Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quy luật mâu thuẫn và vận dụng quy luật mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.66 KB, 21 trang )

Tiểu luận triết học
Lời nói đầu
Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng trong phép biện chứng duy vật .Nó
được coi là hạt nhân của phép biện chứng vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận
động và phát triển , nã chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi cái này thành cái khác ,
đồng thời nó tác động đến tất cả quy luật và phạm trù của phép biện chứng.
Trong công cuộc đỏi mới ở nước ta hiện nay có rất nhiều mâu thuẫn trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội .Đây là một vấn đề quan tâm của Đảng và Nhà nước ,
nhiều bài báo , cuộc họp đã bàn luận về vến đề bức xúc này . Và mặc dù đã có nhiều
lý luận và đề tài đề cập tới sự hoạt động của quy luật mâu thuẫn trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam nhưng với em là một sinh viên em tự nhận thấy rằng việc tiếp tục
nghiên cứu và khai thác những khía cạnh của quy luật này trong tình hình thị trường
Việt Nam hiện nay sẽ không những giúp cho mình hiểu biết sâu sắc về vấn đề này mà
còn góp một phần nhỏ bé vào việc phát triển lý luận , vào sự phát triển kinh tế ở Việt
Nam. Với mong muấn đó em đã chọn đề tài : “Quy luật mâu thuẫn và vận dụng quy
luật mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay” Đề tài này dược nghiên cứu trên cơ sở sử
dụng phương pháp luận duy vạt biện chứng Mác_Lênin
Với những hiểu biết đang còn rất hạn chế chắc chắn sẽ không tránh được những
sai lầm trong bài viết của mình mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của thầy cô để
bài viết của em được hoàn chỉnh hơn .
Em xin chân thành cảm ơn.
1
Tiểu luận triết học
Phần mở đầu
I > Lý DO CHọN Đề TàI _ MụC ĐíCH CủA Đề TàI
Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế của nước ta là nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp . Nhưng nó chỉ phù hợp khi đất nước còn chiến
tranh , sau khi đất nước hoà bình thống nhất thì nó không còn phù hợp nữa mà dẫn
đến tiêu cực , thoái hoá . Nguyên nhân sâu xa của sự thoái hoá nền kinh tế ở nước ta
là do đã dập khuôn một mô hình kinh tế không thích hợp và kém hiệu quả . Trước sự
suy thoái kinh tế nghiêm trọng , viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế


nước ta tới sự bức bách cần đổi mới .
Tại Đại hội VI Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ
chế hoạch toán kinh doanh XHCN . Đến Đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới
cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó
, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý cuả nhà nước theo định hướng XHCN . Nã phù hợp với thực tế của nhà nước
ta phù hợp với quy luật kinh tế và xu thế của thời đại .
Tuy nhiên công cuộc đổi mới đó ở nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn do nó
chứa đựng bên trong nhiều mâu thuẫn . Trong hoàn cảnh đó việc chúng ta liên tục tìm
hiểu và nghiên cứu những mâu thuẫn trong công cuộc đổi mới đất nước để từ đó nhận
rõ được các tác động , sù chi phối vận động , phát triển của các mâu thuẫn kinh tế _ xã
hội đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay là một vấn vấn đề có ý nghĩa
trọng yếu đối với việc soạn thảo , hoàn thành chiến lược , chủ trương , chính sách và
tổ chức lực lượng triển khai thực hiện . Có như vậy chúng ta mới tránh khỏi mắc
những sai lầm đáng tiếc trong sự nghiệp xây dựng CNXH . Chính vì tầm quan trọng
của quy mâu thuẫn đối với công cuộc đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN mà em quyết định chọn đề tài này .
2
Tiểu luận triết học
Mục đích của đề tài : nhằm tìm hiểu về đặc điểm và những biểu hiện của quy
luật mâu thuẫn trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay , qua đó thấy được những
mặt tích cực cũng như những mặt tiêu cực mà công cuộc đổi mới xây dựng nền kinh
tế thị trường đem lại để từ đó phát huy những mặt tích cực và đẩy lùi tiến tới xoá bỏ
những mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay .

II > NộI DUNG Đề áN
Cơ sở lý luận
I> Quy luật mâu thuẫn
II> Vì sao phải chuyển đỏi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường ?

A. Thực tiễn : Vận dụng quy luật mâu thuẫn trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam
I> Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam
1. Mâu thuẫn kinh tế vốn có của CNXH .
2. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN ở nước ta .
2.1. Tính thống nhất và mâu thuẫn của các thành phần kinh tế .
2.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.3. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người
trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta.
2.4. Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .
II> Các chính sách và giải pháp .

