Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thực trạng hoạt động cho vay DNNQD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.19 KB, 93 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Danh mục các chữ viết tắt
DNNQD : Doanh Nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
CTCP: Công ty cổ phần
CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
CNH – HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
TLSX: Tư liệu sản xuất

Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua luôn tăng trưởng với tốc
độ cao. Với tiềm lực to lớn, sự đa dạng về nhiều mặt ngành nghề, lĩnh vực sản
xuất, công nghệ… các DNNQD đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển cho
nền kinh tế, góp phần vào những thành tựu sau hai mươi mốt năm đổi mới và
phát triển của đất nước. Tăng trưởng kinh tế cao thúc đẩy hoạt động ngân
hàng, sức nóng cuả nền kinh tế thị trường đang lan toả, nhu cầu vốn trong tình
trạng “nóng” và diễn ra khẩn trương.
Các DNNQD ở nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên
nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công
nghệ, mở rộng sản xuất và đầu tư ngày càng lớn. Vì vậy, việc thúc đẩy cho
vay DNNQD là một giải pháp tăng tín dụng có hiệu quả, là đầu ra tín dụng
lớn, là đối tượng khách hàng tiềm năng của các NHTM trong thời gian tới.
Hơn nữa, nguồn tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn huy động quan
trọng để các DNNQD có thể giữ vững sân nhà, và vươn ra thị trường quốc tế
trong xu thế hội nhập như hiện nay.


Tuy nhiên, các DNNQD ở nước ta vẫn đang khó tiếp cận với nguồn
vốn ngân hàng và các NHTM cũng gặp một số khó khăn khi cho vay các
DNNQD. Vậy làm thế nào để “Mở rộng cho vay đối với DNNQD”là vấn đề
được các NHTM nói chung và Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội nói
riêng quan tâm.
Vì thời gian thực tập không dài, kiến thức có hạn nên trong bài viết
này, em chỉ đề cập tới thực trạng hoạt động cho vay DNNQD qua các năm
2005-2007 tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội, đồng thời đưa ra một
số giải pháp, kiến nghị để mở rộng hoạt động cho vay DNNQD tại Chi nhánh.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Qua chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình
của cô giáo, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo; em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt
tình của các anh chị trong phòng tín dụng và toàn thể Chi nhánh
NHNo&PTNT Đông Hà Nội đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I:Tổng quan về cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh của Ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là tế bào quan trọng của nền kinh tế. Là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật để thực hiện một, một số hoặc tất cả các khâu của quá trình
từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường, nhằm
mục đích kiếm lời.
Ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp, theo hình thức
chủ sở hữu có ba loại hình doanh nghiệp chính:

- DNNN: là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần vốn góp chi phối được tổ chức ( > 50% vốn điều
lệ ) dưới hình thức: công ty Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần.
- DNNQD: là loại hình doanh nghiệp có nguồn vốn trong nước thuộc
sở hữu của một tập thể, tư nhân, một người hoặc một nhóm người, hoặc có
vốn góp của Nhà nước không vượt quá 50% vốn điều lệ.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không phân biệt tỷ lệ góp vốn của
bên nước ngoài gồm có: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp
liên doanh giữa đối tác nước ngoài với đối tác trong nước.
Các DNNN có xu hướng ngày càng giảm, chỉ nắm giữ những ngành
kinh tế then chốt của đất nước hoặc những lĩmh vực mà các loại hình doanh
nghiệp khác không muốn đầu tư. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
4
Chuyên đề tốt nghiệp
nước ngoài đang phát triển khá nhanh, tuy nhiên sự phát triển của loại hình
này bị giới hạn bởi sự hấp dẫn, thu hút các đối tác nước ngoài, môi trường
pháp lí của mỗi nước. Còn loại hình DNNQD được Nhà nước khuyến khích
phát triển, đóng góp to lớn đến sự phát triển nhanh và ổn định nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Để thuận tiện cho công việc giám sát, quản lí người ta phân chia
DNNQD thành các loại khác nhau theo từng loại tiêu chí.
1.1.2.1. Phân loại theo loại hình doanh nghiệp ( phân định trách nhiệm và
quản lí hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp ) gồm có:
- Doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ): là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp ( Theo Luật doanh nghiệp 2005 )
- Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành

viên là chủ sở hữu chung, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài ra
còn có thể có các thành viên góp vốn ( Theo Luật doanh nghiệp 2005 )
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp mà chủ sở hữu có thể
là tổ chức, cá nhân tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
của công ty trong phạm vi vốn góp của mình.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần, người nắm giữ cổ phần được gọi
là cổ đông. Số lượng cổ đông tối thiểu là ba người, không hạn chế số lượng
tối đa.
1.1.2.2. Phân loại theo quy mô ( lao động và vốn đầu tư ) gồm:
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa: số lượng lao động trung bình hàng năm
dưới 300 người và vốn đầu tư không quá 10 tỷ đồng.
- Doanh nghiệp lớn: số lượng lao động trung bình hàng năm trên 300
người và vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Việt Nam, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.2.3. Phân loại theo thành phần kinh tế
Theo Nghị quyết của của Đại hội Đảng khoá X thì DNNQD được hình
thành từ hai thành phần kinh tế là:
- Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước thì DNNQD gồm: công ty
TNHH, công ty cổ phần có sự tham gia góp vốn của Nhà nước với tỷ lệ nhỏ
hơn hoặc bằng 50%.
- Thành phần kinh tế tư nhân thì DNNQD gồm: công ty TNHH, công ty
cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân không có sự góp vốn của
Nhà nước.
1.1.2.4. Phân loại theo ngành nghề kinh doanh.
Các doanh nghiệp kinh doanh theo các ngành nghề khác nhau, được
chia thành ba nhóm chính là:

