiệu mà không báo trước, vua Tống đã sai Trương
Tông Quyền đưa thư cho triệu mẹ con Đinh Tồn sang quy phụ trước triều đình nhà Tống,
nếu sang sẽ được phong chức, khơng sang thì nhất quyết không bỏ ý đồ tiến đánh.
Trước yêu cầu này của Tống Thái Tơng, Lê Hồn đã khơng tn theo, cứ để quân Tống tiến
đánh Đại Cồ Việt rồi tự làm tướng đi chặn giặc, thẳng tay đánh bại chúng. Điều này không chỉ

tỏ rõ thái độ của vị vua mới nước Đại Cồ Việt, mà còn dọa nhà Tống một phen thất trận nặng
nề, thể hiện uy phong của quân ta dưới triều đình mới. Nhà Tống sau khi nhận chuỗi thua liên
tiếp, cịn phải đối phó với nhà Liêu ở phía Bắc nên tỏ ra rất mềm mỏng với nhà Tiền Lê. Lê
Hoàn đã lợi dụng đúng hoàn cảnh và thái độ, thể hiện rõ ý muốn giao hảo với nhà Tống trên
quan hệ hai nước láng giềng bình đẳng, khơng quy phục. Sau hai lần sai sứ và tỏ rõ lập
trường, 10/986, vua Tống đã sai Tả bổ khuyết Lý Nhược Chuyết, Lý Giác mang chế sách
sang phong chức An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu cho Lê Hoàn.

2


Đây là một sự công nhận của nhà Tống với Tiền Lê, cơng nhận dịng dõi mới kế thừa ngơi vua
nước Đại Cồ Việt.
b. Các chính sách ngoại giao trong suốt thời kỳ trị vì cịn lại của Lê Hồn.
Sau khi nối lại sự hòa hiếu ngoại giao giữa Tiền Lê và nhà Tống, Lê Hồn đã có rất nhiều
chính sách ngoại giao để gìn giữ sự hữu nghị nhưng cũng có những đấu tranh ngoại giao trên
nhiều phương diện để tỏ rõ vị thế của Đại Cồ Việt.
Cụ thể hơn, theo sử sách ghi lại, trong suốt hai đời vua là Lê Hoàn và Lê Ngoạ Triều (tức từ
năm 982 đến năm 1010) nhà Lê đã cử 15 phái bộ sang Trung Quốc với mục đích là duy trì
quan hệ bang giao giữa hai nước. Cùng thời gian đó, vua Tống cũng cử sứ thần sang nước ta
(9 phái bộ). Tuy ngỏ ý “thần phục” Thiên triều nhưng điều đó khơng có nghĩa là Lê Hồn cúi
mình. Ơng thực hiện chính sách “trong xưng đế, ngồi xưng vương” để thể hiện một ý chí mà
tất cả các đế vương dưới thời phong kiến nước ta đều theo đuổi: “Tự coi mình như một
“Trung Quốc” nhỏ hơn ở phía Nam đối với các nước chư hầu, ngang hàng với nước Trung
Quốc ở phía Bắc.”2
Sử gia Ngơ Sĩ Liên cũng viết rằng năm 981, Lê Hồn đích thân cầm qn đánh giặc, chém
tướng Hầu Nhân Bảo, dọa tàn quân rút chạy về nước. Từ đó, ơng được dâng tơn hiệu là Minh
Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế. Đại Việt sử ký toàn thư
cũng chép rằng:
“(Tống Cảnh Đức năm thứ 1) Mùa xuân, tháng giêng, lập Nam Phong Vương

Long Việt làm hoàng thái tử, gia phong Long Đĩnh làm Khai Minh Đại Vương,
Long Tích làm Đơng Thành Đại Vương” 3.
Lê Hồn phong hai con mình làm Đại Vương, từ đó có thể thấy rằng ơng cũng nhận mình là
bậc Đế.
Về qn sự, Lê Hồn chủ trương thể hiện bản lĩnh của một nước thắng trận qua việc phô diễn
sức mạnh và lực lượng để uy hiếp hai sứ Tống Cảo, Vương Thế Tắc năm 990. Ông cho người
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, “Vấn đề “sách phong” trong quan hệ bang giao giữa các triều đại
Việt Nam và Trung Quốc.” Nghiên cứu Lịch sử, ngày 09/01/2014,
/>c-trieu-dai-viet-nam-va-trung-quoc/
3
Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Đại Việt Sử ký Toàn thư (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
1993):73.
2

