Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Nội dung quy luật lượng – chất vận dụng quy luật lượng – chất vào trong đời sống hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.46 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ



BÀI THẢO LUẬN MƠN TRIẾT HỌC
NHĨM 3

Đề tài:
Nội dung quy luật lượng – chất. Vận dụng quy luật
lượng – chất vào trong đời sống hiện nay.


BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ NHĨM 3
Cơng việc

Điểm

STT

Thành viên

27

Nguyễn Mỹ Duyên

35

Nguyễn Thị Thảo Hiền

Quan hệ lượng & chất



10

34

Đồng Thị Hồng Hạnh

Thay đổi về chất, lượng

9,5

31

Nguyễn Thu Hạ

Ý nghĩa

9,5

29

Phạm Thị Thu Hà

Liên hệ

9,5

32

Lê Thúy Hằng_Thư kí


Phạm trù

9,5

K/n lượng và chất

10

Word
28

Nguyễn Hương Giang

9,5

26

Lương Bảo Duy

10

Power Point
30

Phùng Thu Hà

10

25


Nguyễn Thùy Dương_Nhóm trưởng

9,5

Thuyết trình
33

Vũ Ngọc Thúy Hằng

9,5

2


MỤC LỤC
A – PHẦN MỞ ĐẦU
B – PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Nội dung quy luật lượng – chất .........................................................................5
I) Phạm trù chất và lượng ...................................................................................................5
1. Quan niệm của các nhà Triết học cổ đại
2. Quan niệm của các nhà Triết học duy vật biện chứng
2.1.Phạm trù chất
2.2.Phạm trù lượng
II) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng ......................................................................9
1.Tính thống nhất giữa chất và lượng
2. Q trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại.
3. Những thay đổi về chất dẫn đến những tha đổi về lượng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận

III)Ý nghĩa quan hệ lượng – chất trong đời sống hiện nay .............................................18
Chương 2 : Vận dụng quy luật lượng chất trong đời sống hiện nay ...............................24
C – PHẦN KẾT LUẬN
Nguồn tài liệu tham khảo ................................................................................................29

3


A-PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng mn hình mn vẻ, con người
dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó
hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái
niệm “ quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và
tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính
khách quan. Con người khơng thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức
và vận dụng nó trong thực tiễn,
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là
một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận
động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng, quy
luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tảo khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích lũy
về lượng, muốm có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt
quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
Nước ta đang quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, việc nhận
thức đúng đắn quy luật lượng – chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong q trình hình thành và
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong bài thảo luận này, nhóm 3 xin được trình bày những cơ sở lý luận chung về
nội dung của quy luật lượng – chất, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn của việc nhận
thức quy luật này, sự vận dụng này trong đòi sống xã hội hiện nay.


4


B-PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Nội dung quy luật lượng – chất
I) Phạm trù chất và lượng:
1. Theo quan điểm các nhà Triết học cổ đại:
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với tư cách là
những phạm trù trong triết học của Aritxtốt. Theo ơng, “chất” là tất cả những gì có thể
phân ra thành những bộ phận cấu thành, còn “lượng” được phân thành hai loại: số lượng
(là loại lượng mang tính rời rạc) và đại lượng (là loại lượng mang tính liên tục). Arixtốt
là người đầu tiên nêu ra quan niệm về tính nhiều chất của sự vật, từ đó ơng phân biệt sự
khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất hiện (hay mất đi) cùng
với sự sinh thành (hay mất đi) của bản thân sự vật. Ông cũng đạt được bước tiến đáng kể
trong việc nghiên cứu phạm trù “độ”, xem “độ” là cái thống nhất, cái không thể phân chia
giữa “chất” và “lượng”.
Sau này, quan điểm phiến diện tuyệt đối hóa đặc trưng về lượng đã được khắc phục
trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hegel. Ông cho rằng chất phát triển từ
“chất thuần túy” đến “chất được xác định”, chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng.
Lượng cũng khơng ngừng tiến hóa, “số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa của
lượng. Hê-ghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về lượng và thay
đổi về chất trong một khoảng nhất định, đó là cơ sở để hình thành phạm trù “độ”.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hê-ghen
đặc biệt chú ý tới phạm trù “bước nhảy”. Chính dựa trên tư tưởng này của Hê-ghen mà
Lê-nin đã rút ra một kết luận quan trọng: việc có thừa nhận bước nhảy hay khơng là tiêu
chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình về sự

5



phát triển. Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hê-ghen đã xem các phạm trù
chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát của tinh thần, của “ý niệm tuyệt đối”.
2. Theo quan điểm các nhà Triết học duy vật biện chứng:
2.1.