- Doanh nghiệp nông nghiệp: là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh các nông phẩm, cây trồng, vật nuôi…
- Doanh nghiệp công nghiệp: là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp. Ở nước ta chủ yếu là sản xuất các mặt
hàng công nghiệp nhẹ.
- Doanh nghiệp thương mại dịch vụ: là các doanh nghiệp mua bán hàng
hoá và cung ứng các dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng tài chính, du lịch,
khách sạn…
1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNQD với tiềm lực to lớn, sự đa dạng về nhiều mặt đã và đang khẳng
định được vai trò ngày càng quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền
kinh tế. Vai trò của các DNNQD thể hiện ở một số khía cạnh sau:
1.1.3.1. Thu hút và phát triển tốt các nguồn lực trong nền kinh tế
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ nhất là vốn đầu tư, các DNNQD sử dụng đa dạng các phương thức
huy động vốn để khai thác hiệu quả mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Đặc
biệt là thu hút được lượng vốn nhàn rỗi lớn trong xã hội. Với điều kiện kinh tế
thị trường đang phát triển như Việt Nam hiện nay thì việc huy động được
nguồn vốn nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh là tác động tích cực, cần thiết tạo
nên động lực cho tăng trưởng. Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp thu hút
năm 2007 là 2439 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài quốc doanh thu hút
được 487 nghìn tỷ đồng, chiếm 20% trong tổng nguồn vốn của các doanh
nghiệp, tăng 43% so với năm 2006. Vốn đầu tư của các DNNQD đang trở
thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế của nhiều vùng,
địa phương.
Thứ hai, thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động.Thất nghiệp
là một trong những vấn đề nan giải, bức xúc ở các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm

ở nông thôn ngày càng tăng. Hệ thống các DNNN đang từng bước cổ phần
hoá, tinh giảm biên chế, không tạo thêm nhiều việc làm mới. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn,
học vấn cao. Chỉ sự phát triển mạnh mẽ của DNNQD đã tạo thêm nhiều việc
làm, thu hút nhiều lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. DNNQD sử dụng đa dạng
các loại lao động bao gồm cả lao động phổ thông, lao động trí óc, lao động
bậc thấp và lao động bậc cao…với số lượng lớn. Tổng số lao động làm việc
trong các doanh nghiệp đến nay trên 5,3 triệu người. Trong đó, số lao động
làm việc tại các DNNQD khoảng 2,2 triệu người; chiếm trên 41% tổng số lao
động trong các doanh nghiệp; tăng 20% so với năm 2006. Lao động trong khu
vực DNNQD tăng mạnh với tốc độ nhanh đã giải quyết việc làm cho một bộ
phận lớn dân cư trong nước.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ ba, sử dụng đa dạng các yếu tố đầu vào, đổi mới kỹ thuật công
nghệ tạo động lực cho tăng trưởng. Với số lượng lớn, đa dạng về quy mô và
ngành nghề sản xuất kinh doanh, các DNNQD sử dụng ngày càng hiệu quả
các yếu tố sản xuất đầu vào: nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ của nền
kinh tế. Các loại sản phẩm mà DNNQD tiêu thụ là các sản phẩm thuộc nhiều
lĩnh vực như nông lâm nghiệp, sản phẩm công nghiệp, sản phẩm dịch vụ ngân
hàng, vận tải, bảo hiểm… Các DNNQD tận dụng được nguồn nguyên liệu dôi
thừa, tạo điều kiện để các ngành khác phát triển. Hơn nữa, sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế và thị trường, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc các
DNNQD phải không ngừng nâng cao, đổi mới công nghệ- kỹ thuật, mua sắm
TSCĐ, trang thiết bị máy móc, tạo động lực cho quá trình phát triển.
Như vậy, nếu được tổ chức tốt, quan tâm tạo điều kiện phát triển thì các
DNNQD sẽ phát huy tốt vai trò của mình, trở thành khu vực kinh tế có tiềm
lực lớn.
1.1.3.2. Cung cấp hàng hoá – dịch vụ đáp ứng nhu cầu phong phú của người