3


thực hiện nghi lễ đón sứ nhưng thực chất là đe dọa, uy hiếp sứ Tống. Trong suốt quá trình tiếp
sứ, Lê Hồn cũng có những động thái từ chối tuân thủ nghi thức truyền thống mà từ trước đến
nay các nước nhỏ phải tuân theo, ví dụ như việc lạy khi tiếp nhận chiếu thư hay việc phải
xuống ngựa đón sứ giả. Khi thết đãi yến tiệc, Lê Hồn cũng thành công trong việc khiến cho
các sứ Tàu lúng túng, mất đi vẻ uy nghiêm của người đại diện “thiên triều”. Ông thể hiện ý
định sử dụng những con thú dữ như món ăn đến việc tự thân hát mời rượu và tham gia lễ đâm
cá. Khi tiễn sứ về nước, câu nói đanh thép "Khơng phiền sứ thần sang đây nữa" của ông cũng
dẫn đến việc nhà Tống khơng có những động thái hạch sách, chèn ép cũng như gây áp lực lên
nước ta như một nước chư hầu nhỏ bé; trái lại, sự tôn trọng kéo dài đến cả khi Lê Hồn mất.
c. Phân tích bối cảnh nhà Tống và nguyên nhân dẫn đến các chính sách ngoại giao nhà
Tống thực hiện với Tiền Lê
Năm 976, sau khi Tống Thái Tổ đột ngột qua đời, em trai là Triệu Quang Nghĩa lên ngôi, tức
Tống Thái Tông. Thái Tông vẫn giữ tư tưởng trọng văn khinh võ như cuối thời Thái Tổ, ơng

tích cực hồn thiện chế độ chính trị, văn hóa và kinh tế chứ khơng tập trung phát triển sức
mạnh quân sự. Bên cạnh đó, các vua nhà Tống cũng thể hiện rõ tư tưởng “trọng nội hư
ngoại”, coi phát triển đất nước mạnh thì sẽ dễ dàng giải quyết được các vấn đề bên ngoài.
Việc tập trung sức mạnh quân sự về trung tâm từ thời Tống Thái Tổ khiến cho quân lực của
nhà Tống không mạnh mẽ như các triều đại khác trong các cuộc chinh phạt. Đây có thể là lý
do nhà Tống thường nhún nhường và không quá hiếu chiến trong quan hệ với các nước láng
giềng.
Tống Thái Tông lên ngôi khi ông chưa có bất cứ chiến công nào trong việc thu phục các nước
chư hầu và sự nghiệp thống nhất thiên hạ đang dang dở nên ông vẫn tiếp tục theo đuổi sách
lược “trước Nam sau Bắc”. Thái Tông lần lượt chinh phạt các nước phía Nam và tiêu diệt
hồn toàn nhà Bắc Hán năm 979. Năm 980, khi biết tin vua Đinh cùng con trai bị ám sát,
người Việt đang trong cảnh hỗn loạn thì lúc bấy giờ Tống đã xử lý xong các nước phía nam,
lại giáp biên giới Đại Việt, Tống Thái Tông cho rằng đây là cơ hội tốt để thu phục nốt Đại
Việt. Tuy nhiên chiến dịch này đã thất bại, gây hao tổn lớn cho nước Tống.
Sau khi bại trận trước Đại Việt, nhà Tống khơng tiếp tục dành sự quan tâm xuống phía Nam
mà phải tập trung về phương Bắc để tiếp tục công cuộc thống nhất Trung Nguyên. Thêm nữa,
năm 982, ngay sau chiến tranh vua Lê cử sứ sang nối lại quan hệ ngoại giao, nộp cống, xin
kinh Phật và đặt quan hệ buôn bán nên nhà Tống lại càng nguôi. Nhận thấy Tiền Lê khơng có
4