Phạm trù chất:

- Chất là một phạm trù của triết học, dùng để xác định tính quy luật khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu
thành lên sự vật, hiện tượng. VD: cái bàn, cái ghế…
- Tạo thành chất của sự vật là các thuộc tính khách quan của nó. Thuộc tính là biểu hiện
một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác, là
những tính chất, trạng thái, yếu tố cấu thành nên sự vật. Đó là những đặc điểm vốn có của
sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong vận động hoặc phát triển của
nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra qua sự
tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khá.
VD: Chất của đồng chỉ được bộc lộ khi tác động qua lại với nhiệt độ, điện…
Chất của một người chỉ được bộc lộ qua quan hệ của người đó với những người
xung quanh và cơng việc họ làm.
- Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc
tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những thuộc tính cơ bản và những thuộc
tính khơng cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Ở
mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật
trong tồn bộ q trình tồn tại của sự vật, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó
quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.

6



VD: Đối với xã hội phong kiến, chất cơ bản là phương thức sản xuất thủ công. Tuy nhiên
qua quá trình phát triển đã xuất hiện nhiều máy móc cơ giới, làm thay đổi phương thức
sản xuất. Khi đó phương thức sản xuất cũ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới cao
hơn làm cho xã hội bị thay đổi, khơng cịn là xã hội phong kiến nữa.
- Sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản cũng chỉ
mang tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy
định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố
tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi
các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
VD: Gang và thép đều là hợp kim của sắt với cacbon và một số nguyên tố khác. Gang
có hàm lượng cacbon chiếm từ 2% đến 5%, cịn thép có hàm lượng cacbon nhỏ hơn 2%.
Sự khác nhau về hàm lượng cacbon làm cho chúng có những tính chất và công dụng khác
nhau giữa 2 vật liệu này. Gang thì cứng, giịn, dễ đúc, khơng thể kéo thành sợi. Thép lại
có tính cứng, đàn hồi, dẻo, dễ kéo và ít bị oxi hóa.
Vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự vật có vơ
vàn thuộc tính nên có vơ vàn chất. Chất và sự vật không tách rời nhau: chất là chất của sự
vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất biểu hiện trạng thái tương
đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc
tính của sự vật, làm cho sự vật này khơng hịa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với
cái khác.
2.2. Phạm trù lượng:
- Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, nó biểu thị số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, các đại lượng, trình độ, quy
mơ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.

7


VD: số lượng người trong một lớp học, vận tốc ánh sáng..
- Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất,

chiếm một vị trí nhất định trong khơng gian và tồn tại trong khoảng thời gian nhất định.
VD: Số lượng học sinh của một lớp là 42 người nhưng Số lượng này không giữ nguyên
mà sẽ thay đổi vào năm sau.
- Lượng biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều,
nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp
VD: Nguyên tử nước được cấu thành từ hai nguyên tố hóa học là oxi và hidro, trong đó
có hai nguyên tử hidro và một nguyên tử oxi.
- Những đặc trưng về lượng cũng được biểu hiện trong những mối quan hệ nhất định.
Nhưng, khác với những mối quan hệ là phương thức bộc lộ các thuộc tính về chất, những
mối quan hệ nhờ đó những thuộc tính về lượng bộc lộ ra, mang tính xác thực, chặt chẽ,
nghiêm ngặt hơn rất nhiều. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng có thể đo,
đếm được; nhưng trong một số trường hợp của xã hội đặc biệt là trong tư duy thì lượng
khó có thể đo được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu
tượng hóa.
VD: Lịng tốt, tình u, đạo đức, phẩm chất con người, ...
- Bản thân lượng khơng nói lên sự vật đó là gì, các thơng số về lượng khơng ổn định mà
thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật, đó là mặt khơng ổn định
của sự vật.
II ) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
1. Tính thống nhất giữa chất và lượng.