dân trong nước và xuất khẩu.
DNNQD không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ lớn cho nền kinh
tế mà còn đóng góp vai trò không nhỏ vào quá trình sản xuất, tái sản xuất xã
hội, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế. Sử dụng các yếu tố đầu vào
DNNQD tiếp tục quá trình tái sản xuất xã hội để tạo ra nhiều hàng hoá phong
phú về chủng loại, đa dạng về kiểu cách, có chất lượng nhằm đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của dân cư và xuất khẩu ra nước ngoài. Do yêu cầu tồn tại, phát triển
trong nền kinh tế cạnh tranh các DNNQD ra sức nghiên cứu thị trường, tìm
hiểu nhu cầu xã hội, đổi mới công nghệ, tiến hành những phương pháp sản
xuất kinh doanh mới, đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Với giá
thành rẻ, chất lượng cao, hàng hoá dịch vụ phong phú đã góp phần nâng cao
đời sống nhân dân, phục vụ các yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.3. Góp phần tăng thu nhập quốc dân, tăng thu ngân sách Nhà nước, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNQD đã đóng góp vào tổng thu
nhập quốc dân. Khu vực DNNQD luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối
doanh nghiệp đóng góp vào GDP. Các DNNN đóng góp trung bình 39% GDP
hàng năm; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trung bình 4.5%
GDP hàng năm; DNNQD trung bình hàng năm đóng góp khoảng 46% GDP,
năm 2007 tỷ trọng đóng góp vào GDP là 50%.
Các DNNQD sản xuất kinh doanh khá hiệu quả, doanh thu trung bình
hàng năm tăng 33%, năm 2007 đạt 857 nghìn tỷ đồng. Doanh thu cao dẫn tới
khoản thuế thu nhập doanh nghiệp nộp vào ngân sách Nhà nước càng tăng.
Năm 2007, số thuế nộp NSNN của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 8.615
tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2006. Đây là khoản thuế lớn, có ý nghĩa kinh tế
quan trọng phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế về quy mô và hiệu quả.
1.1.3.4. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
DNNQD đóng góp vào quá trình CNH – HĐH đất nước về nhiều mặt,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm: chuyển dịch cơ cầu ngành, cơ cấu
vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu ngành. Đặc trưng kinh tế đa dạng của
DNNQD tạo ra khả năng tác động lớn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành.
Trước đây, DNNQD chủ yếu sản xuất kinh doanh các mặt hàng công nghiệp,
còn các ngành khác rất ít. Nhưng 22 năm đổi mới khu vực này được Nhà
nước khuyến khích phát triển đã xâm nhập hầu hết các ngành sản xuất kinh
doanh: nông nghiêp, lâm nghiệp, xây dựng, thươnh mại, dịch vụ… đặc biệt
phát triển mạnh trong lĩnh vực công thương nghiệp và dịch vụ; thực hiện đúng
định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: “ giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp,
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
9
Chuyên đề tốt nghiệp
tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ”, “ phát triển sản xuất theo
hướng đẩy mạnh xuất khẩư, thay thế hàng nhập khẩu”. DNNQD tập trung ở
lĩnh vực dịch vụ là 56.9%, công nghiệp là 25.2%, xây dựng là 12.5%.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu vùng: khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường.
Cùng với quá trình đô thị hoá các DNNQD phát triển ở các trung tâm kinh tế
lớn, thành phố, đô thị và còn vươn cánh tay của mình tới các vùng tiềm năng,
cả những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đến những nơi gần vùng
nguyên liệu, có giá đất rẻ, nhân công dồi dào, giá rẻ…Các DNNQD tập trung
nhiều nhất ở Đông Nam Bộ, tiếp đến là đồng bằng Sông Cửu Long, tiếp đến
là Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây
Bắc. Những doanh nghiệp tư nhân, những công ty quy mô nhỏ tận dụng được
nguồn lực kinh tế, tận dụng thị trường…giúp các vùng này phát triển, tăng thu
nhập, góp phần ổn định xã hội, giảm bất cân đối phát triển giữa các vùng miền.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm

nền kinh tế nước ta, để tối đa hoá nguồn lực dư thừa trong xã hội phải phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Việc khuyến khích phát triển các DNNQD đảm bảo cho chính
sách này đi đúng hướng và đạt được kết quả. Phát triển tốt DNNQD không
những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn hỗ trợ cho thành phần kinh tế Nhà
nước có vốn đầu tư nước ngoài phát huy đầy đủ vai trò của mình. Hiện nay,
chỉ còn hơn 4.000 DNNN và đang tiến hành từng bước cổ phần hoá. Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhưng tốc độ chậm. Còn DNNQD
tăng rất nhanh, nhất là các công ty cổ phần, công ty TNHH. Sự phát triển của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh
tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ tính độc quyền của kinh tế Nhà
nước, thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Qua đó ta thấy vai trò to lớn của DNNQD trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Các DNNQD luôn đi đầu trong việc
thay đổi công nghệ sản xuất lạc hậu, áp dụng các thành tựu khoa học công
nghệ và sản xuất kinh doanh chính là thực hiện CNH – HĐH cho mình.
Những sản phẩm mà DNNQD sản xuất ra tiếp tục phục vụ cho quá trình CNH
- HĐH ở hầu hết các lĩnh vực. DNNQD phát triển mạnh mẽ trong các ngành,
các vùng miền, thích ứng với xu hướng đô thị hoá tạo ra nhiều cơ hôi phân
công lại lao động, thu nhập giữa các ngành, vùng miền, góp phần thực hiện
CNH - HĐH đất nước. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của
nước ta sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của DNNQD.
1.1.4. Đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những đặc điểm riêng, để phát triển
có hiệu quả vai trò của mỗi loại hình cần phải chú ý tới đặc điểm của chúng.
Các DNNQD có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Các DNNQD được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa trên tính chất tư