ý định nổi dậy, Tống Thái Tông cho rằng không cần đánh nữa mà chỉ cử sứ nhiều lần sang để
giữ mối giao hảo và cũng là để giám sát tình hình.
Tình hình chiến sự giữa hai nước Tống và Liêu giai đoạn bấy giờ đang vô cùng căng thẳng,
Tống tiếp tục thất bại trong kế hoạch tấn công người Khiết Đan lần thứ hai năm 986 và rơi
vào tình cảnh vơ cùng khó khăn. Vùng biên giới của Tống bị Liêu càn quét, gây ra nhiều tổn
thất nặng nề khiến cho tinh thần chiến đấu của nhà Tống giảm sút đáng kể. Trái ngược lại với
tình hình phương Bắc, quan hệ với của Tống với Đại Việt thời gian này lại rất tốt. Cùng năm
986, sứ giả Tống là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang phong cho Lê Hoàn chức Tiết độ sứ.
Vua Lê cũng đem trả 2 tướng bại trận của Tống trước đây và cử sứ thần qua để đáp lễ.

Theo sách “Chính sử Trung Quốc qua các triều đại - 350 vị hoàng đế nổi tiếng” của tác giả
Thương Thánh, sau khi Triệu Hằng lên ngôi tức Tống Chân Tông, ông đã bày tỏ rõ quyết tâm
cải cách chế độ. Những hành động sau khi lên ngôi của ông đã thể hiện một nhiệm vụ tiên
quyết đó là cai quản đất nước. Tuy nhiên, càng gay gắt trong các chính sách cai quản đất nước
bao nhiêu thì các đường lối, chính sách đối ngoại lại tỏ ra nhu nhược, suy yếu. Việc duy trì
mối quan hệ với các nước láng giềng như Đại Việt hoặc Liêu của Triệu Hằng thậm chí cịn bị
đánh giá là kém xa so với Thái Tổ. Từ khi lên ngôi, ông dường như chưa một lần dám đối
diện với các cuộc tấn công quân sự của Đàng Hạng và nhà Liêu, chỉ đưa ra những giải pháp
thiên về phòng thủ. Trong khi nước Liêu đang trong thời kỳ thịnh vượng và đang muốn mở
rộng bờ cõi của nước mình, tấn cơng ồ ạt xuống vùng Thiền Châu thì nhà Tống lại tỏ ra lúng
túng, không biết nên chọn con đường chủ hòa hay chủ chiến.
Sau khi theo đuổi con đường chủ chiến, cuối cùng nhà Tống nhận thấy cần nhân cơ hội nghị
hòa nên đã ký kết hòa ước Thiền Uyên với nhà Liêu. Đối với nhà Tống, tuy hòa ước là một
nỗi nhục, không những không giành lại được lãnh thổ đã mất mà mỗi năm đều phải cống nạp
cho nhà Liêu nhưng đã duy trì được hịa bình biên giới trong hơn 100 năm, tạo điều kiện
thuận lợi để hai nước hội nhập và giao lưu văn hóa.
[3] Đánh giá thành quả ngoại giao dưới triều đại nhà Tiền Lê
Thành cơng ngoại giao suốt 24 năm trị vì của Lê Hoàn được thể hiện ở việc nhà Tống khơng
có gây hấn, tiếp tục giữ hịa hiếu với nước ta sau khi Lê Hoàn mất.

5


Sau khi Lê Hoàn băng hà năm 1005, Lê Long Đĩnh cướp ngơi anh và lên làm Hồng Đế.
Đồng thời, trong nước cho nhiều người làm phản khiến vua Lê tiếp tục thân chinh đánh dẹp.
Bề tôi bên nhà Tống có tâu với vua Tống rằng nhân Giao Chỉ có loạn nên mang quân sang
đánh chiếm nhưng vua Tống Chân Tông không nghe, lại gàn rằng:
"Họ Lê thường sai con vào chầu, góc biển n tĩnh, khơng mất trung thuận, nay
nghe tin mới chết, chưa có lễ thăm viếng, đã vội đánh kẻ có tang, há phải là
việc làm của bậc vương giả?"4.