8


-Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng,
chất và lượng là 2 mặt của cùng một sự vật. Chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
tương ứng với một loại lượng nhất định là một loại chất tương ứng và ngược lại.
Ví dụ: Tương ứng với cấu tạo Na – Cl (cấu tạo liên kết một nguyên tử Natri và một
nguyên tử Clo) thì một phân tử muối được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản,
vốn có của nó là màu trắng, khơng mùi, tan trong nước,…

Tương ứng với chất học sinh trung học phổ thông là chiều cao, cân nặng, lượng kiến
thức tương ứng với học sinh trung học phổ thông.
-Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời trong sự vật. Trong q trình vận động và
phát triển, chất và lượng khơng đứng im. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa
tương đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; cái là lượng
trong mối quan hệ này lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.
Ví dụ: Các con số là sự quy định về mặt lượng, tuy nhiên các con số khác nhau lại biểu
hiện những chất khác nhau. Cụ thể hơn, số 10 biểu hiện cho sự phát triển về lượng từ 1
đến 10, nhưng số 10 lại biểu hiện chất khác hẳn so với số 0.
Có thể thấy, trên thực tế, bản thân lượng khơng nói lên sự vật đó là gì, các thơng số về
lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật,
đó là mặt khơng ổn định của sự vật.
2. Q trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mối quan hệ giữa lượng và chất trong một chỉnh thể.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng sẽ có thể dẫn
tới sự thay đổi về chất song không phải lúc nào lượng thay đổi thì chất sẽ thay đổi. Sự
biến đổi về lượng có thể xảy ra theo hai hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng dẫn đến
9


sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất. Do chất là cái tương đối ổn định còn lượng
là cái thường xuyên biến đổi nên ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi
chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của nó, chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định
(đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho
chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời.
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng khơng bao giờ tồn tại,
nếu khơng có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển

của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời nhau.
Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại,
sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về
lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. ở một giới hạn
nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng
hạn, khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng
trăm độ, thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa
chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất
định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khơng giới hạn đó gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của
sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng
và chất của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác. Dưới áp
suất bình thường (atmotphe) của khơng khí, sự tăng hoặc sự giảm nhiệt độ trong khoảng
giới hạn từ 0◦C đến 100◦C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước

10


đó giảm xuống dưới 0◦C nước thể lỏng chuyển thành thể rắn và duy trì nhiệt độ đó, từ
100◦C trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển dần sang trạng thái hơi. Đó là sự thay
đổi về chất trong hình thức vận động vật lý của nước.
Điểm giới hạn như 0◦C và 100◦C ở thí dụ trên, gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng
đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của
một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong q trình vận động và phát triển

liên tục của sự vật. Có thể nói, trong q trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền
đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong
độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá
trình ấy khơng cố định mà có thể có những thay đổi. Sự thay đổi ấy do tác động của những
điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
▪ Các hình thức cơ bản của bước nhảy
Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những
hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản thân sự vật,
bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.

11


Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia thành
bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay
đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235 (Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ
xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ
dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Chẳng
hạn, q trình chuyển hóa từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm. Q
trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nơng nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một thời kỳ lâu dài, qua nhiều bước nhảy dần dần. Quá trình thực hiện bước nhảy
dần dần của sự vật là một q trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước
nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Song cần lưu ý rằng, bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự
vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ chất này sang chất khác, còn sự thay
đổi dần dần về lượng là sự tích luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ

chuyển hóa về chất.
Căn cứ vào quy mơ thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy
cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu
tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt,
những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