3
Tiểu luận triết học
Nội dung
A _ CƠ SỞ LÝ LUẬN
I . QUY LUẬT MÂU THUẪN
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến . Phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng : mọi sự vật , hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên
trong . Mỗi sự vật mỗi hiện tượng đều là thể thống nhất giữa các mặt , các thuộc tính ,
các khuynh hướng đối lập nhau . Những mặt này đối lập nhau nhưng lại liên hệ ràng
buộc nhau tạo thành mâu thuẫn .
1 . Một số khái niệm cơ bản
- Mặt đối lập là những thuộc tính những quá trình có khuynh hướng phát triển
đối lập nhau tạo nên sự tồn tại và hiện tượng .
- Mâu thuẫn : là khái niệm chỉ sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt đối
lập . Mỗi mâu thuẫn là một cặp mặt đối lập trong cùng một sự vừa thống nhất với
nhau , vừa thường xuyên đấu tranh với nhau .

- Sù đấu tranh giữa các mặt đối lập : là sự tác động qua lại theo xu hướng bài
trừ có phủ định lẫn nhau , sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt đối lập .
2 . Nội dung của quy luật
Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan ma còn là một hiện
tượng phổ biến . Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật , hiện tượng của giới
tự nhiên , đời sống xã hội và tư duy của con người . Không có một sự vật , hiện tượng
nào lại không có mâu thuẫn và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của
mỗi sự vật , hiện tượng lại không có mâu thuẫn . Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác lại hình thành .
Mâu thuẫn là một chỉnh thể , trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất , vừa đấu
tranh với nhau . Trong một mâu thuẫn , sù thống nhất của các mặt đối lập không tách
4
Tiểu luận triết học
rời sự đấu tranh giữa chóng . Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức
tạp . Quá trình Êy có thể chia ra từng giai đoạn , mỗi giai đoạn thường có những đặc
điểm riêng của nã . Khi mới xuất hiện , mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác
nhau của hai mặt đối lập . Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay
gắt nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau , mâu thuẫn
được giải quyết . Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá đi , sù đối lập
của hai mặt đối lập mới được hình thành với mâu thuẫn mới . Mâu thuẫn mới này lại
được triển khai , phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất
hiện thay thế sự vật cò . Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đã làm cho các sự vật
không thể tồn tại một cách vĩnh viễn .
Về sự chuyển hoá của các mặt đối lập Lênin viết : “không phải chỉ là sự thống
nhất của các mặt đối lập , mà còn là mỗi chuyển hoá của mỗi quy định , chất , đặc
trưng , mặt , thuộc tính sang mỗi cái khác ” . Do đó ta không nên hiểu sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn giản , máy móc chỉ căn cứ vào hình thức
bên ngoài , chỉ nói về sự chuyển hoá vị trí của chóng . Sự vật và hiện tượng trong thế
giới là muôn hình muôn vẻ nên sự chuyển hoá của các mặt đối lập cũng rất khác
nhau . Có hai loại chuyển hoá cơ bản của hai mặt đối lập :

- Thứ nhất : mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập kia , sang cái đối
lập với mình .
- Thứ hai : cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá thành cái khác , lên hình
thức cao hơn . Đây là một hình thức chuyển hoá hết sức phổ biến trong
thực tiễn .
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới với những hình
thức rất đa dạng . Tính đa dạng của các mối liên hệ trong sự vận động và phát triển
của thế giới vật chất quy định . Mỗi loại mâu thuẫn đều có những đặc điểm riêng và
có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật .
3 . Ý nghĩa lý luận
5
Tiểu luận triết học
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của phép
biện chứng . Quy luật này để chỉ rõ nguồn gốc động lực phát triển , phân tích quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật . Từ đó phải vận dụng nguyên
tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự
vật , hiện tượng , trước hết là mâu thuẫn là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu ,
phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn . Đấu tranh là
phương thức giải quyết mâu thuẫn .
Lênin nói : “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập ” Tuy
nhiên hình thức đấu tranh rất đa dạng , linh hoạt , tuỳ thuộc vào mâu thuẫn cụ thể và
hoàn cảnh cụ thể .
Từ đó ta cần xác định mâu thuẫn , phương pháp phân tích mâu thuẫn vì
trong sự vật có nhiều mâu thuẫn có vai trò vị trí khác nhau do đó phải biết phân tích
mâu thuẫn cụ thể , tìm cách giải quyết cụ thể đối vứi từng mâu thuẫn tuân theo quy
tắc phân tích cụ thể .
4 . Phương pháp giải quyết mâu thuẫn
- Mâu thuẫn có quá trình phát triển cho nên nó được giải quyết khi có đủ
điều kiện để giải quyết . Việc giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy
luật khách quan.

- Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh , các hình
thức đấu tranh cũng phải khác nhau để phù hợp với từng loại mâu
thuẫn .
- Mâu thuẫn phải được giải quyết một cách cụ thể . Có nhiều hình thức
đấu tranh giữa các mặt đối lập nên chúng ta phải căn cứ vào tình hình
cụ thể để lùa chọn hình thức đấu tranh phù hợp nhất .
II . VÌ SAO PHẢI CHUYỂN ĐỔI TỪ NỀN KINH TẾ CÒ ( KINH TẾ TẬP
TRUNG QUAN LIÊU BAO CẤP ) SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1 . Những hạn chế của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
6
Tiểu luận triết học
Theo quan điểm của duy vật biện chứng sự ngự trị của một hình thức tổ
chức kinh tế nào đó là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu
cầu của phương thức sản xuất . Thoạt đầu loài người chỉ có thể sống bằng nền kinh tế
tự nhiên cùng với sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất ( biểu hiện ở sự phân công lao
động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển sâu sắc ) Xã hội loài người sau
đó dần bước vào một cách tổ chức của kinh tế xã hội mới _ sản xuất hàng hoá ở các
nước XHCN đã bị thủ tiêu và thay thế vào đó là một nền kinh tế phi hàng hoá được
quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tuyệt đối . Những khiếm khuyết căn bản
của phương pháp tổ chức kinh tế hàng hoá là ở chỗ : nã triệt tiêu tinh thần lao động
sáng tạo , nã không trực tiếp tác động đến động lực cố hữu thiết thân của người lao
động là lợi Ých vật chất .
Ở nước ta đã có một thời gian dài sai lầm này dẫn đến kinh tế trì trệ , phát
triển chậm chạp . Cơ chế quan liêu bao cấp chính là nhân tố hàng đầu làm biến dạng
CNXH chân chính , khoa học . Nã chính là mâu thuẫn cơ bản mà công cuộc đổi mới
cần xoá bỏ dần để tiến tới cơ chế dân chủ , bởi vì chính nó làm cho sở hữu không dân
chủ , không có con người , làm biến dạng các quan hệ kinh tế _ xã hội , chính trị ,
nhân văn . Nã là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong sự phát triển lạc hậu của
lực lượng sản xuất mâu thuẫn với yêu cầu hiện đại hoá , dân chủ hoá đất nước . Cơ
chế quan liêu đã làm méo mó con người , triệt tiêu các động lực nội tại của nã , tước

mất ý chí và tự do độc lập , nhu cầu tự thể hiện bản thân của con người một điều kiện
để xây dựng hạnh phóc cá nhân . Cơ chế quan liêu muốn hay không muốn biến con
người thành phương tiện của bộ máy của kế hoạch vạch ra một cách quan liêu thành
các vai trò xã hội như vai trò của người chấp hành , chấp hành các mệnh lệnh quan
liêu từ trên dội xuống . Cơ chế quan liêu do ngộ nhận xã hội hoá trên thực tế là công
hữu hoá , tập thể hoá , vội vàng xoá bỏ sở hữu cá nhân_tư nhân . Nã làm biến các cá
nhân thành những người không có sở hữu , mà lam chủ sở hữu là làm chủ về mặt kinh
tế , tức là cá nhân phải làm chủ cái gì đó do chính bàn tay , khối óc của họ làm nên .
7
Tiểu luận triết học
Thực tế đã được chứng minh ở trong các hợp tác xã nông nghiệp ỏ Việt Nam , mọi
người ỷ lại vào nhau , không ai chịu lao động tích cực vì lợi Ých giữa những người
lao động tích cực và những người lao động không tích cực là như nhau . Họ không
phát huy được tính sáng tạo của cá nhân . Nhà nước chủ trương phân phối lao động
theo kiểu cân bằng , đó đúng là đã giải quyết được vấn đề lớn , đó là hạn chế được
những người phải chịu đói , không có cơm ăn , áo mặc nhưng lại là sự cản trở đối với
việc phát triển kinh tế không chú trọng phát triển lực lượng sản xuất , kéo theo quan
hệ sản xuất không tiến bộ lên được thì sản xuất chỉ đủ ăn , đủ cho nhu cầu hàng ngày ,
việc kinh tế giàu lên là điều khó khăn . Vậy là cơ chế quan liêu chậm thay đổi chẳng
những làm trì trệ sự phát triển kinh tế mà lớn hơn là làm cho cá nhân con người chậm
phát triển về nhiều mặt . Đến lượt nã , chính con người lại là nhân tố cản trở sự phát
triển của kinh tế xã hội vì nó là hậu quả của sự bao cấp về ý chí và tư tưởng , tư
duy chứ không chỉ bao cấp về mặt hiện vật theo nghĩa thuần kinh tế .
2 . Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một yếu tố khách quan
trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước .
Trước tình hình của đất nước như vậy thì quá trình chuyển đổi nền kinh tế là một
tất yếu nhưng lại rất phức tạp và hết sức đa dạng . Có nước chuyển nhanh , có nước
chuyển chậm . Mét câu hỏi đặt ra là chuyển đổi như thế nào thì có hiệu quả ?
Thứ nhất : Việc chuyển đổi này là một thay đổi cơ bản về chất từ cơ chế kinh
tế cho đến cách quản lý kinh tế . Cơ chế kinh tế mới chỉ chiến thắng cơ chế kinh tế cũ

