Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thực Trạng Về Hiệu Quả Tín Dụng Đối VớI CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH ngan hàng và phát triển nông thôn THÀNH PHỐ HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.06 KB, 87 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ,các DNVVN có thể giữ những
vai trò với mức độ khác nhau . Ở Việt Nam số DNVVN chiếm trên 90 % tổng
số doanh nghiệp trên cả nước,đóng góp khoảng 40% GDP,37 % tổng vốn đầu
tư toàn nền kinh tế.Đây là bộ phận kinh tế năng động ,giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế và là trụ cột của nền kinh tế địa phương Nhận ra ý nghĩa
quan trọng của DNVVN trong sự phát triển của đất nước ,chính phủ có những
chính sách khuyến khích ,hỗ trợ DNVVN phát triển.Một trong những vấn đề
của DNVVN là vấn đề thiếu vốn huy động ,thiếu vốn để đổi mới công nghệ
và nguồn vốn để tài trợ chủ yếu cho các DNVVN là nguồn vốn từ Chính phủ
thông qua NHTM.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, trong thời gian thực tập
thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành
phố Hà Tĩnh em đã quyết định chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Thành phố Hà Tĩnh làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp.
- Mục đích quá trình nghiên cứu :
+ Hệ thống hóa những lý luận về hiệu quả tín dụng Ngân hàng thương mại.
+ Đánh giá hiệu quả công tác tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Tĩnh
nhằm rút ra được những hạn chế hoạt động này, chỉ ra nguyên nhân của
những hạn chế. Để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả tín dụng của Chi nhánh.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài được chia thành 3
chương :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về DNVVN và hiệu quả tín dụng của
Ngân hàng thương mại .


Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố
Hà Tĩnh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thành phố Hà Tĩnh.
Để bài viết này được hoàn thành tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
tận tình của cán bộ nhân viên Chi nhánh Ngân hàng NHNo & PTNT Thành
phố Hà Tĩnh và đặc biệt là sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của Th.S Lê Hương
Lan để hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ VÀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu theo nghĩa thông thường là những cơ
sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ với quy mô không lớn lắm. Tuy
nhiên để có thể nói chính xác thế nào là quy mô nhỏ, không lớn lắm thì có
rất nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà kinh tế trong và ngoài nước. Nhìn
chung để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ người ta thường căn cứ vào
các tiêu thức: Tổng số vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản
cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản
phẩm, dịch vụ hoặc lợi nhuận....Trên cơ sở đó mỗi nước có một sự lựa
chọn tiêu thức khác nhau để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngày 23/11/2001 chính phủ đã ban hành nghị định 90/NĐ/-CP/2001
về “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”.Theo định nghĩa này thì

định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ được đưa ra như sau:“Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo phương pháp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã hội cụ thể của nghành, địa phương, trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chương trình hỗ trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng
đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói
trên”.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Một số tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được áp dụng ở
Việt Nam.
Cơ quan tổ chức đưa ra
tiêu chí
Vốn Doanh thu Lao động
Ngân hàng Công Thương
Việt Nam
Vốn cố định dưới
10 tỷ đồng
Dưới 20 tỷ đồng /
năm
Dưới 500 người
Liên bộ Lao động và tài
chính
Vốn pháp định
dưới 1 tỷ đồng
Dưới 1 tỷ đồng/
năm
Dưới 100 người

Dự án VIE/US/95(hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam của UNIDU)
+Doanh nghiệp nhỏ
+Doanh nghiệp vừa
Vốn đăng ký
dưới 0.1 triệu
USD
Dưới 30 người
Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ (chương trình
VIỆT NAM – EU)
Vốn điều lệ từ
50.000USD đến
300.000 USD
Từ 10 đến 500
người
(Nguồn số liệu : Bộ kế hoạch & đầu tư)
1.1.2. Lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1.Những lợi thế .
• Qui mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh
doanh:
So với doanh nghiệp lớn, DNVVN năng động hơn trước những thay
đổi liên tục của thị trường. Với quy mô và cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ, các
doanh nghiệp lớn thường không nhanh nhạy theo kịp sự chuyển biến của nhu
cầu người tiêu dùng. DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh doanh và
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
4
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn, tăng giảm lao động dễ dàng vì có thể sử