12


nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng
ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực
xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy tồn bộ - xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Ví dụ tổng quát: Để có một tấm bằng đại học, sinh viên phải tích lũy đủ số tín chỉ, hồn
thành khóa luận tốt nghiệp, hồn thành nghĩa vụ với nhà trường, để có đủ số tín chỉ, sinh
viên phải tích lũy đủ số lượng đơn vị học trình của các mơn học. Vậy, có thể coi thời gian
học là độ, các kỳ thi là điểm nút, và kết quả kỳ thi đạt yêu cầu là bước nhảy, bước nhảy là
kết thúc của một giai đoạn tích lũy tri thức trong q trình học tập, rèn luyện của sinh
viên, khi đó chất mới sẽ được ra đời là người đi làm, như vậy ta có thể thấy sự thay đổi về
lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất.
Trong lịch sử triết học, do tuyệt đối hóa tính dần dần, tính tiệm tiến của sự thay đổi về
lượng nên các nhà triết học siêu hình đã phủ nhận sự tồn tại của “bước nhảy”. Triết học
Mác-Lênin cho rằng phải có “bước nhảy” thì mới giải thích được sự vận động, phát triển
của thực tế. Sự vật hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện; trong sự
vật, hiện tượng mới đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ
như thế, sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc
thì nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ
bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật lượng đổi – chất đổi cịn nói lên chiều ngược lại

nghĩa là khi chất mới ra đời đã khẳng định minh, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự
thống nhất mới giữa chất với lượng. Bản thân chất mới được tạo thành cũng thúc đẩy sự
thay đổi tương ứng của lượng để cho lượng này trở nên phù hợp hơn với chất mới đó.
Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng – chất là quan hệ biện chứng. Những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định,
lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất

13


mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ
chất cũ đang kìm hãm nó. Q trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất làm cho
sự vật không ngừng vận động, phát triển.
3. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
Khi chất mới ra đời, nó khơng tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối
với lượng, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất giữa chất
và lượng. Nó có thể làm thay đổi quy mơ, kết cấu, trình độ, nhịp điệu vận động của sự vật.
Chẳng hạn, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là cũng là thực hiện
bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh viên cao hơn
trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mơ và trình độ tri thức, giúp họ tiến
lên trình độ cao hơn. Cũng giống như vậy, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi
thì vận tốc của các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể
tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hồ tan một số chất tan
của nó cũng sẽ khác đi. Cỗ máy hơi nước đầu tiên của nhân loại do Thomas Newcomen
phát minh (năm 1712) đã giúp nước Anh đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nửa đầu thế
kỷ 18, tạo điều kiện cho sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, các
nhà khoa học lần lượt phát minh ra nhiều loại máy móc hiện đại thay thế sức lao động
chân tay giúp cho đời sống của nhân dân được cải thiện....
Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất

thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời tác động đến sự thay đổi của lượng mới. Quá trình
đó diễn ra liên tục tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy.

14


Chẳng hạn, việc chuyển từ học phổ thông sang học đại học được coi là một bước chuyển
về chất. Khi chúng ta học phổ thơng, chúng ta tích lũy kiến thức dần dần, ngày này qua
ngày khác, sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết toàn bộ chương trình, nắm vững các
kiến thức đó và chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi đại học. Đối với những người đã tích lũy
đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ vượt qua kỳ thi và trở thành sinh viên đại học. Đối với
những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc
thì họ sẽ chưa vượt qua được kỳ thi, họ có thể sẽ mất thêm thời gian để tích lũy thêm bằng
cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ khơng thi nữa. Cũng như hạt thóc khi được gieo
xuống ruộng thì sẽ nảy mầm biến thành cây mạ sau q trình chăm bón cẩn thận cây mạ
sẽ phát triển mạnh mẽ hình thành nên cây lúa cứng cáp, chắc khỏe...
4. Ý nghĩa của phương pháp luận.
- Với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hố lẫn nhau, do đó trong nhận thức và
thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, từ đó mới
nhận thức tồn diện về sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong cuộc sống, mỗi con người nên cố gắng trau dồi kiến thức bản thân phát
triển tốt mọi mặt trong đời sống phù hợp với từng lứa tuổi. Khi còn nhỏ, ta nên làm những
việc vừa sức với mình, vui chơi bổ ích. Đến khi trưởng thành, ta lại cần phải phát triển tốt
các kỹ năng xã hội nhiều hơn giúp ích cho cuộc sống, cơng việc của mình. Ta phải biết
cân bằng lượng và chất một cách hoàn hảo tránh vượt quá giới hạn cho phép làm biến đổi
chất sang một hướng tiêu cực.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hoá thành
những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận

thức và thực tiễn, tuỳ theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm

15


thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay
đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sinh viên phải xác định được trong thời kỳ sinh viên phải tích luỹ những kỹ năng
cần thiết, kinh nghiệm sống để sau khi ra trường có khả năng giải quyết cơng việc đúng
chun mơn, chun ngành của mình.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” – nhấn mạnh bước nhảy khi
chưa đủ sự tích lũy về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm. Đồng thời,
phải tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối hoá sự tích lũy về lượng, khơng dám thực hiện bước
nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Khi tích lũy
về lượng đã đủ thì phải thực hiện bước nhảy.
Ví dụ: Khi mới ở quê lên Hà Nội học nhiều bạn còn bỡ ngỡ, kém về ngoại ngữ, giao
tiếp dẫn tới trong học tập cần phải cố gắng trau dồi kiến thức và tiếp thu các kỹ năng mềm
trong cuộc sống.
- Vì bước nhảy của sự vật đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện,
lĩnh vực cụ thể.
Ví dụ: Trong tình yêu, khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó
mến cảm với nhau lúc đầu thơi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được. Sau khi đã quen
biết nhau, họ bắt đầu đi lại nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn, cùng nhau làm một
số việc như cùng học, cùng đi chơi...qua những chuyện đó họ sẽ dần dần hiểu nhau hơn,
hiểu về con người, tính cách, cá tính và nét duyên dáng đáng yêu của nhau hơn. Dần dần
trong họ bắt đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là một người rất đáng yêu trong
các hồn cảnh của cuộc sống. Việc tích lũy về những hiểu biết, những tình cảm, cảm xúc
về nhau đó được xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết đó, những tình
16



cảm đó đủ lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình u. Nhưng thường để chính thức
được cơng nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và nhận lời yêu.
Đây được xem là một “bước nhảy” trong quan hệ giữa hai người chuyển từ chất này (tình
bạn) qua chất khác (tình yêu). Có một điều đáng lưu ý ở đây (cũng là một lưu ý hết sức
quan trọng trong triết học về quy luật lượng chất này là xác định xem lượng đã đủ chưa
để thực hiện bước nhảy vì nếu tích chưa đủ lượng mà thực hiện bước nhảy thì sẽ thất bại,
nhưng nếu đã đủ lượng rồi mà không tạo điều kiện để thực hiện bước nhảy thì sẽ khơng
biến đổi được về chất). Đối với tình yêu cũng tương tự vậy, cần phải xem là tình cảm của
mình đã đủ lớn chưa để có thể chuyển sang tình u, và nếu mà đã đủ rồi mà mình khơng
dám tỏ bày thổ lộ với họ để có người khác đến cướp mất thì sẽ là một điều đáng tiếc lớn.
Và đến khi họ quyết định sẽ cưới nhau, đó thực sự là một bước nhảy lớn trong quan hệ
của hai người, nó cũng được tuân thủ các quy luật của lượng chất, khi sự hiểu biết về
nhau, hiểu và thông cảm cho nhau, hiểu tính cách, hiểu cuộc sống, thấy rằng hợp với mình
và tình cảm của 2 người dành cho nhau đủ lớn để đảm bảo sẽ chiến thắng được những
sóng gió của cuộc đời thì họ sẽ tiến đến hôn nhân.
III) Ý nghĩa quan hệ lượng – chất trong đời sống hiện nay
1. Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng
nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức,
chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về
những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn
độ, điểm nút, bước nhảy.

17



2. Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm
nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:


Thứ nhất, nơn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân khơng kiên trì và nỗ
lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;



Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng
khơng muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.