khi năng suất lao động và hiệu quả kinh tế do cơ chế cũ tạo ra trước đó . Vì vậy vai
trò chủ đạo của
Nhà nước là thúc đẩy tiến trình chuyển đổi theo hướng khách quan nhằm tạo điều
kiện cho cơ chế kinh tế mới nhanh chóng thay thế kinh tế cò .
Thứ hai : Thay thế cơ chế cũ bằng cơ chế mới không phải là xoá bỏ sạch
trơn cái cũ mà lại là loại bỏ những mặt tiêu cực , lạc hậu , giữ lại những tích cực tiến
bộ còn phù hợp với điều kiện mới .
8
Tiểu luận triết học
Thứ ba : Trong quá trình chuyển đổi xuất hiện khoảng trống giữa hai cơ chế
kinh tế . Khoảng trống đó nếu kéo dài rất dễ sinh ra các hiện tượng tiêu cực như tham
ô , lãng phí , chuyển sử hữu công thành sở hữu cá nhân . Do đó vấn đề cấp bách của
việc chuyển đổi là Nhà nước phải nhanh chóng xoá bỏ khoảng trống giữa hai cơ chế
kinh tế , đồng thời giúp cho thị trường phát triển được đồng bé , đầy đủ hơn .
Muốn làm được những việc trên chúng ta phải xác định cho được nền kinh tế thị
trường hướng tới mà Đảng và Nhà nước ta mong muốn . Đó là nền kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN

B _ THỰC TIỄN : VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU
THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

I > MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1 . Mâu thuẫn kinh tế vốn có của CNXH
Thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN không xoá bỏ được những mâu thuẫn
trong xã hôị măc dù được CNXH việc xã hội hoá các tư liệu sản xuất và việc tuân thủ
các giai cấp bóc lột đã xoá bỏ những nguyên nhân sâu xa của những mâu thuẫn và
xung đột cực kỳ gay gắt . Do sù thay đổi của cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp nên
trong xã hội XHCN hoàn chỉnh tuy vẫn còn mâu thuẫn không đối kháng . Những mâu

thuẫn đối kháng đó là động lực phát triển xã hội XHCN . Đó là những hình thức biểu
hiện khác nhau về các mâu thuẫn giữa cái mới và cái cò , cái tiến bộ và cái lạc hậu ,
cái tích cực và cái tiêu cực . Những mặt đối lập không biểu hiện bằng quan hệ thù
địch giữa giai cấp đối kháng như trong chế độ cũ mà chỉ là sự không phù hợp giữa các
mặt riêng biệt , giữa các vấn đề cụ thể , cục bộ của đời sống muôn vẻ .
9
Tiểu luận triết học
Vì vậy , xã hội XHCN là xã hội tiến bộ nhưng không thể phủ nhận những mâu
thuẫn trong quá trình phát triển và sự phát triển Êy còng bao hàm sự xoá bỏ những
mâu thuẫn Êy . Vì xã hội XHCN không có giai cấp nông dân và các tầng líp trí thức ,
cho nên ở đó có đủ các điều kiện khiến cho các mâu thuẫn kinh tế chính trị được khắc
phục dần dần . Sù thắng lợi của công cuộc tập thể hoá đã đánh dấu sự xoá bỏ những
mâu thuẫn chủ yếu tồn tại giữa giai cấp công nhân và giai câp nông dân , mâu thuẫn
còn tồn tại cuối cùng sẽ mất hẳn trong quá trình xây dựng xã hội cộng sản .
Trong nền kinh tế XHCN , không có mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao
động xã hội , ở đây lao động xuất hiện ra là lao động xã hội trực tiếp . Nhưng nếu tính
lao động có tính hai mặt , nếu nhiều hình thái của lao động cụ thể còn được quy định
thành lao động trừu tượng thì đó là vì còn chưa thể trực tiếp đo được lao động bằng số
lượng thời gian bỏ vào việc sản xuất ra của cải . Sù tồn tại của hai hình thức toàn dân
và tập thể gắn bó với nhau bởi những mối liên hệ hàng hoá , sù khác nhau về bản chất
giữa lao động chân tay và lao động trí óc làm cho người ta chỉ đo được số lao động bỏ
ra dùng giá trị và dùng các hình thức của giá trị làm trung gian . Do đó mà có tính hai
mặt của hàng hoá sản xuất ra trong xã hội XHCN . Nhưng vì mâu thuẫn giữa lao động
tư nhân và lao động xã hội hiện nay đã bị thủ tiêu dưới CNXH , cho nên không còn
đối lập giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá cũng như của lao động cụ thể và
của lao động trừu tượng , chỉ còn tồn tại một sự khác nhau thường hay một sự khác
nhau về bản chất mà thôi . Chóng ta đều thấy rằng cái trước kia là một sự đối lập hay
hơn nữa là sự “ đối lập địch đối ” . thì nay trở thành một sự khác nhau thường trong
quá trình thủ tiêu các mâu thuẫn . Tuy nhiên sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá
trị có thể trở nên gay gắt một cách dễ dàng trong nền kinh tế XHCN , nhưng đó là do