hữu về TLSX. TLSX không phải thuộc về Nhà nước, của toàn dân mà
thuộc sở hữu của một người hoặc một nhóm người, tập thể, tư nhân.
Các hình thức sở hữu có thể là: sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình, sở hữu
hỗn hợp hình thành nên các hình thức đơn vụ sản xuất kinh doanh như:
công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần…Ngoài ra, dựa vào
tính tư hữu về TLSX - cụ thể ở đây là vốn có thể phân định trách nhiệm
và quản lý hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp. Chẳng hạn,
doanh nghiệp tư nhân do cá nhân thành lập bằng vốn của mình, tự chịu
mọi trách nhiệm mọi hoạt động của doanh nghiệp. Công ty cổ phần
được thành lập thông qua phát hành (bán) các cổ phiếu; việc nắm giữ cổ
phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt
động của công ty, tham gia chia cổ tức từ lợi nhuận, đồng thời phải
gánh chịu các tổn thất xảy ra trên phần cổ phiếu nắm giữ. Công ty
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
11
Chuyên đề tốt nghiệp
TNHH được thành lập trên cơ sở góp vốn của một hoặc một số cá nhân,
tổ chức; thành viên chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của
công ty trong phạm vi vốn góp…
- Mục tiêu hoạt động của DNNQD là lợi nhuận. Khác với DNNN,
DNNQD không hoạt động vì mục tiêu xã hội theo mục tiêu cụ thể của
Nhà nước, chủ sử hữu được toàn quyền quyết định về hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình nhằm tăng giá trị chủ sở hữu. Các DNNQD
không có sự bảo hộ của Nhà nước, phải tự tìm kiếm nguồn vốn đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- Tính đa dạng của các DNNQD về quy mô, ngành nghề kinh doanh, mô
hình quản lý, công nghệ…Thứ nhất, về quy mô: các DNNQD mới được
chính thức công nhận hoạt động từ năm 1986 đến nay, mang tính chất
tư hữu về TLSX nên quy mô vốn và lao động của DNNQD rất đa dạng,
chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các DNNQD chủ yếu là

doanh nghiệp tư nhân (chiếm 43%). Trong những năm gần đây, số
doanh nghiệp có vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 94%; bình quân
vốn thực tế một doanh nghiệp sử dụng là 3.7 tỷ đồng, quá ít so với nhu
cầu phát triển của nền kinh tế.
Biểu đồ: Tỷ trọng các DNNQD phân theo quy mô vốn
28%
20%
39%
7%
4.50%
1%0.50%
dưới 0.5 tỷ đồng
0.5-1 tỷ đồng
1-5 tỷ đồng
5-10 tỷ đồng
10-50 tỷ đồng
50-200 tỷ đồng
>200 tỷ đồng
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Quy mô lao động cũng đa dạng về số lượng lao động sử dụng, về trình độ
lao động được sử dụng và tập trung chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, doanh
nghiệp có số lao động dưới 300 người chiếm 98%; số lượng doanh nghiệp
có quy mô lao động lớn rất ít, chủ yếu ở các công ty cổ phần hoặc công ty
TNHH.
Biểu đồ: Tỷ trọng các DNNQD phân theo số lượng lao động
98%
1.40%
0.60%

dưới 300 lao
động
300-1000 lao
động
>1000 lao động
Thứ hai, đa dạng về ngành nghề sản xuất kinh doanh. Các DNNQD đã
nhanh chóng xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh
doanh: nông nghiệp, thuỷ hải sản, xây dựng, công nghiêp, thương mại, dịch
vụ…Sự đa dạng trong ngành nghề sản xuất kinh doanh của các DNNQD đã
tận dụng được những phần thị trường bị bỏ rơi, nguyên nhiên liệu dư thừa,
nguồn lực lao động…thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng đều, đảm bảo đúng
xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành.
Thứ ba, sự đa dạng về mô hình quản lý. Do sự đa dạng trong hình thức sở
hữu dẫn tới sự đa dạng trong mô hình quản lý: quản lý tập trung ở các doanh
nghiệp tư nhân; quản lý phân quyền ở các công ty cổ phần, công ty TNHH,
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
13
Chuyên đề tốt nghiệp
công ty hợp danh. Mô hình quản lý tập trung thích hợp với những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ để tận dụng thị trường; mô hình quản lý phân quyền
phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô lớn.
Từ sự đa dạng về ngành nghề sản xuất kinh doanh, quy mô, hình thức
quản lý kéo theo sự đa dạng về công nghệ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
Với mỗi thị trường, mỗi ngành nghề, mỗi loại hình doanh nghiệp, phụ thuộc
vào vốn và lao động mà áp dụng dây truyền công nghệ phù hợp để khai thác
hiệu quả các nguồn lực, nắm bắt thị trường, mở rộng sản xuất…
Sự đa dạng về nhiều mặt của DNNQD là một đặc trưng quan trọng, nền
kinh tế có được sự phát triển năng động chính là nhờ một phần từ sự đa dạng
của các DNNQD.
- Các DNNQD tăng nhanh về số lượng. Điều này phù hợp với xu thế phát