+ Nếu khơng muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm sốt lượng trong giới hạn
độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được
thực hiện một cách cẩn thận.
+ Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước
nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được
những hậu quả khơng đáng có như khơng đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải
thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu.
➢ Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát

triển nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngồi, từ đó chúng ta biết cách để
bố trí thời gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân
đặt mục tiêu.

Đơi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh:


18


Tri thức là hành trang không thể thiếu của mỗi người. Từ khi sinh ra, chúng ta đã tích lũy
tri thức theo từng giai đoạn phát triển: từ những điều cơ bản nhất như ngôn ngữ, đồ vật,
màu sắc,… đến những kiến thức về các lĩnh vực trong cuộc sống như văn học, toán học,
lịch sử. Đặc biệt là những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta được tiếp thu
những tri thức cơ bản về cuộc sống trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, mỗi
học sinh cũng trang bị thêm cho mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng mềm cần
thiết cho cuộc sống sau này. Tuy nhiên, 12 năm học trung học và phổ thông và những năm
trên giảng đường đại học vẫn là thời gian quan trọng nhất bởi đó là thời điểm chúng ta
trang bị cho mình những kiến thức cơ bản nhất mà mỗi người đều phải biết trong xã hội
ngày nay.
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một q trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không
biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng
(kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cơ giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc
thêm sách tham khảo,… thành quả của q trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài
kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần
thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn. Như vậy, quá trình học tập,
tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc học sinh được sang
một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều
bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên
học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu
mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan
trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên. Sau khi thực hiện
dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng.
Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh viên,
đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ
thông. Và tại đây, một q trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá

19


trình này khác hẳn so với q trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thơng. Bởi đó
khơng đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là
sự tự nghiên cứu, tìm tịi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là
những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu
lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước
nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để
nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một cơng việc. Cứ như vậy, q trình nhận thức
(tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động khơng ngừng trong q trình tồn
tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn,
tạo động lực cho xã hội phát triển.



Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất vào tìm hiểu về cách
thức vận động của q trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp
nhằm khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng:

Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên đóng vai trị vơ cùng quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, của đất nước. Bởi chính q trình này tạo ra những con
người có đủ năng lực để tiếp quản đất nước, đưa đất nước phát triển sánh vai với các
cường quốc năm châu. Vì vậy, mỗi học sinh, sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng,
đúng đắn về vấn để này, phải tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện
bước nhảy, khơng được nơn nóng, đốt cháy giai đoạn. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo
điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra
trường sớm. Tuy nhiên cũng có khơng ít sinh viên đăng kí học vượt nhưng khơng đủ khả
năng để theo, dẫn đến hậu quả là phải thi lại chính những mơn đã đăng kí học vượt. Điều
này cũng có nghĩa là các sinh viên đó chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà

đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự
thất bại. Bên cạnh đó, thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn

20


bệnh thành tích, đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tức là học sinh chưa tích
lũy đủ lượng cần thiết đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy, điều này
đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người khơng có cả “chất” và “lượng”,
dẫn đến những vụ việc rất vơ lí như học sinh đi học khơng viết nổi tên mình mà vẫn được
lên lớp, chỉ vì nếu cho ở lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường.
Ví dụ như vụ việc vào tháng 10/2014, chị Hồng Thị Thu (trú xóm Hồng Tiến, xã Xuân
Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) không đồng ý con trai mình là Bảo Quân bị nhà trường
“bắt ép” lên lớp 2. Phụ huynh này đã xin cho con học lại lớp 1, vì cháu chưa thuộc hết
bảng chữ cái. Các chữ O, A…, em cũng không biết. Tuy nhiên, yêu cầu cho con học lại
lớp 1 của chị Thu không được giáo viên chủ nhiệm chấp thuận, vì ảnh hưởng thành tích
phổ cập giáo dục của nhà trường. Đến gặp ban giám hiệu, chị cũng nhận được cái lắc đầu
vì lý do tương tự. Như vậy, có thể khẳng định việc đốt cháy giai đoạn theo khuynh hướng
tả khuynh là một hành động sai lầm, tuy nhiên, sự bảo thủ, trì trệ theo khuynh hưởng hữu
khuynh cũng như vậy. Nếu lượng đã tích đủ, đạt đến điểm nút mà vẫn khơng thực hiện
bước nhảy thì quan niệm phát triển cũng chỉ là sự tiến hóa đơn thuần về lượng, khơng phải
về chất, như thế thì sự vật sẽ khơng phát triển được. Bên cạnh đó, do hình thức bước nhảy
của sự vật rất đa dạng, phong phú nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải vận dụng linh
hoạt các hình thức của bước nhảy trong những điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Trong quá trình
tiếp thu kiến thức của học sinh khơng thể áp dụng hình thức bước nhảy đột biến, khơng
thể có chuyện học sinh mới đi học đã có thể tham gia kì thi tốt nghiệp, mà phải thực hiện
bước nhảy dần dần: đó là vượt qua từng bài kiểm tra nhỏ, rồi đến bài kiểm tra học kì và
bài thi tốt nghiệp, có như vậy mới đúng với quy luật và đạt được hiệu quả.

Như vậy, có thể thấy việc áp dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi

về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào các hoạt động trong đời sống
là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên.

21


Bởi có như vậy hoạt động đó mới có hiệu quả, góp phần đào tạo ra những con người cú
đủ cả chất và lượng để đưa đất nước ngày một phát triển hơn.

-Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện củahọc sinh sinh
viên có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn hiện nay trong nền giáo dục của nước ta.


Thứ nhất cần từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ. Như chúng
ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển
về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm ngồi điều đó. Do đó, trong
hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng
(tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.



Thứ hai trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội,
đốt cháy giai đoạn. Trong q trình học tập và rèn luyện của sinh viên cần tránh tư
tưởng tả khuynh, tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước
nhảy. Sinh viên khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất mới có
thể học tiếp những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến khó
là phương pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết nhưng trong thực
tế, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh viên trong quá trình đi học
tập do khơng tập trung, cịn mải mê vui chơi, dẫn đến sự chậm chễ trong học tập,

rồi “nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập trung cao độ vào việc học. Giai
đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên
học tập chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được
kỳ thi. Ngược lại có nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu, nhưng họ lại nóng
vội, muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng cao.
Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao, thì

22


mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để có
sự biến đổi về chất.
-Bên cạnh đó quy luật cịn có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý và đào tạo.
Thực tế trong nhiều năm qua, giáo dục nước ta còn nhiều hạn chế trong tư duy quản lý
cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy theo bệnh thành tích chính là
thực tế đáng báo động của nghành giáo dục bởi vì mặc dù sự tích lũy về lượng của học
sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành công” bước nhảy,
tức là lượng kiến thức chưa đủ để vượt qua tốt nghiệp để có bằng nhưng vẫn ra được
trường và có bằng. Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho
phép chúng ta thực hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc
chống lại căn bệnh thành tích trong giáo dục vẫn tồn tại nhiều năm qua. Bên cạnh đó
là việc thay đổi phương giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ
đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt tiến độ
chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.

Chương 2: Vận dụng quy luật lượng – chất trong đời sống
hiện nay
* Bài liên hệ 1
Ba quy luật cơ bản phép BCDV của Lê-nin có viết: “Khi chúng ta đã biết được quy luật
của giới tự nhiên, quy luật tác động khơng phụ thuộc vào ý chí của chúng ta và vào ý thức

của chúng ta thì chúng ta trở thành người chủ của giới tự nhiên”. Quả đúng là như vậy,
khi ta biết được những quy luật chúng ta sẽ có thể hiểu được và làm chủ khơng chỉ giới tự