công tác không tốt của một vài xí nghiệp , do không hoàn thành kế hoạch , do những
sai lầm về kế hoạch hoá …chứ không phải do những khuynh hướng và quy luật tất
yếu của sản xuất hàng hoá dưới CNXH .
10
Tiểu luận triết học
Dưới chế độ XHCN , sức lao động không còn là hàng hoá nữa . Người công
nhân không còn phải lao động để tạo ra giá trị thặng dư nữa vì mục đích của sản xuất
XHCN là thoả mãn những nhu cầu về bản thân người lao động . Sù phát triển của sản
xuất XHCN không tuân theo quy luật của cạnh tranh và của tình trạng sản xuất vô
chính phủ mà tuân theo quy luật mâu thuẫn có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân
không có lÝ do khách quan nào để cho sự khác nhau giữa lao động cụ thể và lao động
trừu tượng , giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá biến thành sự đối lập , sù
xung đột như dưới chế độ TBCN . Như vậy thì tính hai mặt của hàng hoá và của lao
động dưới CNXH không còn là biểu hiện của những mâu thuẫn cuả nền sản xuất hàng
hoá trước kia , của nền sản xuất hàng hoá giản đơn hay TBCN , mà của một nền sản
xuất hàng hoá thuộc một loại đặc biệt “ phục vụ cho xây dựng CNCS ” .
Dưới chế độ XHCN , tiền tệ không còn là phương tiện cho giá trị tự tăng thêm
và cũng không biến thành tư bản . Tiền tệ là công cụ để phát triển kinh tế XHCN .
Trong những điều kiện của chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất , của sự thụ tiêu
người bóc lột người , của sự phát triển một cách có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân
thì mọi nguyên nhân gây ra khủng hoảng đều không còn nữa . Điều đó cũng chấm dứt
tác động của tiền tệ làm cho mâu thuẫn thêm trầm trọng việc làm nổ ra những khủng
hoảng .
Chẳng hạn là phương tiện của lưu thông tiền tệ không thể tạo điều kiện cho
khủng hoảng xuất hiện dưới CNXH vì ở đây không còn có mâu thuẫn giữa lao động
tư nhân và lao động xã hội . Tiền tệ không còn là lực lượng nối liền những người sản
xuất riêng lẻ , những người tư hữu nữa , tiền tệ là công cụ mà xã hội dùng để đánh
giá và kiểm soát sản xuất và lưu thông .
Là phương tiện thanh toán , tiền tệ cũng có một tác dụng tương tự trong xã
hội XHCN , sản xuất không còn mục đích làm cho giá trị tự tăng lên trong xã hội và

cũng không sáng tạo ra giá trị thặng dư mà nhằm thoả mãn nhu cầu tối đa của những
người lao động . Cho nên tiền tệ không còn là “ hàng hoá tuyệt đối ” nữa . Sù khác
11
Tiểu luận triết học
nhau giữa hàng hoá và tiền tệ không có thể trở thành mâu thuẫn tuyệt đối dưới CNXH
. Tuy nhiên chõng nào mà tiền tệ còn là một hàng hoá thuộc loại riêng biệt dùng làm
vật ngang giá cho cac hàng hoá khác thì tiền tệ và hàng hoá vẫn còn tồn tại một số
mâu thuẫn . Những mâu thuẫn Êy biểu hiện ra chẳng hạn là trong sản phẩm có sản
phẩm thừa , chất lượng kém hoặc kế hoạch sai lầm thì hàng hoá không thể đổi lấy tiền
tệ được . Nhưng khi đó tiền tệ không làm cho những mâu thuẫn Êy thêm sâu xắc mà
dùng để thủ tiêu mâu thuẫn Êy , để sửa chữa những khuyết đIểm của sản xuất và của
thương nghiệp . Trong xã hội XHCN , những mâu thuẫn như vậy có tính chất không
đối kháng . Do đó chúng không thể chuyển thành đối lập , thành mâu thuẫn tuyệt đối
được .
Như ta thấy , do bản thân tính chất xã hội của CNTB , những mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên sâu sắc hơn , đạt tới mức cao nhất của
nó và được giải quyết bằng công cuộc cách mang XHCN . Dù các giai cấp thống trị
có cố gắng đến đâu chăng nữa cũng không thể ngăn trở sự phát triển Êy . Dưới CNXH
những mâu thuẫn đó không gay gắt như những mâu thuẫn dưới CNTB và ở nước ta
không không có chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân mà hoàn toàn chỉ có chế độ sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất . Nói cách khác dưới chế độ XHCN , tính chất xã hội của
sản xuất được củng cố bởi tính chất xã hội của sở hữu . Do đó mà không có các hình
thức biểu hiện của những mâu thuẫn điển hình của CNTB khủng hoảng kinh tế , chiến
tranh … Trong xã hội XHCN , không có giai cấp nào có lợi trong việc bảo vệ những
mặt tác động của quan hệ sản xuất . Trái lại các lực lượng cơ bản của xã hội XHCN
đều có lợi trong việc kịp thời giải quyết các mâu thuẫn và caỉ thiện quan hệ sản xuất .
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không thể chuyển hoá thành
đối lập vì không có cơ sở khách quan nào cho sự chuyển hoá đó .
2 . Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN ở nước ta .