triển chung của đất nước và thế giới. Số lượng các DNNQD đã tăng lên
đáng kể trong những năm qua, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn (khoảng
93% tổng số doanh nghiệp). Tốc độ tăng bình quân gấp 1.3 lần qua các
năm; bình quân mỗi năm có trên 7.000 DNNQD được thành lập.
DNNQD phát triển mạnh đặc biệt ở các đô thị trung tâm thành phố lớn.
Trên địa bàn Hà Nội, nếu năm 2001 chỉ có 2.818 doanh nghiệp thì đến
2005 đã có 2.5479 doanh nghiệp, đến nay có khoảng 36.500 DNNQD.
Sự phát triển này càng chứng tỏ vai trò kinh tế quan trọng của khu vực
DNNQD.
Biểu đồ: Số lượng DNNQD qua các năm 2005 – 2007
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
14
Chuyên đề tốt nghiệp
118340
153846
200000
0
50000
100000
150000
200000
250000
2005 2006 2007
Năm
tỷ đồng
- Khả năng tích luỹ và huy động vốn của các DNNQD còn hạn chế, trong
khi nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, mua sắm
trang thiết bị…là rất lớn. DNNQD ở nước ta ra đời muộn trong môi
trường pháp luật mới tạo dựng còn nhiều vướng mắc, chủ yếu là quy
mô nhỏ và trung bình, năng lực quản lý chưa cao nên khả năng tích luỹ

vốn từ sản xuất kinh doanh thấp. Lượng vốn tự có của các DNNQD
không lớn, chỉ đủ đáp ứng từ 20 – 30% yêu cầu hoạt động của doanh
nghiệp. Mặt khác còn gặp nhiều khó khăn tiếp cận với nguồn vốn Ngân
hàng. Trong khi đó để hoạt động sản xuất kinh doanh các DNNQD có
nhu cầu về vốn rất lớn. Vì vậy, các DNNQD là đầu ra tín dụng lớn, là
thị trường tiềm năng của các NHTM.
1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
1.2.1. Khái quát về cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh
NHTM là một trong những tổ chức tín dụng quan trọng nhất của nền
kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ mà nội dung thường xuyên của nó là
nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay là một trong những dịch vụ chủ đạo, là nguồn thu nhập chính
của NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Theo điều 3, QĐ
1627 – NHNN: cho vay là hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Do DNNQD có những đặc trưng riêng, biểu hiện rõ nét nhất là các
doanh nghiệp này có hạn chế trong việc đáp ứng TSĐB, vốn tự có tham gia
vào phương án kinh doanh, các báo cáo tài chính thường không được tính
toán. Nên khi cho vay DNNQD cần xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, có sự linh
hoạt, cần thiết phải có những hướng dẫn cụ thể về quy trình tín dụng cho loại
hình này nhằm giảm phiền hà cho DNNQD, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian
giao dịch, nâng cao hiệu quả cho vay. Khi cấp tín dụng cho các DNNQD đòi
hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ hiểu biết về các lĩnh vực sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, các thông số đánh giá, trình độ thẩm định cao. Loại
hình DNNQD được chính thức đi vào hoạt động muộn, các Ngân hàng còn e
ngại cho vay loại hình này, sự chuyên sâu cũng như kinh nghiệm cho vay
DNNQD còn hạn chế. Tuy nhiên, các DNNQD chủ yếu có quy mô nhỏ và
trung bình nên nhu cầu sử dụng vốn cũng ở mức không quá lớn với thời gian
không quá dài rất phù hợp với nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Cho vay là quan hệ tín dụng bình đẳng xuất phát từ lợi ích của cả doanh
nghiệp và Ngân hàng. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều
gắn liền với các dịch vụ do NHTM cung cấp. Không một doanh nghiệp nào
không vay vốn Ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên
thương trường. Nguồn tín dụng Ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án
mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Thông qua việc vay vốn
doanh nghiệp còn được Ngân hàng cung cấp thông tin, dịch vụ tư vấn giúp
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
16
Chuyên đề tốt nghiệp
các doanh nghiệp giảm bớt chi phí do thiếu thông tin, có quyết định sản xuất
kinh doanh đúng đắn. Mặt khác, các doanh nghiệp còn được sử dụng những
dịch vụ đi kèm với khoản vay như dịch vụ thanh toán, Ngân hàng thu hộ tiền
bán hàng, chi trả các khoản chi phí, chi trả lương thưởng… Ngân hàng đóng
vai trò là thủ quỹ của doanh nghiệp. Tín dụng Ngân hàng còn góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các DNNQD. Bởi vì đặc
trưng của tín dụng là tính hoàn trả, các doanh nghiệp phải có phương án kinh
doanh hợp lí, phải tính toán nhằm hiệu quả hoá tất cả các hoạt động của mình
( giảm thiểu chi phí,tăng nguồn thu). Như vậy tín dụng Ngân hàng thực sự có
vai trò quan trọng đối với hoạt động của DNNQD. Đối với Ngân hàng, cho
vay được coi là hoạt động sinh lời cao, mang lại phần thu nhập chủ yếu cho
Ngân hàng. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho
vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.