23


nhiên mà cịn là chính con người chúng ta. Chỉ sau khi hiểu được và làm chủ thì ta mới có
thể có những cách để phát triển bản thân.
Trước hết, chúng ta có quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về
chất và ngược lại. Có lẽ câu nói: phải có sự tích lũy đủ về lượng mới có sự thay đổi về
chất, đã quá phổ biến, được nhiều người truyền tai nhau, nhưng quả thực đó lại là một câu
nói làm kim chỉ nam rất tốt để mỗi bản thân dựa vào đó mà phát triển bản thân. Có thể lấy
ví dụ, trong q trình học tập, phải học tập một cách có đầu tư cả về thời gian và cơng
sức, phải có một q trình đủ lâu dài tích lũy về lượng kiến thức mới có thể đạt đến một
mức độ nhất định, làm được các bài khó, suy nghĩa nhanh và làm tốt các bài kiểm tra. Tiếp
theo là chúng ta cần xác định được các điểm nút, bởi sau khi tích đến đủ một lượng nhất
định, đạt đến một giới hạn nào đó, vượt qua điểm nút, sẽ có sự thay đổi về chất. Xác định
được điểm nút, bản thân cần tập trung nguồn lực để tạo nên bước nhảy. Cụ thể như điểm
nút là việc đỗ đại học, sau khi xác định xong, chúng ta cần phải nỗ lực học tập, khơng sao
nhãng, tập trung tồn bộ tâm trí vào đó để có thể vượt qua giới hạn. Tuy nhiên, ta cũng
cần phải biết tranh thủ thời cơ, tận dụng những lợi thế của bản thân để tạo nên những bước
nhảy vọt. Đồng thời sự thay đổi về chất cũng dẫn đến sự thay đổi về lượng, có thể nói đơn
giản đến việc thay đổi mơi trường học tập từ cấp Ba lên Đại học. Lên đại học, lượng kiến
thức nhiều hơn, có rất nhiều việc mình cần trau dồi ngồi việc học tập, như kĩ năng mềm…
từ đó cần chúng ta thích nghi, nỗ lực hơn rất nhiều để phù hợp với sự thay đổi về chất.
- Nguồn: internet
* Bài liên hệ 2
Trong chất sinh viên Đại học Thương Mại kéo dài từ năm 2021 đến năm 2025, khi đó
lượng khơng ngừng được tăng lên, đó chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông,
sinh viên Đại học muốn có được tấm bằng Đại học phải tích lũy đủ số tín chỉ học phần.


24


Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó là sinh viên khơng thể
thụ động tiếp thu kiến thức mà cịn phải tự tìm tòi, nghiên cứu từ những kiến thức mới
qua những chỉ dẫn của giảng viên. Nó khơng chỉ bao gồm những kiến thức cơ bản trong
giáo trình mà kiến thức đến từ việc trải nghiệm các tình huống ngồi xã hội. Kiến thức
cịn vơ cùng phong phú từ đa dạng đến chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao, từ ít đến
nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng được thay
đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn qua từng giai đoạn. Tuy
nhiên qúa trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất. Chất của sinh viên Thương Mại chỉ
có thể được thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua các điểm nút
tức là những kì thi, các kì kiểm tra. Trong đó điểm nút quan trọng nhất là sau khi viết luận
văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính là điểm nút lớn nhất đánh dấu
“bước nhảy” từ một sinh viên Thương Mại trở thành một cử nhân Thương Mại. Điều đó
chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy qua 4 năm học đã đủ để làm chất sinh
viên Thương Mại thay đổi. Ngoài ra, là một sinh viên Thương Mại, ta phải tự trang bị cho
mình tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực. Trong một kì thi, nếu gian lận để một
kết quả tốt thì dù ta có thể qua được kì thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến
đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ khơng tiếp thu
được. Và vì thế dù có trải qua 4 năm đào tạo hệ đại học với tấm bằng loại Giỏi hay Xuất
sắc thì ta vẫn khơng đáp ứng được u cầu cơng việc sau này.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là khi trở
thành cử nhân Thương Mại việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các
tình huống và khả năng giao tiếp, ứng xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên. Điều
này thúc đẩy cử nhân Thương Mại tiếp tục tiếp thu những tri thức mới ở cấp độ cao hơn
để hoàn thiện bản thân.
- Nguồn: internet


25


×