Thái độ này của vua Tống thực sự đã tỏ rõ sự tôn trọng, trọng nhân nghĩa dành cho nhà Tiền
Lê, thể hiện niềm tin được bồi đắp từ mối giao hảo suốt 24 năm trị vì của Lê Hoàn. Tuy nhiên,
nhiều ý kiến cho rằng việc nhà Tống vẫn giao hảo với nhà Tiền Lê sau khi Lê Hoàn mất là do
nhà Tống bận đánh trả quân Liêu đang làm loạn ở phía Bắc nhưng thực chất là khơng phải.
Năm 1005, Lê Hồn băng hà; lúc ấy, nhà Tống đánh nhau với nhà Liêu đã xong, cùng ký Hòa
ước Thiền Uyên với triều Liêu để lập lại hịa bình cho biên giới phía Bắc. Khoảng 1 thế kỷ
sau bản Hịa ước này, nhà Tống khơng cịn bị quấy nhiễu bởi quân Liêu nữa. Sang năm 1006,
Lê Long Đĩnh xưng đế và trong nước có loạn; thực tế, nhà Tống có thể rảnh tay để đánh
chiếm Đại Việt với tiềm lực kinh tế để chi trả cho chiến tranh vẫn còn vững chắc. Tuy đủ tiềm
lực để khơi mào một cuộc chiến tranh bình định Đại Cồ Việt nhưng vua Tống khơng làm, lại
muốn tiếp tục giữa hịa hiếu với nước Nam, có thể nói rằng hành động của Tống Chân Tông
thể hiện một nghĩa cử tốt đẹp của Thiên triều và cũng minh chứng cho thành quả ngoại giao
suốt thời gian trị vì của Lê Hồn.
[4] So sánh, liên hệ chính sách ngoại giao nhà Tiền Lê với các triều đại khác
Điểm nổi bật nhất trong đường lối ngoại giao của Lê Hồn với nhà Tống chính là việc thực
hiện chính sách ngoại giao cương nhu kết hợp. Sách lược đối ngoại không chỉ được vận dụng
khéo léo thời Tiền Lê mà ông cha ta ở các đời sau như nhà Lý, Trần cũng áp dụng thành công
trong quan hệ đối ngoại với các nước.
a. Đấu tranh ngoại giao nhằm mục tiêu giữ vững vị thế quốc gia, quốc thể
Trong công cuộc đấu tranh ngoại giao để giữ gìn quốc thể, Lê Đại Hành ý thức được bản thân
là vua một nước, do đó chỉ ngồi trên lưng ngựa rồi nghiêng mình thi lễ trước sứ giả Trung
Quốc và lấy cớ bị ngã ngựa đau chân, không lạy mà chỉ đứng vái khi nhận chiếu. Không chỉ
Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Đại Việt Sử ký Toàn thư (Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
1993):76.
4

6


vậy, vua Lê Đại Hành cũng vô cùng linh hoạt trong thái độ tiếp đón các sứ thần Trung Quốc,