Các NHTM trong quá trình mở rộng thị phần, nâng cao năng lực tài
chính luôn chú trọng đến công tác cho vay; bằng cách mở rộng phạm vi cho
vay, tìm cách tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn đảm báo khả năng thu hồi nợ
đúng hạn, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất có thể xảy ra.
1.2.2.Nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cũng cao nhất cho
NHTM. Vì vậy để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời hoạt động cho
vay của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định sau:
12.2.1. Khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng
Ngân hàng cho vay theo nhu cầu vốn để thực hiện dự án sản xuất kinh
doanh của khách hàng. Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản vốn vay theo
đúng mục đích đã thoả thuận với Ngân hàng, không trái với quy định pháp
luật, quy định của Ngân hàng cấp trên. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
17
Chuyên đề tốt nghiệp
đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động không trái luật
pháp, phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển của Ngân hàng cũng như
chủ trương xây dựng phát triển đất nước. Việc khách hàng sử dụng vốn đúng
mục đích ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Sau
khi giải ngân, Ngân hàng cần giám sát xem khách hàng có sử dụng đúng mục
đích không để đảm bảo khoản vay có hiệu quả. Về phía khách hàng, việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực
hiện được mục tiêu sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng hoàn trả cho
Ngân hàng. Từ đó củng cố, nâng cao uy tín của khách hàng đối với Ngân
hàng, tạo mối quan hệ tín dụng tốt đẹp và lâu dài giữa Ngân hàng với khách
hàng.
1.2.2.2. Khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã
thoả thuận

Đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp vay vốn và cũng là điều
kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuỳ thuộc vào phương thức cho vay
mà khách hàng có thể trả vốn và lãi theo những cách thức khác nhau: trả lãi
hàng tháng, trả gốc cuối kỳ, trả theo niên kim cố định, trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng…theo sự thoả thuận giữa hai bên. Xuất phát từ bản
chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quỳên sử dụng
vốn nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy động từ
tiền gửi của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và những khoản mà Ngân hàng
vay mượn là nguồn ngắn hạn. Sau một thời gian sử dụng vốn vay Ngân hàng
phải hoàn trả vốn và chi phí sử dụng vốn như đã cam kết. Do vậy, Ngân hàng
luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết hoàn trả vốn
và lãi đầy đủ và đúng hạn. Nguồn trả nợ chính của doanh nghiệp là lợi nhuận
sau thuế và khấu hao TSCĐ.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
18
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.3. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án/ dự án có hiệu quả
NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, do đó Ngân hàng tài trợ cho
các phương án/ dự án có tính khả thi để đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay và
hưởng lãi. Ngân hàng thẩm định phương án/ dự án trước khi cho vay; phân
tích, đánh giá mục tiêu, kết quả của phương án/ dự án có thể đạt được nhằm
xác định khả năng sinh lời, tính an toàn và khả năng hoàn trả. Trong trường
hợp xem xét thấy phương án/ dự án kém an toàn Ngân hàng đòi hỏi khách
hàng vay phải có TSĐB.
1.2.3. Phân loại cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Ngân hàng
thương mại
Để phục vụ tốt cho mục đích quản lí, giám sát các loại hình cho vay của
NHTM được phân thành nhiều nhóm tương ứng với sự đa dạng về nhu cầu và
mục đích vay vốn, phù hợp với từng điều kiện khác nhau của khách hàng. Với

mỗi tiêu thức phân loại có các hình thức cho vay khác nhau:
1.2.3.1. Phân loại theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ lúc ký hợp đồng tín
dụng đến khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi được ghi trong hợp đồng tín
dụng. Phân chia các loại cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng tới tính
an toàn và sinh lời của khoản cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách
hàng. Theo thời gian cho vay được phân thành các loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống.
- Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ trên 1 năm
đến 5 năm.
- Cho vau dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.
Các NHTM chủ yếu cho vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động hay
nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Đặc điểm này là do các
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
19
Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn vốn Ngân hàng huy động được chủ yếu là ngắn hạn. Cho vay trung dài
hạn chiếm tỷ trọng nhỏ do mức độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt đỏ và khan
hiếm hơn. Cho vay trung hạn để tài trợ cho TSCĐ, một số cây trồng, vật nuôi,
trang thiết bị khấu hao nhanh. Ngân hàng cho vay dài hạn để các DNNQD
xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian
sử dụng lâu.
1.2.3.2. Phân loại theo phương thức cho vay
Đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng, để mở rộng cho vay
các NHTM thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay như: thấu chi, cho
vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay theo hạn
mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua phát hành thẻ, cho vay hợp vốn.
Cụ thể:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay

được chi trội trên số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một
giới hạn nhất định, trong khoảng thời gian xác định (thường là thời gian
ngắn), không cần TSĐB. Thấu chi thực chất là một dạng của hạn mức
tín dụng trên tài khoản thanh toán. Đây là hình thức tín dụng linh hoạt,
thủ tục đơn giản (khách hàng chỉ cần làm đơn xin thấu chi nêu rõ mục
đích); thường áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu
nhập đều đặn, ổn định, kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay từng lần: đây là phương thức cho vay khá phổ biến, đối tượng
cho vay là các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên mà chỉ
khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân
hàng. Mỗi lần vay doanh nghiệp phải ký lại hợp đồng tín dụng - điều
này gây phiền hà cho khách hàng, tốn nhiều chi phí. Tuy nhiên, với
phương thức này Ngân hàng có thể kiểm soát được từng món vay tách
biệt.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
20
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho vay theo hạn mức: là phương thức cho vay thuận tiện đối với các
doanh nghiệp có nhu cầu vay thường xuyên, có vòng quay vốn lưu động
nhanh, có khả năng tài chính lành mạnh, có uy tín với Ngân hàng. Nhu
cầu vay là để tài trợ cho nguồn vốn lưu động thiếu hụt. Nội dung chủ
yếu của cho vay theo hạn mức tín dụng là giữa Ngân hàng và khách
hàng thoả thuận xác định một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian
nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hạn mức
tín dụng không định kỳ hạn nợ cụ thể song kiểm soát chặt chẽ hạn mức
tín dụng còn thực hiện.
- Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa vào khối lượng hàng
luân chuyển để dự đoán dòng ngân quỹ. Ngân hàng cho doanh nghiệp
vay để mua hàng hoá và thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Bản
chất của phương thức này là cho vay theo hạn mức động dựa trên giá trị

hàng hoá cho vay luân chuyển. Ngân hàng thường cho các doanh
nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ
ngắn, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. Hạn chế của
phương thức này là chi phí vay khá cao. Ở Việt Nam hiện nay chưa áp
dụng phương thức cho vay luân chuyển vì Ngân hàng chưa đánh giá
được sự luân chuyển của hàng hoá, chưa có cán bộ chuyên biệt về vấn
đề này.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là việc Ngân hàng cam kết
đảm bảo sẵn sang cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín
dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về thời
hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức
tín dụng dự phòng. Mỗi lần rút tiền vay khách hàng lập giấy nợ kèm
theo chứng từ cần thiết gửi Ngân hàng.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
21
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho vay thông qua phát hành thẻ: là việc Ngân hàng chấp nhận cho
doanh nghiệp sử dụng số tiền vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
thanh toán tiền mua hàng, dịch vụ, rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động
hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của Ngân hàng. Trong đó, Ngân hàng
sẽ quy định và hướng dẫn cụ thể việc cấp thẻ tín dụng, quy định sử
dụng thẻ, thanh toán nợ, xử lý khi thẻ hết hạn và những vi phạm về sử
dụng thẻ thanh toán nợ…
- Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): là hình thức một nhóm TCTD cùng tài
trợ cho một dự án của khách hàng, trong đó có một TCTD đứng ra làm
đầu mối dàn xếp, phối hợp các TCTD khác. Việc cho vay hợp vốn thực
hiện khi khoản tín dụng lớn vượt quá giới hạn cho vay; thời hạn tín
dụng dài, rủi ro cao cần phải phân tán rủi ro hoặc khả năng tài chính và
nguồn vốn của một Ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu vay của
khách hàng. Khi các dự án cần quy mô vốn lớn, thời gian dài nhưng có

khả năng thu hồi cao và là khoản tín dụng mang lại nhiều lợi nhuận thì
cho vay hợp vốn là một phương thức cho vay hiệu quả.
1.2.3.3. Phân loại theo mực đích sử dụng
Khách hàng có nhu cầu rất đa dạng, khác nhau; căn cứ vào các mục
đích sử dụng vốn vay khác nhau Ngân hàng có thể phân loại cho vay
DNNQD thành: cho vay kinh doanh và cho vay tài trợ dự án.
- Cho vay kinh doanh: Ngân hàng cho doanh nghiệp vay nhằm tài trợ nhu
cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh như: mua thêm hàng hoá,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…Do có nhiều loại hình doanh nghiệp
nên tương ứng với nó là các khoản vay khác nhau đáp ứng cho các nhu
cầu khác nhau trong kinh doanh. Phần lớn các khoản vay này đều có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
22
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho vay tài trợ dự án: là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gồm
có: đầu tư dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ;
đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới; đầu tư cải thiện môi trường sinh
thái, di chuyển cơ sở sản xuất khỏi đô thị; phát triển các dịch vụ nghiên
cứu triển khai, cơ sở thử nghiệm và các phòng thí nghiệm phục vụ
nghiên cứu khoa học; mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; đầu tư theo các hình thức BOT, BTO, BT.
Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay phải xây dựng dự án thể hiện mục
đích sử dụng, kế hoạch đầu tư, quy trình thực hiện dự án. Ngân hàng chỉ
cho vay các dự án có khả năng sinh lời cao, đảm bảo tính hoàn trả.
1.2.3.4. Phân loại theo tính chất đảm bảo
Trong kinh doanh luôn phải đối đầu với những rủi ro, khách hàng vay
có thể gặp phải những biến cố không mong đợi làm mất khả năng trả nợ dẫn
tới những tổn thất lớn cho Ngân hàng. Vì thế, khi cấp tín dụng cho người vay