12
Tiểu luận triết học
Quá trình đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho nước ta quen dần
với các quan hệ hàng hoá . Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng
được chú ý . Những kế hoạch , những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế hoặc phi kinh
tế đã giảm đáng kể . Tuy nhiên vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị nhất
định . Lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
nền kinh tế . Vì thế ổn định chính trị không phải là vô nguyên tắc mà đổi mới để giữ
vững chính trị , giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , vai trò tổ chức
quản lý của Nhà nước XHCN . Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế ,
trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm , đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù
hợp với đổi mới kinh tế . Bên cạnh những thành tựu đã đạt được khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhưng do mới đang còn trong giai đoạn đầu nên trình độ quản lý
tiếp cận với nền kinh tế thị trường còn yếu , hệ thống cán bộ chưa có kinh nghiệm về
nền kinh tế thị trường do vậy không tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát
triển , đó là :
2.1. Tính thống nhất và mâu thuẫn của các thành phần kinh tế dưới
CNXH .
2.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
2.3. Mâu thuẫn biệ chứng giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng
con người trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta .
2.4. Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta .
II > CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP .
Các mâu thuẫn trên đều gắn bó khăng khít với nhau , tác động thường xuyên
và phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế _ xã hội của nước ta hiện nay .
Trong bốn mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay thì mâu thuẫn
kinh tế là cơ bản nhất . Nhưng cả bốn mâu thuẫn trên đều đòi hỏi phải được giải quyết
không được xem nhẹ mâu thuẫn nào . Việc quán triệt đường lối đổi mới của Đảng để
giải quyết những mâu thuẫn nêu trên trong thực tế cuộc sống đã đem lại những thành
13

Tiểu luận triết học
tựu quan trọng nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn và mặt tiêu cực mới nảy
sinh . Điều quan trọng là về mặt lý luận cần phải cách nghĩa một cách khoa học về
bản chất của quá trình đổi mới đó và xu hướng phát triển của nó để hoàn thiện đường
lối đổi mới , tạo ra những tiền đề bảo đảm cho khả năng thắng lợi của công cuộc xây
dựng CNXH trên đất nước ta . Đảng cộng sản Việt Nam không từ bỏ mục tiêu xây
dựng CNXH mà Đảng chỉ thay đổi phương thức , biện pháp , bước đi để đạt được
mục tiêu đó mà thôi . Cái thay đổi chính là nhận thức và sự đIều chỉnh thái độ của
chúng ta đối với sở hữu tư nhân và kinh doanh tư nhân , đối với kinh tế hàng hoá và
cơ chế thị trường ; là sự tìm tòi thử nghiệm những hình thức kinh tế và những mô
hình tổ chức kinh tế phù hợp với thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong
điều kiện của nước ta hiện nay , đem lại hiệu quả kinh tế xã hội thực sù .
Xây dựng CNXH bằng cách phát triển CNTB nhà nước , điều đó là trung
thành với quan điểm hết sức đúng đắn của Lênin là : “ trong một nước tiểu nông ,
trước hết cần phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua CNTB nhà nước
tiến lên CNXH ” (Lênin toàn tập _ tập 44 ) . Khi giải thích về việc phải chuyển sang
chính sách kinh tế mới Lênin nói : “ chóng ta cần nhận thức rõ là chưa nên xây dựng
trực tiếp CNXH mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế của chúng ta , cần phải lùi về CNTB
Nhà nước , từ bỏ biện pháp tấn công chính diện mà bắt đầu cuộc bao vây lâu dài ”
(Lênin toàn tập _ tập 44).
Việc sử dụng phạm trù CNTB Nhà nước như tất yếu kinh tế để xây dựng
CNXH ở nước ta sẽ có thể giải thích được một điều có vẻ ngược đời nhưng lại là biện
chứng cho cuộc sống đang diễn ra trước mắt chúng ta là xây dựng CNXH bằng cách
mở rộng đường cho CNTB , chỉ có điều đấy là CNTB hoạt động dưới sự quản lý của
Nhà nước XHCN và không dẹp bỏ kinh tế tư nhân và TBCN như chúng ta đã làm
trước đây . Trái lại ngày nay chóng ta bảo hộ và khuyến khích các thành phần kinh tế
đó phát triển . Điều này không phải là chúng ta thay đổi con đường phát triển kinh tế
_ xã hội không phải là từ bỏ sự lùa chọn XHCN việc xoá bỏ chế độ tư hữu kiểu trước
14
Tiểu luận triết học