mà như GS.Vũ Dương Huân đã nhận xét rằng:
“Đối với những sứ thần có thái độ ngạo mạn, có tâm địa xấu như Tống Cảo và
Vương Thế Tắc, ơng có đối sách mạnh, biểu dương sức mạnh quân sự, sự giàu
có, thịnh vượng, uy hiếp tinh thần sứ Tống. Còn đối với sứ thần có học thức,
giỏi văn thơ như Lý Giác, ơng đón tiếp với cách ứng xử khác: rất văn hóa, nêu
bật Đại Việt là nước văn hiến có nhiều nhân tài…”5
Điểm này cũng có thể được thấy ở đường lối, chính sách đối ngoại của các triều đại sau. Vào
đời nhà Trần, vua Trần Thái Tông luôn kiên quyết khước từ việc sang chầu bằng cách viện đủ
các lý lẽ khéo léo như sức yếu, tuổi cao, triều đại có vua cũ mất… Điều này đã một lần nữa
nhấn mạnh nguyên tắc bất biến trong bản sắc ngoại giao nước ta: Ln đặt lợi ích quốc gia dân tộc là ưu tiên hàng đầu.
b. Đấu tranh ngoại giao nhằm mục tiêu giữ gìn hịa hiếu các nước, nhất là đối với các
nước láng giềng
Sau khi đánh thắng quân xâm lược của nhà Tống (981), mùa xuân năm 983, vua Lê Hồn vẫn
theo chính sách của các triều đại trước, đã chủ động cho sứ sang xin thông hiếu, triều cống
Thiên triều để duy trì hịa bình cho đất nước và xây dựng mối quan hệ hòa hảo giữa hai nước.
Hành động này của Lê Hồn khơng chỉ giữ lại thể diện cho quốc gia thiên triều như nhà Tống
bớt phần hổ thẹn sau khi thua trận trước Đại Cồ Việt, mà còn giúp Tiền Lê tránh được những
đụng độ quân sự suốt thời kỳ còn lại của triều đại.
Đường lối ngoại giao này cũng đã được kế thừa, phát triển và vận dụng khéo léo ở những
triều đại sau, đặc biệt là thời nhà Lý. Trong cuộc chiến với nhà Tống (1075 - 1077), tại phịng
tuyến sơng Như Nguyệt, khi Qch Quỳ ở tình thế tiến thối lưỡng nan, Lý Thường Kiệt cũng
thấy quân ta sức cũng sắp cạn; do đó, ơng đã sai sứ thần sang dinh Quách Quỳ bàn hòa, mở
đường cho Quách Quỳ rút quân trong danh dự. Ở đây, ông đã chọn đúng thời điểm để “dùng
biện sĩ bàn hòa” bằng cách đưa ra một sáng kiến hịa bình phải chăng với nội dung hấp dẫn.
Đối với Tống, những vùng đất mà quân Tống chiếm được nay trở thành đất Tống; ngoài ra,
Vũ Dương Huân, “Về triết lý ngoại giao truyền thống Việt Nam.” Nghiên cứu Quốc tế, ngày
24/09/2021,
/>21.

5


7


Đại Việt xin chịu tội và chịu cống. Về phía Đại Việt, cái được lớn nhất là hịa bình, khơng cịn
qn Tống và khơng phải tiếp tục chiến tranh. “Chủ trương “dùng biện sĩ bàn hịa” đã đạt
được mục đích vì nó đã giải quyết đúng lúc và thỏa đáng quyền lợi của hai bên”6.
III. Tổng kết
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời Tiền Lê nhìn chung diễn ra rất tốt đẹp
nhờ đường lối ngoại giao uyển chuyển, khéo léo nhưng cứng rắn, linh hoạt của Lê Hoàn - vị
vua khai sáng triều đại và trị vì lâu nhất nhà Tiền Lê. Vị thế quốc gia và quốc thể của Đại Cồ
Việt ta trong suốt thời kỳ này không ngừng được nâng cao, khiến nhà Tống có nhiều phần e
dè về thế lực của nước ta, thậm chí từ bỏ mưu đồ xâm lược sau thất bại quân sự nặng nề năm
981. Những điểm sáng trong đấu tranh ngoại giao dưới thời Tiền Lê không chỉ kế thừa những
đường lối đối ngoại kiên quyết trước đó từ nhà Ngơ, Đinh mà cịn cương nhu kết hợp, mềm
mỏng đối đãi với Thiên triều, để lại nhiều bài học ngoại giao to lớn cho thời kỳ sau.

6

Lưu Văn Lợi, Ngoại giao Đại Việt (Hà Nội: Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2000):57.
8


IV. Tài liệu tham khảo
Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu. Đại Việt Sử ký Toàn thư. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
1993.
Nguyễn Lương Bích. Lược sử Ngoại giao Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, 2000.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. “Vấn đề “sách phong” trong quan hệ bang giao giữa các triều đại Việt
Nam và Trung Quốc.” Nghiên cứu Lịch sử, ngày 09/01/2014.

/>Vũ Dương Huân. “Về triết lý ngoại giao truyền thống Việt Nam.” Nghiên cứu Quốc tế, ngày
24/09/2021.
/>_ftnref21.
Vũ Dương Huân. Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến trước Cách mạng Tháng 8 năm
1945. Hà Nội: Học viện Quan hệ Quốc tế, 2001.
Thương Thánh. Chính sử Trung Quốc qua các triều đại - 350 vị hoàng đế nổi tiếng. Hà Nội:
Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, 2011.
Lưu Văn Lợi. Ngoại giao Đại Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2000.

9



×