trừ những khách hàng có uy tín cao Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng
phải có TSĐB.
- Trường hợp cho vay có TSĐB dưới các hình thức thế chấp, cầm cố,
đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, đảm bảo bằng tài sản của
bên thứ ba, đảm bảo bằng số dư bù.
+ Thế chấp: là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các TSĐB sang cho Ngân hàng
nắm giữ trong thời gian cam kết. Các tài sản thế chấp thường là máy móc
thiết bị, nhà đất, hàng hoá…
+ Cầm cố: là hình thức theo đó người nhận tài trợ chuyển quyền kiểm soát
TSĐB sang cho Ngân hàng trong thời gian cam kết. Các tài sản cầm cố như
chứng khoán, các hợp đồng, ngoại tệ mạnh, kim loại quý… thường là những
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
23
Chuyên đề tốt nghiệp
tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng. Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy
việc khách hàng nắm giữ TSĐB không an toàn cho Ngân hàng.
+ Đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Ngân hàng cấp tín dụng cho
khách hàng để mua sắm, xây dựng nên một số tài sản phục vụ cho sản xuất
kinh doanh thì những tài sản này có thể trở thành TSĐB cho khoản vay. Đây
là biện pháp cuối cùng để Ngân hàng có thể hạn chế việc khách hàng bán
TSĐB được hình thành từ vốn vay.
+ Đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba: Bên thứ ba cam kết thực hiện các
nghĩa vụ tài chính thay cho người vay đối với Ngân hàng khi người vay
không thực hiện được; Ngân hàng đòi hỏi phải có TSĐB của người bảo lãnh
cho bảo lãnh đó.
+ Đảm bảo bằng số dư bù: Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay đảm bảo bằng
tiền gửi ký quỹ. Đảm bảo bằng số dư bù thủ tục đơn giản, phần lớn có giá trị
nhỏ hơn món vay ( ký quỹ từ 10 – 100% giá trị khoản vay).
Ngân hàng yêu cầu khi nhận tín dụng phải có TSĐB để đảm bảo có

nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh không đảm bảo trả nợ.
- Cho vay không cần TSĐB: đối với những khách hàng truyền thống, có
mối quan hệ tín dụng tốt và lâu dài với Ngân hàng thì Ngân hàng có thể
cho vay không cần TSĐB; mà dựa vào uy tín của khách hàng, uy tín của
bên thứ ba (các TCTD, các công ty tài chính lớn, các công ty lớn, công
ty mẹ…) hoặc theo chỉ định của Chính phủ. Nguồn trả nợ được lấy từ
thu nhập của khách hàng và phần thu từ dự án cho vay. Đối với hình
thức cho vay không có TSĐB sẽ rủi ro hơn cho Ngân hàng song giữ
chân được khách hàng truyền thống, nâng cao và củng cố mối quan hệ
với khách hàng.
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài ra còn có nhiều tiêu thức khác để phân loại cho vay như phân loại
theo hình thái tiền tệ ( VNĐ, USD, vàng…), phân loại theo ngành ( nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), phân loại theo phương thức hoàn trả ( cho vay
trả góp, cho vay trả cuối kỳ…) …
Các Ngân hàng thực hiện cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, các
nghiệp vụ cho vay không ngừng được mở rộng, hoàn thiện hơn mang lại tiện
ích cho người vay vốn đồng thời đảm bảo tính an toàn và lợi nhuận cho Ngân
hàng. Các hình thức cho vay phổ biến tại NHTM Việt Nam hiện nay là thấu
chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tài trợ
dự ám, cho vay hợp vốn.
1.2.4. Những thuận lợi và khó khăn khi cho vay DNNQD
1.2.4.1. Những thuận lợi khi cho vay DNNQD
Do đặc điểm chung của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên cho vay những doanh nghiệp này có một số thuận lợi
sau:
- Thời hạn tín dụng: Nhu cầu vay vốn của các DNNQD thường ở mức

nhỏ và trung bình với thời hạn ngắn và trung hạn. Cho vay ngắn hạn rồi
chuyển dần sang cho vay các thời hạn dài hơn là đặc trưng của tín dụng
Ngân hàng. Nguồn huy động của NHTM chủ yếu là ngắn hạn; do đó
thời hạn tín dụng không dài đối với DNNQD tương thích với nguồn vốn
của NHTM, phù hợp với cơ cấu nguồn vốn Ngân hàng, tạo thuận lợi lớn
trong cho vay.
- Thuận lợi hơn trong quá trình thẩm định, giám sát khoản vay. Tính chất
các khoản vay của các DNNQD quy mô không lớn, thời gian không dài
nên mức độ phức tạp, mức độ rủi ro của phương án sản xuất kinh doanh
không cao. Điều này giúp cho các NHTM dễ dàng hơn trong thẩm định
Nguyễn Thị Thuỳ Dung Ngân hàng 46C
25

×