dụng nguồn lao động thời vụ.
Một lợi thế đáng kể nữa là DNVVN khi chuyển địa điểm sản xuất
không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, các DNVVN
lại có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa
phương. DNVVN có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh
doanh. Điều này càng làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác hết năng
lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
• Các DNVVN dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ,
thích ứng với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại :
Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN với yêu cầu vốn bổ xung
không nhiều và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi
có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên các DNVVN
dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi mới thiết bị công nghệ khi cần thiết.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, nên nhiều khi
thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại thế hệ máy móc
sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất
mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ mới. Trong trường hợp này, các
DNVVN lại sẽ có lợi thế hơn.
• Các DNVVN chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu
hồi vốn nhanh. Hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần
kinh tế đầu tư vào khu vực này.
• DNVVN có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với
doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
• Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh
hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp: bộ máy tổ chức của
các DNVVN thường đơn giản, gọn nhẹ. Các quyết định được thực
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
5
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện nhanh, công tác kiểm tra giám sát được tiến hành chặt chẽ,

không phải qua nhiều khâu trung gian. Chính vì vậy đã tiết kiệm
được chi phí quản lý doanh nghiệp.
• Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý( quan hệ chủ-
thợ) trong các DNVVN khá chặt chẽ:
Quan hệ giữa các thành viên trong DNVVN chặt chẽ gắn bó hơn, tạo ra
môi trường làm việc tốt. Các lao động dễ dàng trao đổi với nhau và với lãnh
đạo, đề xuất những ý tưởng mới lạ đóng góp cho sự phát triển của doanh
nghiệp. Trong một doanh nghiệp mà số lao động không lớn lắm, người lãnh
đạo doanh nghiệp mới có điều kiện biết rõ khả năng làm việc cũng như đời
sống tinh thần của từng thành viên một việc mà rất khó thực hiện ở các doanh
nghiệp lớn. Nhờ vậy kịp thời điều chỉnh vị trí công việc của người lao động
để tận dụng được hết khả năng của họ.
• Sự đình trễ, thua lỗ, phá sản của các DNVVN có ảnh hưởng rất ít
hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời ít chịu
ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
1.1.2.2. Những bất lợi .
Tuy nhiên với những đặc trưng của mình nên các DNVVN nói chung
cũng như các DNVVN của Việt Nam nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Cụ thể
là:
• Nguồn vốn tài chính hạn chế:
Trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận được các
nguồn tài chính khác nhau thì các DNVVN lại gặp khó khăn giai đoạn mới
hình thành, phần lớn các DNVVN đều gặp phải khó khăn về vốn. Các NHTM
cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại không muốn cho DNVVN
vay vốn bởi vì họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được
khả năng trả nợ. Điều này ngăn cản sự mở rộng doanh nghiệp, làm cho doanh
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
6
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp gặp nhiều khó khăn khác như thiếu sức cạnh tranh trên thị trường,

không kịp thời cải tiến công nghệ sản xuất. Khó có điều kiện nâng cao chất
lượng lực lượng lao động ...
Ở Việt Nam hiện nay, sự thiếu vốn của các DNVVN đã và đang diễn ra
trên bình diện khá rộng. Bởi vì một mặt với qui mô vốn tự có đều rất nhỏ, hạn
hẹp không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng
và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển qui
mô và đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, sản phẩm. Mặt khác,
thị trường vốn dài hạn, thị trường chứng khoán, về cơ bản nước ta chưa phát
triển, hơn nữa điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các DNVVN
Việt Nam là hết sức khó khăn và hiếm hoi. Trong khi đó khả năng và điều
kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tín dụng đối với các DNVVN ở
nước ta hiện nay còn bị hạn chế và khó khăn lớn , là do : không đủ tài sản thế
chấp, mức lãi suất cho vay còn quá cao so với mức lợi nhuận thu được; khối
lượng cho vay ít, thời hạn cho vay quá ngắn , các thủ tục rườm rà, phiền hà,
hình thức và thể chế tín dụng , nhất là khu vực nông thôn, còn nghèo nàn, đơn
điệu và hiệu lực pháp lý không cao. Những khó khăn đó rất cần được giải
quyết tháo gỡ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh va
phát triển của các DNVVN .
• Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém,
lạc hậu:
Do nguồn vốn nhỏ và sự hiểu biết còn hạn chế, thông thường các
DNVVN chỉ sử dụng các công nghệ trung bình, đơn giản nên năng suất lao
động thấp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Rất ít DNVVN
được trang bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài. Hơn nữa,
các DNVVN rất khó có thể vay được một khoản tín dụng trung dài hạn cần
thiết để nâng cấp công nghệ. So với các doanh nghiệp nhà nước( quy mô lớn),
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
7
Chuyên đề tốt nghiệp
các DNVVN rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị

quốc tế. Do thiếu thông tin về thị trường này, các DNVVN cũng khó tiếp cận
những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu
quả, giúp họ cải tiến và nâng cao sức cạnh tranh.
Trong những năm đổi mới vừa qua ở nước ta, do sức ép của thị trường
và những tác động của cơ chế quản lý kinh tế, các DNVVN đã có sự đổi mới
công nghệ ở mức độ nhất định. Đó là việc dùng điện vào sản xuất và gắn liền
với nó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình
sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các DNVVN hiện vẫn còn
lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp nhiều khó khăn đối
với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
• Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNVVN bị hạn chế
rất nhiều
Do quy mô nhỏ và không có mạng lưới, các mối quan hệ rộng nên
DNVVN không có hệ thống cung cấp thông tin chuyên môn, không nắm được
tình hình biến đổi bên ngoài doanh nghiệp mình như nguyên liệu, mặt hàng,
trình độ công nghệ, các đối thủ cạnh tranh...Các DNVVN không có bộ phận
chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn,
không đủ kinh phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh
chóng, kịp thời nói riêng và chi phí cho hoạt động tiếp cận, thu thập, xử lý
thông tin nói chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của
các chủ DNVVN còn rất hạn chế.
• Trình độ quản lý ở các DNVVN còn bị hạn chế:
Nhiều chủ DNTN không có kiến thức quản lý, không có trình độ
chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dựng
được dự án phát triển kinh doanh và xây dựng dự án đầu tư, xin vay vốn ngân
hàng theo quy định.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
8
Chuyên đề tốt nghiệp
• Trình độ tay nghề công nhân thấp. Cơ sở kinh doanh phân tán, lạc

hậu:
Cơ sở vật chất hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động
thấp và kém sức cạnh tranh hơn so với doanh nghiệp lớn.Về trình độ tay nghề,
kỹ thuật của những người lao động trong các DNVVN đặc biệt rất thấp, đặc
biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, có trình độ tay
nghề giản đơn, chưa được đào tạo, bình quân chiếm khoảng 60-70%. Ở một
số vùng nông thôn, số được đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10%.
Đó cũng là một trong những khó khăn đối với việc phát triển mạnh mẽ các
DNVVN hiện nay.
• Thị trường của DNVVN thường nhỏ bé và không ổn định, lại phải
chia sẻ với nhiều doanh nghiệp khác :
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNVVN Việt Nam hiện
nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các DNVVN gặp khó khăn do
những thủ tục và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong
nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công
nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc. Sản phẩm, dịch vụ của các DNVVN
làm ăn chân chính luôn phải cạnh tranh với hàng giả, hàng nhái, hàng nhập
lậu diễn ra một cách phổ biến. Cùng với sự độc quyền của một số doanh
nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của DNVVN lại càng giảm trên thị trường
nội địa.
Với đặc điểm ưu thế của mình, định hướng chiến lược ngắn hạn, trước
mắt của các DNVVN là tập trung vào các thị trường nhỏ lẻ, địa phương và đặt
trọng tâm vào những sản phẩm hàng hóa có giá bán thấp, nhưng định chiến
lược dài hạn cần phải chú ý tới thị trường của các địa phương khác và tới thị
trường quốc tế...
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Các DNVVN ở Việt Nam hiện nay để tiếp cận với thị trường quốc tế
còn phải khắc phục nhiều hạn chế như : hạn chế về công nghệ dẫn đến mẫu

mã hàng hoá xuất khẩu không đa dạng, chất lượng thấp; khả năng tiếp thị
kém, rất ít doanh nghiệp giao dịch được trên mạng, giới thiệu chào hàng trên
Iternet, tham gia hội chợ triển lãm. Khi ký hợp đồng xuất khẩu thiếu thông
tin, thường bị ép giá hoặc xuất khẩu qua các đối tác trung gian nên không bán
được giá cao, hiệu quả xuất khẩu thấp; thiếu am hiểu luật pháp quốc tế và tập
quán thương mại quốc tế chịu nhiều thua thiệt trong quá trình tiếp cận thị
trường nước ngoài (trường hợp bị mất thương hiệu của một số nhãn hiệu hàng
hoá nổi tiếng), bị cạnh tranh không lành mạnh bởi chính các nhà sản xuất tại
thị trường xuất khẩu của nước đó (trường hợp cá Tra xuất khẩu sang Mỹ).
Trong những khó khăn nêu trên, thiếu vốn là nguyên nhân căn bản vì
DNVVN hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế. Và thực lực
kinh tế yếu nên khả năng vay vốn lại càng khó khăn. bên cạnh đó môi trường
thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo
vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. trong đó cơ chế chính sách
về tín dụng ngân hàng, kể cả những vấn đề cụ thể về nghiệp vụ ngân hàng còn
đang cản trở cho việc vay vốn tín dụng của các DNVVN. Do vậy các
DNVVN phát triển hoàn toàn chưa có định hướng và chưa được hỗ trợ nhiều
từ phía nhà nước như các doanh nghiệp lớn khác.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng ở chỗ,
chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh
doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hiện nay,
chưa có số liệu thống kê về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách chính thức,
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
10
Chuyên đề tốt nghiệp
nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam cùng chiếm khoảng 80-90% tổng số các doanh nghiệp.

Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng
thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50%
GDP ở mỗi nước. Theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý TW, thì hiện
nay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 24% GDP. Hàng năm riêng
doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động 15.000 tỷ đồng để phát triển kinh tế, bằng
10% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ ba, tác động lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải quyết
một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm
cho người lao động, thì khu vực này vượt trội hẳn so với khu vực khác, góp
phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc, ở hầu hết các nước doanh
nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng từ 50-80% lao động trong các
nghành công nghiệp và dịch vụ. Ở Việt Nam cũng theo đánh giá của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế TW, thì số lao động của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7.8 triệu người chiếm tới
72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22.5% lực lượng
lao động cả nước.
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm năng động nền kinh
tế trong cơ chế thị trường, do lợi thế quy mô vừa và nhỏ, linh động, sáng tạo
trong kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo,
hoà nhịp với những đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Thứ năm, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần khai thác nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào dân cư
và yêu cầu số lượng không nhiều, cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
11
Chuyên đề tốt nghiệp
tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vèn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các
tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng tạo lập dần tập quán

đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành các khu vực đÓ thực hiện có kết
quả vấn đề huy động vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong
nước.
Thứ sáu,các doanh nghiệp vừ và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn đã thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho công nghiệp phát triển
mạnh đồng thời thúc đẩy nghành thương mại dịch vụ phát triển.
1.2.TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ.
1.2.1.Khái niệm và đặc trưng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật
quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải
trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương
mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ
tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền.
Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất
hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng,
đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Căn cứ
vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và
ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương
mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm
vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
12
Chuyên đề tốt nghiệp
kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn
thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi

nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục
vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh
nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế.Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân
hàng.
Một cách hiểu về NHTM khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là định nghĩa
Ngân hàng dựa trên các hoạt động chủ yếu của nó.Theo đó NHTM là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, làm nghiệp vụ chiết
khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Một cách tiếp cận thận trọng hơn là có thể xem xét các tổ chức này trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.NHTM là một tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Tuy nhiên cách định nghĩa dựa trên bản chất của các NHTM là đầy đủ
nhất, theo đó các NHTM là các tổ chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ,
với nội dung hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng để cho vay, đồng thời thực hiện các uỷ thác của khách hàng và cung
cấp các dịch vụ tài chính khác.
Theo Luật các TCTD năm 1997 thì “ Ngân hàng là loại hình TCTD được
thực hiện toàn bộ hoạt đông Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
13
Chuyên đề tốt nghiệp
liên quan” trong đó “ TCTD là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân

hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán.
1.2.2.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Có thể nói Ngân hàng thương mại là 1 Doanh nghiệp đặc biệt hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp các dịch vụ cho công
chúng và Doanh nghiệp.NHTM thực hiện các hoạt động cơ bản sau :
1.2.2.1.Huy động vốn
NHTM là 1 trung gian tài chính, thông qua nghiệp vụ của mình cung cấp
vốn cho cả nền kinh tế.Muốn thực hiện được điều này đầu tiên Ngân hàng
phải thực hiện huy động vốn, đây là hoạt động cơ bản, đầu tiên và quan trọng
nhất đối với mỗi một Ngân hàng.Nguồn vốn của Ngân hàng được huy động
thông qua các kênh dẫn khác nhau như huy động tiền gửi, huy động thông qua
phát hành các giấy tờ có giá, vay trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng ….từ
đó gom góp các khoản tiền nhàn rỗi và tiến hành cho vay, đầu tư đối với nền
kinh tế.
Huy động vốn là quá trình NHTM nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân
dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy
tờ có giá… và tiền vay của NHNN, các tổ chức tín dụng khác.
Thời gian gần đây, đặc biệt là từ giữa tháng 2/2008 đến nay, mặc dù lãi
suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại tăng khá, kèm theo các chi
phí lớn về khuyến mại, tiếp thị... nhưng vốn huy động vẫn tăng chậm, thậm
chí tại một số ngân hàng còn bị giảm.
Về lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược, từ nay đến 2010 ngành ngân
hàng phải đạt những chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
14
Chuyên đề tốt nghiệp
các loại hình sản phẩm dịch vụ NH hiện đại. Từ năm 2010 trở đi, hoạt động
NHTM sẽ theo các chuẩn mực quốc tế cả về vốn, trình độ quản lý, công nghệ
thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế.

Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại thường xuyên chạy đua
với nhau tăng lãi suất huy động vốn VND và USD. Đặc biệt là nếu như trước
đây lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại Nhà nước thấp hơn
lãi suất của các ngân hàng thương mại cổ phần, thì nay đang sát nút, tương
đương nhau.
Tại các thành phố lớn, như Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng,.... mạng lưới
giao dịch của ngân hàng đang phát triển rộng khắp. Tại một địa điểm, nhưng
có phòng giao dịch của 2-3 ngân hàng. Ví dụ như tại tầng 1 toà nhà chung cư
18T-1 khu đô thị Trung Hoà - Nhân Chính có tới 3 chi nhánh của Ngân hàng
nông nghiệp & phát triển nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng
sông Cửu Long, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương.
Tại nhiều trung tâm thương mại, khu phố đông dân cư khác cũng có
tình trạng tương tự, 2 - 3 điểm giao dịch của các ngân hàng thương mại nằm
kề bên nhau, nên người dân dễ dàng so sánh ngân hàng thương mại nào có lãi
suất cao hơn thì họ gửi.
Giải pháp trước mắt để hạ nhiệt lãi suất trên thị trường hiện nay, có lẽ
cần xem xét giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu như về điều hành chính sách chỉ
cần giảm 1-2% tỷ lệ này sẽ có hàng nghìn tỷ đồng bổ sung cho nguồn cung
vốn, đáp ứng nhu cầu cho vay của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng đối với tất cả các
khối ngân hàng thương mại, kể cả ngân hàng thương mại cổ phần trong việc
hạn chế cuộc chạy đua tăng lãi suất. Bởi vì lãi suất càng tăng lên, các ngân
hàng thương mại càng gặp rủi ro lớn và lợi nhuận trong kinh doanh giảm.

Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
15
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.2.Sử dụng vốn
Ngoài việc huy động vốn Ngân hàng tiến hành các hoạt động sử dụng
vốn bởi NHTM là tổ chức “ đi vay để cho vay”.

Sử dụng vốn của NHTM chủ yếu từ hoạt động tín dụng và đầu tư, tín
dụng là quá trình NHTM cho các tổ chức và cá nhân vay vốn để phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư là quá trình các
NHTM dùng vốn tự có và các quỹ của mình mua đi bán lại các giấy tờ có giá
(tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, NHNN), chứng khoán hoặc góp vốn, liên
doanh liên kết, mua cổ phần…
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các tài sản của Ngân hàng,
bao gồm :
Họat động tín dụng : đây là hoạt động quan trọng nhất tạo nguồn thu nhập
cho Ngân hàng, là hoạt động truyền thống và chủ yếu của NHTM.Hoạt
động tín dụng của Ngân hàng bao gồm : chiết khấu thương phiếu, cho vay,
cho thuê tài sản và bảo lãnh trong đó cho vay chiếm tới 60-70 % hoạt động tín
dụng.Thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng giúp Ngân hàng tránh được tình trạng
đọng vốn sau khi huy động vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trong tình hình
đó thì cho thuê tài chính (CTTC) là giải pháp bổ sung hữu hiệu cho ngân hàng
để giải quyết những vướng mắc trên khi cấp tín dụng.
Hiện tại hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam là dưới hình thức
công ty, công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam
dưới hình thức sau: công ty cho thuê tài chính nhà nước, công ty cho thuê tài
chính cổ phần, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài
chính 100% vốn nước ngoài và công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức
tín dụng. Các công ty CTTC sau đây đang hoạt động tại Việt Nam: Công ty
CTTC của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Công ty CTTC của Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam, 2 Công ty CTTC của Ngân hàng NN&PT NT
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Việt Nam, Công ty CTTC Kexim (100% vốn của Hàn Quốc), Công ty CTTC
ANZ-VTRAC (100% vốn của Ngân hàng ANZ của Úc và tập đoàn V-TRAC
của Mỹ), Công ty CTTC VILC (liên doanh giữa Ngân hàng công thương Việt

