Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng khách hàng tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.56 KB, 92 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

Khoa Tốn Kinh Tế

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cầp thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế tồn cầu.
Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, việc sử
dụng vốn chính là q trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng
trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất. Hoạt
động tín dụng (là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay) là hoạt động sinh
lời lớn nhất, song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với hệ
thống Ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không
ngừng lớn mạnh và thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong q
trình đó các Ngân hàng đã vấp phải khơng ít những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh gây tổn thất nặng nề. Nên đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu
tiên, là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay.
Sau một thời gian thực tập, em thấy việc xếp hạng khách hàng doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì
thơng qua xếp hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất
cho vay đối với từng doanh nghiệp, xác định được rủi ro của doanh nghiệp
nhằm phòng ngừa rủi ro tạo điều kiện ổn định nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn
đề tài:
“Ứng dụng mơ hình Logit trong xếp hạng khách hàng tại ngân hàng
TMCP Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội”
Đề tài của em gồm ba phần:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực
trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam



Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

2

Khoa Toán Kinh Tế

Chương 2 : Nghiệp vụ xếp hạng khách hàng tại ngân hàng TMCP
Kỹ Thương Việt Nam
Chương 3 : Ứng dụng mơ hình Logit trong xếp hạng khách hàng
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp hiện đang có quan hệ tín
dụng với Techcom bank
Phạm vi nghiên cứu là sử dụng các chỉ tiêu tài chính của khách hàng
phịng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt
Nam - Chi nhánh Hà Nội, xếp hạng khách hàng bằng phần mềm T24 và ứng
dụng mơ hình Logit trong xếp hạng bằng chương trình Eviews của kinh tế
lượng từ đó đưa ra mối liên hệ và dự báo cho các khách hàng khác.
Phương pháp nghiên cứu
Là sinh viên năm cuối của khoa Toán Kinh Tế, với mong muốn được
nâng cao kỹ năng và nghiệp vụ đồng thời có cơ hội áp dụng các kiến thức
được học vào thực tế nhằm chuẩn bị ra trường, bên cạnh đó được ban lãnh
đạo Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam tạo điều kiện, sự giúp đỡ nhiệt
tình của các cán bộ trong phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp và sự
hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Hồng Đình Tuấn, em đã có điều kiện tìm

hiểu về tình hình hoạt động, cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Vì vậy em sử
dụng phương pháp xếp hạng khách hàng trên hệ thống phần mềm quản trị
ngân hàng T24r5 của Techcombank và ứng dụng mơ hình Logit trong xếp
hạng khách hàng.
Nguồn thơng tin và dữ liệu
Sử dụng các chỉ tiêu tài chính của 73 doanh nghiệp trong năm 2007 và
các tài liệu liên quan đến việc quản lý rủi ro, xếp hạng khách hàng của phòng
Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại Techcombank - Chi nhánh Hà Nội.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng tập thể cán

Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

3

Khoa Tốn Kinh Tế

bộ, nhân viên tồn Ngân hàng và đặc biệt cám ơn các cán bộ, chuyên viên
Phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
Em xin vơ cùng biết ơn thầy PGS.TS Hồng Đình Tuấn - khoa Tốn
Kinh Tế đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác
định hướng nghiên cứu, sửa chữa và hoàn thiện luận văn. Em cũng xin cảm
ơn sâu sắc tới các thầy cơ giáo trong khoa Tốn Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo
em trong q trình học tập tại trường.


Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

4

Khoa Toán Kinh Tế

CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN
HÀNG VÀ THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.1 Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở
Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngồi dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ
lĩnh vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời
thường rủi ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất
cắp....; đối với các ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại
rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ khơng đúng hạn, cũng có thể là
do ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc
biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản
tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại
đang có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của cơng
nghệ thơng tin và q trình tồn cầu hố. Các nguồn tiền của cá nhân và
doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo

thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính
kém ổn định của cả hệ thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là
các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khốn) với tính rủi ro thị
trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển
cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những
vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng
hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro do những biến

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

5

Khoa Toán Kinh Tế

động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm sốt
tốt được các khoản vay…Điều này khơng chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam
mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Chẳng hạn vào cuối năm 1997, khủng hoảng
tài chính đã làm cho nhiều Ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị
phá sản hoặc phải sát nhập; cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại
Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ q hạn, nợ
khó địi. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó
là khả nảng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia
thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác

động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ
cho Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do
các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong
phạm vi hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp
thành một số loại rủi ro cơ bản như sau:
1.1.2.1

Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải
gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc
là việc thanh tốn nợ gốc và lãi khơng đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng khơng dự kiến
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó ln hàm
chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân
hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng ln được xác định
trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn
thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành cơng trong quản lý.
1.1.2.2

Rủi ro lãi suất

Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp


Khoa Tốn Kinh Tế

6

lãi. Cịn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền
gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận
cho Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy
rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi
suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình
thức khác nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay
đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
 Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
-

Do sự khơng phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi

suất cố định.
-

Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong

điều kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp
để hạn chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro
của Ngân hàng thương mại.
 Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
-

Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ


và tài sản có.
-

Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản

vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ
chế lãi suất thả nổi.
-

Sử dụng các cơng cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử

dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp
vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân
xứng tài sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hốn đổi lãi suất, quyền lựa
chọn lãi suất.

Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

1.1.2.3

Khoa Toán Kinh Tế

7


Rủi ro tỷ giá

Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu khi tỷ giá hối đối thay đổi vượt q thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị
trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối
đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy
nhiên có những thay đổi tỷ giá ngồi dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
-

Lãi suất.

-

Các chính sách của chính phủ.

-

Sự đầu cơ trên thị trường.

-

Tính nhạy cảm của thị trường.

-

Lạm phát.

-


Sự ổn định về chính trị.

Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí
rủi ro. Việc phịng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị
trường. Việc phịng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch
Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến
Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên thực
hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phụ thuộc quá
nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến động bất
thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

8

Khoa Tốn Kinh Tế

Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng
khơng có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác

Ngân hàng khơng có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo
các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
-

Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi

được vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán
các khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong q
trình hoạt động).
-

Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng khơng thu được

nợ làm cho Ngân hàng khơng có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách
hàng hay nói cách khác Ngân hàng khơng có khả năng thanh toán các giao
dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
-

Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng

ngay lập tức. Hoặc có dịng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ
mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi
Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn
đến làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho
NH bị lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng
tăng lên do việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc
NH bị phá sản. Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy
trì số tiền khơng sinh lời hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh

toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán cũng dẫn đến việc NH bị phá sản
vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản
nợ chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH khơng thanh tốn vì các

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

9

Khoa Toán Kinh Tế

khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi
phí cao hơn mức bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh tốn, hậu quả khơng phải chỉ xảy
ra đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của
khách hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ
phần Á Châu cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng
rút tiền tại NHTM cổ phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh đã phải xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ
ạt của khách hàng lan truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính tốn nhu cầu
khả năng thanh tốn đó là việc tính tốn nhu cầu phải chi và có thể phải chi
của Ngân hàng.
1.1.2.5

Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá


Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng
thương mại đa dạng hố hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất
yếu. Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá,
một cơng việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo
quản chứng từ có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân
hàng phải gánh chịu trong việc quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có
giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải chịu khi kinh doanh chứng khốn rất
cao; những rủi ro đó bao gồm:
 Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại
nắm giữ ln có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ
chính bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân
hàng thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đốn khơng đúng về
tình hình thị trường, gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
 Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá khơng thể thanh tốn được:
mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro

Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

10

Khoa Toán Kinh Tế

này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thưong mại có thể chọn
loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình,

nhưng ln phải đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khốn đó. Việc người
phát hành khơng thể thanh tốn được ln gây ra những thiệt hại đáng kể đối
với các Ngân hàng; nó gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với tồn bộ hệ
thống kinh tế quốc gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy
định chỉ cho phép Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng
khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó.
 Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng
thương mại rất đa dạng. Nó địi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên
Ngân hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên
của Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi
giới đầu tư cho khách hàng.
 Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một
nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm
giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh
khoản.
 Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong
quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát,
cướp…Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng
luôn có tác động qua lại lẫn nhau.
 Ngồi các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
quan trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy
định về luật pháp trong và ngồi nước sẽ có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của
Ngân hàng.

Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46



Luận văn tốt nghiệp

Khoa Toán Kinh Tế

11

- Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các
khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển thủ,
trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ.
- Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất
bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những
tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc
và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh tốn nợ gốc và lãi khơng đúng hạn.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách
hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự
cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời
điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa
nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một
xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp
hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng
đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển hình về giấy nhận nợ do công ty phát
hành. Trong cả hai trường hợp, Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ
nhằm nhận được trái tức từ trái phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người
vay tiền không bị phá sản. Trường hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng
thường không thu được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất tồn bộ hoặc
một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài
sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.

Nếu coi khoản tiền hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng khi đầu tư vào trái
phiếu và các khoản chênh lệch vay tín dụng là X thì X sẽ là biến ngẫu nhiên.

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Toán Kinh Tế

12

Đồ thị dưới đây minh họa phân phối xác suất của khả năng khoản tiền hoàn
trả X so sánh với khoản tiền gốc và lãi khách hàng phải trả.
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất khoản tiền hoàn trả
P
P=1

0

gốc gốc và lãi

tiền hoàn trả

Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ
cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc
điểm ln chuyển vốn của các cơng ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro
tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ khơng thanh tốn được một phần hay

toàn bộ tiền lãi là khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ
khơng thanh tốn được một phần hay tồn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến
điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả
gốc và lãi là cao hơn nhiều so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi,
điều này nói lên rằng bổn phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ
rủi ro dự tính của các khoản đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội
so với rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân
hàng nắm giữ.

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

13

Khoa Toán Kinh Tế

Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư
P

P=1

0

tiền hoàn
tiền hoàn
trả trả

đa tối đa
tốitrả
hoàn trả
hoàn

Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là phải
giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân hàng đã đầu
tư. Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với việc quản trị cơng ty
hiệu quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ xác suất trong việc thu hồi
tín dụng. Ngồi ra, sự phân bổ rủi ro tín dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp
chỉ đầu tư vào một loại tài sản và đo mức độ rủi ro của nó. Một trong những
lợi thế của Ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng
hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hố
danh mục đầu tư thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1
nếu thông qua đa dạng hố đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi.
Trong trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục
đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như
được chỉ ra ở Đồ thị 1.2.
Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà tồn bộ các khoản tín
dụng và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong thực tế,
một số khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu đúng được một

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

14


Khoa Tốn Kinh Tế

phần hay tồn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi trung bình của các
danh mục đầu tư có thể nhỏ hơn so với trường hợp thu được đầy đủ cả gốc và
lãi. Kết quả của việc đa dạng hoá đầu tư là việc hạn chế được xác suất xảy ra
các hậu quả xấu trong danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng
hóa đã rút ngắn được phạm vi rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hố
danh mục đầu tư chỉ có thể giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các
ngành kinh tế, tuy nhiên rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế
có ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh tế thì khơng thể loại trừ được.
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều mong
muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hồn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã
thoả thuận. Vì vậy, để đảm bảo an tồn cho hoạt động của mình, sau khi cấp
tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín
dụng đã cấp đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả
thuận khơng? Và mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế
nào?
Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trị hết sức quan trọng:
nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng
như những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận biết và phát hiện được
các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời
để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hồn trả của
khách hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ
hạn trả nợ gốc và lãi.
Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát
hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý. Nếu


Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Tốn Kinh Tế

15

khơng có thể sẽ khơng giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu
hơn. Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn.
Một số trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay,
một số khác có thể xuất hiện chậm hơn, và một số đột ngột phát sinh mà
không hề có dấu hiệu báo trước. Như vậy có nghĩa là khơng có một mơ hình
nhất định nào về các biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một
khoản cho vay sẽ khó hồn trả. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu
hiệu để cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
1.2.2.2 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng khơng thể thu hồi
được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm
tăng các khoản chi phí cho việc đi địi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh
doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ
quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tsài chính, ảnh hưởng xấu tới
tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn
càng lớn thì tính rủi ro càng cao. Tuy vậy, nó cịn phụ thuộc vào cả quy mô
cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu mà hầu hết

các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín
dụng. Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng
là khơng hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng xảy ra, Ngân hàng
cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình nhằm làm giảm bớt nợ quá
hạn. Ngược lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không
ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2.3