đây là trái với quy luật khách quan . Vì thế sẽ không thúc đẩy mà trái lại làm cản trở
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất , mục tiêu công bằng nước mạnh xã hội công
bằng văn minh khó có thể thực hiện được . Do đó tình trạng nghèo nàn và lạc hậu hay
là “ giặc dốt ” … vẫn còn tồn tại trên đất nước ta . Đây là những nguy cơ và hiểm hoạ
đối với sự tồn vong của chế độ mới mà chúng ta đang gắng sức xây dùng .
Sù phát triển của kinh tế cá thể , tư bản tư nhân ở trong nước và việc mở cửa
cho CNTB nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức của “ chế độ tô
nhượng ” đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ sẽ thực sự làm cho kinh tế mạnh lên
nhưng cũng thực sự làm diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai định hướng phát triển kinh tế
_xã hội , bất chấp ý muốn chủ quan của một số người muốn vượt qua “ giai cấp luận
hẹp hòi ” của chủ nghĩa Mác _ Lênin . Muốn nhấn mạnh mặt thống nhất , hoà hợp dân
téc như là động lực của sự phát triển , không muốn nói đến đấu tranh giai cấp trong
lòng dân téc , coi đó là một cái gì tả khuynh lỗi thời , thậm chí không thừa nhận cả
quá trình phân hoá giai cấp mới , không thừa nhận có các tầng líp tư sản và tiểu tư sản
mà trong xã hội ta ngày nay . Thế nhưng sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh
tế cá thể , tư nhân tư bản chủ nghĩa tất yếu nảy sinh sự biến đổi trong cơ cấu xã hội ,
xuất hiện một cơ cấu khác với thời bao cấp trước đây , không những có những giai
cấp và tầng líp tư sản và tiểu tư sản mới xuất hiện mà ngay cả giai cấp công nhân và
nông dân của thời bao cấp cũng đang biến đổi trong cơ cấu nội tại của chóng . Điều
đó tất yếu làm nảy sinh trong lòng xã hội ta những quan hệ kinh tế và chính trị vô
cùng phức tạp : vừa có mặt thống nhất hợp tác với nhau , vừa có mặt đấu tranh gay
gắt với nhau . Diễn đạt lý luận về thời kì quá độ ở nước ta theo kiểu đấu tranh giai cấp
thô thiển , giáo điều , tả khuynh thì tất nhiên có hại và sai lầm . Nhưng ngược lại diễn
đạt như một quá trình hoà hợp dân téc không có mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp thì sẽ
rất nguy hiểm .
Đúng là ngày nay , trong cuộc đấu tranh mới , chóng ta cần có một mặt trận
thống nhất dân téc và quốc tế , cần phải có sách lược cực kì linh hoạt và mềm dẻo để
15
Tiểu luận triết học
có thể tập hợp tất cả mọi lực lượng , có thể tập hợp con em đất Việt cả trong và ngoài

nước , còng như tất cả mọi lực lượng tiến bộ của thời đại có thiện tâm . Thế nhưng
nếu quên mất những vấn đề nguyên tắc chiến lược , quá thiên về sự tiếp cận hội nhập
không thấy bản chất và nội dung cuộc đấu tranh cực kì gay gắt , trong đó các nhân tố
dân téc , giai cấp , quốc gia và quốc tế hoà quyện với nhau cực kì phức tạp . Do đó ,
quên mất việc giới hạn và phải tiến hành đấu tranh thì cũng phạm phải sai lầm rất
nguy hiểm.
Xét cho cùng cái đảm bảo cho thắng lợi của định hướng XHCN là quan hệ so
sánh lực lượng . CNTB Nhà nước là chiếc cầu dẫn đến CNXH , nếu Nhà nước mạnh
hơn CNTB và khống chế , hướng dẫn được sự phát triển của nã . Nếu Nhà nước yếu
hơn thì CNTB Nhà nước không còn là CNTB Nhà nước nữa mà là CNTB tự phát , tù
do rời bỏ định hướng XHCN . Do đó , tiền đề cơ bản hàng đầu bảo đảm cho thắng lợi
của CNXH ở nước ta là phải có một Nhà nước mạnh , mét Nhà nước pháp quyền và là
một Nhà nước thực sự dân chủ , của dân , do dân , vì dân . Đó là một Nhà nước có
thực lực biết quản lý các quá trình kinh tế _ xã hội một cách vừa kiên quyết , vừa
thông minh , đem lại hiệu lực cao , một trọng tài không thiên vị bên nào trong cuộc
đua tranh giữa các thành phần kinh tế , giữ đúng luật chơi của cơ chế thị trường . Cốt
lõi là để có một Nhà nước như vậy là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiêu biểu cho sức
mạnh lương tâm và trí tuệ của thời đại , có tính chiến đấu cao , vững mạnh , toàn
diện , được đổi mới và tự chỉnh đốn không ngừng theo yêu cầu của sự nghiệp phát
triển đất nước . Tuy nhiên nếu bản chất thời kì quá độ ở nước ta chỉ có CNTB Nhà
nước thôi thì chưa đủ đảm bảo cho thắng lợi của XHCN . Chính vì vậy mà cách khái
quát bản chất con đường cách mạng Việt Nam là xây dựng CNXH đi qua con đường
CNTB nhà nước là đầy đủ .
Chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi có sự khuyến
khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh vì hiện nay sự phát triển đó còn thấp , chưa
tương xứng với tiềm năng hiện có . Tuy nhiên , đường lối đó cũng đòi hỏi thúc đẩy
16
Tiểu luận triết học
kinh tế các thành phần khác phát triển . Chỉ có như vậy mới làm cho các thành phần
kinh tế ngày càng mạnh lên , phát huy tốt vai trò chủ đạo và hợp thành nền tảng của