Nam và đối tác nước ngoài). Hầu hết các Công ty CTTC đang hoạt động tại
Việt Nam đều gặt hái nhiều thành công, lợi nhuận cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp
trong tổng dư nợ, hoạt động CTTC tỏ ra là hình thức kinh doanh phù hợp
trong việc tài trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp trong tình hình hiện tại
của Việt Nam.
CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ
điều kiện vay vốn tại ngân hàng, đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc , thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê.
Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu
của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược
lại, doanh nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy
doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình tài chính tốt thì doanh
nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét duyệt thuê tài chính mà
không cần tài sản thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian
qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn.
Hoạt động đầu tư : với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính, Ngân hàng luôn tìm cách đa dạng hoá các loại hình
hoạt động không chỉ đơn thuần là tín dụng, Ngân hàng còn tiến hành các hoạt
động đầu tư tạo thêm thu nhập dưới các hình thức : mua bán kinh doanh
chứng khoán hoặc góp vốn đầu tư vào các Doanh nghiệp khác; đầu tư vào
trang thiết bị phục vụ quá trình kinh doanh của Ngân hàng.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các
dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Một trong những dịch vụ quan
trọng nhất là cho vay, đặc biệt là thực hiện những khoản cho vay tài trợ đối
với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các

thành viên trong xã hội. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu
nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều
vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián
tiếp từ hoạt động cho vay. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số
vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay có tính thanh
khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng
để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay
thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro do vỡ nợ
cao nhất. Đặc biệt, với những ngân hàng vừa và nhỏ, chủ yếu các khoản cho
vay của họ chỉ tập trung trong địa phận nơi ngân hàng đặt trụ sở. Do bất kỳ
một sự suy giảm đáng kể nào trong nền kinh tế địa phương đều đưa đến sự
giảm sút chất lượng đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Mặt khác tất cả
những khoản thu nhập từ cho vay đều chịu thuế. Điều này đã buộc các ngân
hàng phải nỗ lực tìm kiếm những lĩnh vực đầu tư mới nhằm hạn chế sự tác
động của thuế, đặc biệt trong những năm gần đây khi mà hoạt động cho vay
luôn đứng ở mức cao. Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia
danh mục tài sản của mình từ 1/5 đến 1/3 giá trị danh mục vào một loại hình
tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán (đầu tư chứng khoán chỉ những
hành vi mua cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích thu lợi của pháp nhân hoặc
cá nhân, nó là hình thức quan trọng của đầu tư trực tiếp). Ngân hàng chủ yếu
đầu tư vào các loại chứng khoán sau: Tín phiếu và trái phiếu chính phủ, Tín
phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số cổ phiếu
được pháp luật cho phép. Việc nắm giữ các chứng khoán có vai trò quan trọng
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
18
Chuyên đề tốt nghiệp
đối với danh mục tài sản của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng cao tính
thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro và ít nhất một
phần thu nhập của ngân hàng không phải chịu thuế. Khoản mục đầu tư cũng
có vai trò ổn định thu nhập của ngân hàng, tạo ra thu nhập bổ sung khi các

nguồn thu khác (đặc biệt là nguồn thu từ lãi cho vay) suy giảm.
1.1.2.3.Các hoạt động khác
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của mình, các NHTM tiến hành cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng như : dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch
vụ bảo hiểm, kinh doanh ngoại tệ …..một phần đa dạng hoá hoạt động Ngân
hàng, một phần cung ứng thêm các tiện ích cho khách hàng và thu hút khách
hàng.Hiện nay các Ngân hàng rất chú trọng việc phát triển, mở rộng các loại
hình dịch vụ hiện đại đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhằm tăng thêm tính
cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng.
Nhìn chung các hoạt động của Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ tác
động lẫn nhau trong đó huy động vốn là hoạt động đầu tiên và là tiền đề để
tiến hành các hoạt động khác.
1.2.3.Vai trò của Tín dụng Ngân hàng
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung
cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Một trong những dịch vụ
quan trọng nhất là cho vay, đặc biệt là thực hiện những khoản cho vay tài trợ
đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của
các thành viên trong xã hội. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và
thu nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này
đều vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi
gián tiếp từ hoạt động cho vay. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn
bộ số vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay có tính
thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
19
Chuyên đề tốt nghiệp
dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho
vay thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro dovỡ
nợ cao nhất. Đặc biệt, với những ngân hàng vừa và nhỏ, chủ yếu các khoản
cho vay của họ chỉ tập trung trong địa phận nơi ngân hàng đặt trụ sở. Do bất