Nợ khó địi
Nợ khó địi là nợ q hạn khơng được thanh tốn, mặc dù Ngân hàng đã

gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức

Hoàng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

16

Khoa Toán Kinh Tế

độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết các Ngân hàng
thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó địi.
Tỷ lệ nợ khó địi = (Nợ khó địi / Tổng dư nợ)
Cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao
nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó địi và tỷ lệ nợ khó địi = (Nợ khó địi / Tổng dư
nợ) phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh

của Ngân hàng nói chung. Nợ khó địi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập
quỹ dự phịng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính
cạnh tranh của Ngân hàng.
1.2.2.4 Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi
đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro
tín dụng. Bởi vì việc thanh tốn lãi thường khơng gắn liền với việc trả gốc, và
có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ
theo sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng khơng
thanh tốn được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể
hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng, cũng
là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thơng qua các khoản
nợ có vấn đề, nợ q hạn, nợ khó địi và lãi treo thì dường như đã khá là
muộn đối với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó
khăn đặc biệt thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà
Ngân hàng có thể gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên, điều mà các Ngân hàng
quan tâm là những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ
động và kịp thời đưa ra biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế những khó khăn tổn

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

Khoa Toán Kinh Tế


17

thất cho cả Ngân hàng và khách hàng. Do đó, ngồi các dấu hiệu ở trên, các
cán bộ tín dụng cịn nhận biết rủi ro tín dụng thơng qua một số dấu hiệu khác.
1.2.2.5

Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của Ngân

hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Bởi
vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động tín dụng mang lại.
Nếu tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ q lớn thì khi
khách hàng này gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập
trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro
sẽ là rất lớn nếu như ngành đó hoạt động khơng hiệu quả.
1.2.2.6

Một số dấu hiệu khác

Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-

Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể hiện ở

giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
-

Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu thay đổi


bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
-

Hệ số quay vịng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng

tồn kho và sự gia ttăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với
thời gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức của
khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành
- Có sự mất đồn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh
nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, điều
hành độc đốn hoặc q phân tán.

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

18

Khoa Toán Kinh Tế

- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý
ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém
khác.

- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Ngồi ra cịn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về
mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương mại….
1.2.3 Ngun nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, có thể
phân thành các loại nguyên nhân như sau:
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm mất khả
năng thanh tốn cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những
thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế
quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người
vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản
lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó
khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể sẽ bị tổn thất song vẫn
có thể trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động
của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả
năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu
kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ì…. là ngun
nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì
vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng
tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thơng tin sai, mua

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46



Luận văn tốt nghiệp

19

Khoa Toán Kinh Tế

chuộc….. Nhiều người vay đã khơng tính tốn kĩ lưỡng hoặc khơng có khả
năng tính tốn kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, khơng có khả năng thích
ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại,
người vay kinh doanh có lãi song vẫn khơng trả nợ cho Ngân hàng đúng hẹn,
chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, khơng đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc
đánh giá khơng tốt, cố tình làm sai…. Là một trong những nguyên nhân của
rủi ro tín dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề,
nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách
hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, mơi trường mà khách hàng sống.
Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan người vay…. Như vậy họ
cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và tồn diện. Khi nhân
viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ
lưỡng, rủi ro tín dụng ln rình rập họ. Sống trong mơi trường “tiền bạc”,
nhiều nhân viên Ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ
tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên
Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp khơng đảm bảo là
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.4 Các loại rủi ro tín dụng
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Theo Quyết định này khái niệm nợ được định nghĩa rất rộng. Nợ không

chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo
lãnh, mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi và các khoản bao thanh

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46


Luận văn tốt nghiệp

20

Khoa Tốn Kinh Tế

tốn (một hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán
của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày
6/9/2004 của NHNN) và các hình thức tín dụng khác.
Việc phân loại nợ cũng được xác định hết sức rõ ràng. Theo phương
pháp “định lượng” Quyết định 493 đã phân loại nợ thành 5 nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong
tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh tốn.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại
thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày,

nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Tuy nhiên cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian q hạn trả nợ cụ thể
để phân loại nợ như trên, các tổ chức tín dụng (TCTD) và Ngân hàng (NH)
vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại nợ nào vào nhóm nợ rủi ro cao
hơn tưong ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng
suy giảm.
Điều đặc biệt ở Quyết định này là lần đầu tiên phương pháp “định tính”
được cho phép áp dụng đối với các TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp
này nợ cũng được phân thành 5 nhóm nợ tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách
phân loại “định lượng”, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn
chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và
chính sách dự phịng rủi ro của TCTD được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

Hồng Thị Minh Châm

Lớp Tốn Tài Chính - 46



×