nền kinh tế quốc dân .
Hiện nay , chóng ta cần phải tìm tòi , thử nghiệm những hình thức và tổ
chức kinh tế của CNXH , phải từ bỏ những cái cũ những cái lạc hậu , phi hiệu quả của
thời bao cấp . Việc tìm tòi đó không dễ dàng và phải có thời gian để kiểm nghiệm
trong thực tiễn . Tất cả những điều đó làm cho tốc độ triển khai công cuộc xây dựng
cải cách thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể không diễn ra nhanh chóng .
Dù cho bước chuyển biến của thành phần kinh tế XHCN từ cơ chế bao cấp
sang cơ chế thị trường có những khó khăn như thế nào đi nữa , dù còn phải thử
nghiệm công phu , trải qua vấp váp , thậm chí thất bại, phải làm lại nhiều lần thì
chúng ta vẫn phải kiên định . Đó là một tiền đề kinh tế không thể thiếu để CNTB tù
do cạnh tranh chuyển thành CNTB Nhà nước và CNTB Nhà nước ở trình độ phát
triển chín muồi của nó sẽ được cải biến thành CNXH .
Ngoài các mâu thuẫn cơ bản trên , trong công cuộc đổi mới đất nước của ta
hiện nay còn có rất nhiều các mâu thuẫn khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Do
điều kiện thời gian có hạn nên bài viết chỉ đề cập đến bốn mâu thuẫn mà theo em là
tương đối quan trọng trong xã hội ta hiện nay và những suy nghĩ về việc giải quyết
những mâu thuẫn Êy.
17
Tiểu luận triết học
18
Tiểu luận triết học
KÕt luận
Quy luật mâu thuẫn là một quy luật nêu lên động lực của sự phát triển của mọi
sự vật, hiện tượng. Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn và vận dụng quy luật vào tình hình
thực tiễn là một yêu cầu cấp thiết. Qua nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào thấy
được nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, mét nền kinh tế còn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn với các mặt đối lập cần phải giải quyết. Những mâu thuẫn cơ bản đó
có thể tóm tắt là: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn
giữa các thành phần kinh tế với nhau, mâu thuẫn giữa con người XHCN và con người
kinh tế thị trường … Việc nhận thức được những mâu thuẫn Êy và đưa ra những giải

pháp giải quyết mâu thuẫn một cách khách quan phù hợp với quy luật sẽ giúp chúng
ta đạt được những thành tựu về kinh tế, xã hội và mục tiêu xây dựng đất nước XHCN.
Đề tài này mới chỉ nghiên cứu một cách khái quát và nêu ra những biện pháp rất
cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn chính trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, vì vậy còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu, xem xét và giải
quyết trong các lĩnh vực của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Để kết thúc bài tiểu luận em xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo bộ môn đã giúp
em hoàn thành bài tiểu luận này. Hy vọng bài tiểu luận sẽ góp phần nhỏ bé vào việc
nghiên cứu, tìm hiểu quy luật mâu thuẫn và vận dụng quy luật mâu thuẫn trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.


19
Tiểu luận triết học
TàI liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác_Lênin (Nhà xuất bản giáo dục)
2. Bài giảng về triết học của thầy giáo.
3. Tạp chí triết học số 1 .
4. Tạp chí cộng sản số 21 .
5. Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường ( Học viện chính trị
quốc gia ) .
6. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 6 .
7. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 9 .
8. Lênin toàn tập _ tập 44

20
Tiểu luận triết học
MỤC LỤC
Lời mở đầu .………………………………………. .Trang 1
Phần mở đầu ……………………………………….Trang 2

I > Lý do chọn đề tài_mục đích của đề tài………….Trang 2
II > Nội dung của đề án …………………………… Trang 3
Nội dung ……………………………………………Trang 4
A . Cơ sở lý luận ………………………………….Trang 4
I > Quy luật mâu thuẫn ……………………… Trang 4
II > Vì sao phải chuyển đổi từ nền kinh tế cò ( kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp ) sang nền kinh tế thị trường ………… Trang 6
B . Thực tiễn : vận dụng quy luật mâu thuẫn trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam ……………………….Trang 9
I > Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam …………………………………….Trang 9
II > Các chính sách và giải pháp ……………….Trang 13
KÕt luận ……………………………………………….Trang 18
Tài liệu tham khảo…………………………………Trang 19
Các kí hiệu viết tắt …………………………………Trang 20
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
LLSX : Lực lượng sản xuất
QHSX : Quan hệ sản xuất
21

×