kỳ một sự suy giảm đáng kể nào trong nền kinh tế địa phương đều đưa đến sự
giảm sút chất lượng đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Mặt khác tất cả
những khoản thu nhập từ cho vay đều chịu thuế. Điều này đã buộc các ngân
hàng phải nỗ lực tìm kiếm những lĩnh vực đầu tư mới nhằm hạn chế sự tác
động của thuế, đặc biệt trong những năm gần đây khi mà hoạt động cho vay
luôn đứng ở mức cao. Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia
danh mục tài sản của mình từ 1/5 đến 1/3 giá trị danh mục vào một loại hình
tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán (đầu tư chứng khoán chỉ những
hành vi mua cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích thu lợi của pháp nhân hoặc
cá nhân, nó là hình thức quan trọng của đầu tư trực tiếp). Ngân hàng chủ yếu
đầu tư vào các loại chứng khoán sau: Tín phiếu và trái phiếu chính phủ, Tín
phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số cổ phiếu
được pháp luật cho phép. Việc nắm giữ các chứng khoán có vai trò quan trọng
đối với danh mục tài sản của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng cao tính
thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro và ít nhất một
phần thu nhập của ngân hàng không phải chịu thuế. Khoản mục đầu tư cũng
có vai trò ổn định thu nhập của ngân hàng, tạo ra thu nhập bổ sung khi các
nguồn thu khác (đặc biệt là nguồn thu từ lãi cho vay) suy giảm. Công cụ đầu
tư của ngân hàng bao gồm:
1. Các công cụ đầu tư trên thị trường tiền tệ: kỳ hạn dưới 1 năm, mức độ
rủi ro thấp và có thể được bán lại dễ dàng trên thị trường. Loại này gồm có:
- Tín phiếu kho bạc
- Trái phiếu kho bạc
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
20
Chuyên đề tốt nghiệp
- Chứng khoán của các cơ quan
- Chứng chỉ tiền gửi, Thương phiếu chấp nhận thanh toán.
- Giấy nợ ngắn hạn
- Trái phiếu ngắn hạn của chính quyền địa phương

2. Các công cụ trên thị trường vốn:
- Trái phiếu kho bạc
- Trái phiếu chính quyền địa phương
- Trái phiếu công ty
Hiện nay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng thì:
Điều 69: “Tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quĩ dự trữ để góp vốn,
mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy
định của pháp luật”.
Điều 80: “Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một
doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần trong tất cả các doanh nghiệp
không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định
đối với từng loại hình tổ chức tín dụng”.
Điều 70: “Tổ chức tín dụng được tham gia thị trường tiền tệ do ngân
hàng Nhà nước tổ chức, bao gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá khác theo
quy định của ngân hàng Nhà nước” (thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn
hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín
phiếu ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác).
Tại Quyết định 457/2005-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định:
1. Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng
tối đa không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quĩ đầu tư
hoặc 11% giá trị dự án đầu tư.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
21
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ
chức tín dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quĩ dự trữ của tổ chức
tín dụng.Trong kết cấu của bảng cân đối tài sản của một ngân hàng thương
mại: Mục đầu tư bao gồm 2 khoản: - Trái phiếu và giấy tờ có giá khác.

- Hùn vốn, mua cổ phần.
Như vậy có thể thấy rõ rằng: việc góp vốn, mua cổ phần là hình thức
của hoạt động đầu tư, nhưng được giới hạn trong khuôn khổ vốn tham gia là
vốn điều lệ và quĩ dự trữ, khi đã sử dụng nguồn vốn điều lệ và quĩ dự trữ thì
phải tuân thủ về mức góp vốn, mua cổ phần theo quy định tại điều 80 của
Luật các tổ chức tín dụng. Còn việc tham gia thị trường tiền tệ, tuy điều 70
của Luật không quy định rõ nguồn để tham gia thị trường tiền tệ, nhưng được
hiểu là lấy từ nguồn vốn kinh doanh, không phải từ vốn điều lệ và quĩ dự trữ
của tổ chức tín dụng.
Từ phân tích trên đây cho thấy: Quy định về góp vốn đầu tư, liên
doanh, mua cổ phần của NHCTVN cần được quy định cho cả 2 nguồn đầu tư:
Nguồn vốn điều lệ, quĩ dự trữ và nguồn vốn kinh doanh, vì vậy quy định này
nên chia thành 2 phần:
1. Phần đầu tư từ nguồn vốn điều lệ và quĩ dự trữ - phần này nhất thiết
phải thực hiện theo Điều 69, Điều 80 của Luật Các tổ chức tín dụng và các
Điều 16, 17, 18 - QĐ 457/2005-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Phần đầu tư từ nguồn vốn kinh doanh theo quy định tại Điều 70 của
Luật Các tổ chức tín dụng.
Hiểu và quán triệt nội dung trên sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính
sách có những bước đi vững vàng, chuẩn xác, vừa đảm bảo thực hiện đúng
các quy định của Chính phủ, của ngân hàng Nhà nước, vừa tạo được thế chủ
động trong hoạt động đầu tư, đảm bảo an toàn vốn, tài sản và hiệu quả./
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
22
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.3.1.Khái niệm và phân loại Tín dụng ngân hàng
1.3.1.1.Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là sự chuyển dụng tạm thời một lượng giá trị từ người chủ sở

hữu sang người sử dụng vốn, sau một thời gian nhất định người sử dụng có
trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản( tiền hoặc hàng hoá )
giữa bên cho vay( Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay
( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.3.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừ và nhỏ không
lớn nên tín dụng cho các loại hình doanh nghiệp này cũng không lớn.
Các doanh nghiệp vừ và nhỏ chủ yếu vay vốn để tài trợ cho sự thiếu hụt
về vốn lưu động, nên các khoản vay mang tính nhỏ, lẻ.
Do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan nên hầu hết các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ được vay các khoản vốn ngắn hạn. Các khoản
vốn này chủ yếu phục vụ cho quá trình sản xuất chứ chưa có tác dụng nâng
cao, mở rộng năng lực sản xuất.
Cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp vừ và nhỏ chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn cho vay đối với loại hình doanh nghiệp
này. Và tỷ lệ nhỏ đó lại thuộc về đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước.
Cho vay doanh nghiệp vừ và nhỏ chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, những
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
23
Chuyên đề tốt nghiệp
rủi ro đó xuất phát chính từ những đặc điểm của nó như vốn ít, trình độ công
nghệ và quản lý hạn chế... Gây ra cho doanh nghiệp những khó khăn trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, các NHTM đã không ngừng
đæi mới hoạt động của mình cho phù hợp với những điều kiện khác nhau của
nền kinh tế. Cùng với sự đi lên của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, các hình thức tín dụng ngân hàng cũng ngày càng trở nên phong phú
và đa dạng, đáp ứng các nhu cầu khác nhau về vay vốn. Tín dụng Ngân hàng
đã trở nên người bạn đồng hành thân thiết, là động lực thúc đẩy quan trọng
của từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì NHTM có các
hình thức cấp tín dụng chủ yếu sau:
- Tín dụng chiết khấu.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó
khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho Ngân hàng để đổi
một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng
phí( nếu có ). Như vậy, với những hối phiếu và lệnh phiếu còn trong hạn
thanh toán, khách hàng có thể yêu cầu Ngân hàng chiết khấu. Ngân hàng sẽ
tiến hành phân tích tín dụng, nếu mức rủi ro nằm trong giới hạn chấp nhận
được và còn nằm trong hạn mức, Ngân hàng sẽ tiến hành chiết khấu.
- Cho vay ứng trước.
Kỹ thuật ứng trước là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để
đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn, gồm các nội dung:
+ Hai bên thoả thuận một mức cho vay trong một thời hạn cho vay nhất
định.
+ Bên đi vay chịu trách nhiệm vô điều kiện việc hoàn trả nợ vay khi đến
hạn.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay ứng trước có hai phương thức chính là: Hạn mức tín dụng và
kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai.
Hạn mức tín dụng là loại cho vay đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu
động thiếu hụt của doanh nghiệp, nó là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà

Ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng trong một thời gian nhất
định. Cho vay theo hạn mức được áp dụng với những doanh nghiệp có đặc
điÓm kinh doanh ổn định, có nhu cầu vay nợ Ngân hàng thường xuyên và
quan trọng phải có độ tín nhiệm cao đối với Ngân hàng.
Kỹ thuật thấu chi là Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền vượt quá
số tiền trên tài khoản vãng lai trong phạm vi, thời hạn và hạn mức nhất định.
Hình thức tín dụng này giúp cho việc cân đối quỹ của doanh nghiệp tránh
phải đi vay nhiều lần thủ tục phức tạp trong một kỳ.
- Cho vay trả góp.
Là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua máy móc thiết bị và các nhu
cầu khác của doanh nghiệp, có thời hạn trên một năm, tiền vay được thanh
toán dần dần cho Ngân hàng theo từng định kỳ. Các điều khoản về mức cho
vay, lãi suất vay, kỳ hạn trả, mức trả từng lần cho gốc và lãi… được Ngân
hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Cho vay bắc cầu, bảo lãnh phát hành.
Cho vay bắc cầu là một kiÓu tài trợ tạm thời, nhằm bù vào những thiếu
hụt vốn trong thời gian công ty đang huy động vốn hay phát hành các công cụ
nợ, cũng như nhằm tài trợ sự thiếu vốn tạm thời cho khách hàng khi khách
hàng này được các Ngân hàng hay các định chế tài chính khác đồng ý cho vay
bằng hình thức vay kỳ hạn nhưng chưa được giải ngân. Mục tiêu chủ yếu của
nó nhằm chủ yếu đảm bảo cho các dự án có đủ vốn thực hiện đúng kế hoạch,
tránh tốn kém cả về chi phí lẫn thời gian.
- Tín dụng thuê mua tài chính.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
25

×