Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.92 KB, 39 trang )

Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới
13:47 | 25/01/2015
(Bqp.vn) - Sau gần 30 năm đổi mới, với vị trí và vai trị của một Đảng cầm quyền, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, góp phần đặc biệt quan trọng vào
sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó, đường lối đối ngoại của Đảng mang
nhiều dấu ấn đậm nét.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đường lối
đổi mới, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. (ảnh tư liệu)
Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Quan hệ
chính trị quốc tế có những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến lược đối ngoại của các quốc
gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng được diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
“nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận
những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới
toàn diện. Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hịa bình ở Đơng Dương, góp phần giữ
vững hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [1].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về tư duy đối ngoại.
Trước hết là rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp
lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”;
nhận thức được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh
tế, xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương
mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngồi để phục vụ cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội” [2].
Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối
ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và


giữ vững hịa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” [3]. Theo cố Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, “Nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi
mới mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta” [4].
Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự
phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Theo đó, việc mở rộng quan
hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm vụ cấp
bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào các
mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng
ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.


Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990, Việt Nam đã đẩy mạnh
hoạt động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng,
mở cửa giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước trong quan hệ quốc tế.
Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đảng Cộng sản
mất vai trị lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi. Tình hình Liên Xơ hết sức
khó khăn, phức tạp. Trong hồn cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991),
Đảng ta xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo mơi trường quốc tế hịa bình, ổn
định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được quyết nghị,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ kỷ cương - đoàn kết” [5].
Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá
được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn. Lần đầu tiên, Việt Nam
có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập ASEAN, một tổ chức khu vực mà
trong đó các thành viên đều không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị, xã hội với Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28/6 - 1/7/1996,
Đảng ta khẳng định: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương

hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển [6]. Đại hội nêu rõ
chủ trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do
(AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ đối ngoại của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh hết
sức phức tạp, với nhiều cơ hội nhưng cũng khơng ít thách thức. Trong bối cảnh đó, tháng 4/2001,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp, nhận định tổng quát sau 10 năm thực hiện
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội (1991 - 2000), “đất nước đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau
15 năm đổi mới, Đại hội đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong
cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình,
độc lập và phát triển” [7]. Với phương châm này, lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây
dựng quan hệ đối tác” trong đường lối đối ngoại. Đây là điều có ý nghĩa quan trọng, bởi mơ hình
quan hệ đối tác chiến lược được coi là mơ hình hợp tác ở mức độ cao và quan trọng hơn so với
hợp tác quốc tế thông thường.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/1/2001, Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 07/NQ-TW Về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhanh chóng đưa Việt Nam
vào các thể chế kinh tế, trước hết là AFTA và sau đó là WTO trên tinh thần “phát huy tối đa nội
lực”. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt, là “kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta trên
con đường hội nhập, một con đường khơng ít chơng gai mà chúng ta phải vượt qua và nhất định
vượt qua để giành lấy cơ hội cho phát triển” [8].
Tuy nhiên, nếu như chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài, thì những diễn
biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước xảy ra thường xuyên, Đảng liên tục có những


điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Theo đó, tháng 7/2003, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX họp và ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình

hình mới. Nghị quyết đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng về nguyên tắc xác định đối tác
và đối tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn mạnh: Những ai tôn trọng độc lập chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều
là đối tác của Việt Nam; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách
mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Có thể nói, từ khi đổi mới năm 1986, sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là tài liệu thứ hai có tầm quan
trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; đã xác định nguyên tắc và phương
thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước trong khu vực và thế giới, không phân biệt chế
độ chính trị và trình độ phát triển. Trong cuộc trả lời phỏng vấn Báo Vietnamnet ngày 8/1/2011,
Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phịng khi đó khẳng định: “Tơi tin đây là
Nghị quyết đi vào lịch sử bảo vệ Tổ quốc trong hịa bình như Nghị quyết 15 trong chiến tranh
chống Mỹ” [9].
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng được triệu tập tại Hà Nội. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đã nêu chủ trương lớn về
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. So với đường lối đối
ngoại Đại hội IX, Đại hội X đã điều chỉnh, bổ sung một số nội dung như: Thứ nhất, khẳng định
việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm
từ hịa bình, hợp tác và phát triển); Thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính
sách đối ngoại rộng mở); Thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh
thần “chủ động” mà cịn phải “tích cực”, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác; Thứ tư, quan điểm của Đại hội X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa
các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Tiếp theo đường lối đối ngoại của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ Tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa X (15/1/2007) đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Trên cơ sở quan điểm biện chứng, phát triển, Ban Chấp
hành Trung ương cho rằng những cơ hội, thách thức khi Việt Nam là thành viên của WTO có

mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội khơng tự phát huy tác dụng
mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt
qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng cơ hội thì cơ hội
có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức
ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu cùng còn tùy thuộc vào nỗ lực và khả năng vượt qua của
chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của
các thách thức thì khơng những chúng ta sẽ vượt qua được thách thức mà cịn có thể biến thách
thức thành động lực phát triển.
Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra tại Hà
Nội. Đại hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm 2011 - 2015 là “mở rộng, nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” [10]. So với nhiệm vụ đối
ngoại được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ động và tích cực hội nhập


kinh tế quốc tế”, thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
đã thể hiện bước phát triển mới về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” lên “hội nhập
quốc tế” - hội nhập toàn diện, đồng bộ từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an
ninh. Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại của Đảng ta, là kết quả bước
chuyển từ tư duy đối ngoại thời kỳ chiến tranh lạnh sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới cho thấy, đường đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng đề ra đã được các Đại hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ
khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, thể hiện ở mục tiêu đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo
chính sách đối ngoại và phương châm đối ngoại. Đường lối đó đã góp phần giữ vững mơi trường
hịa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao
vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Cũng từ đường lối đúng đắn đó,
Việt Nam đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế
đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương.

[1], [8], [9]. Phạm Quang Minh: Chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam (1986 - 2010), Nxb
Thế giới, Hà Nội. 2012, tr. 53, tr. 111, tr. 117.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà
Nội. 1987, tr. 30 - 31.
[3], [4]. Nguyễn Cơ Thạch: Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chí
Quan hệ Quốc tế, số 1, tháng 1/1990, tr. 7, tr. 9.
[5]. Lê Mậu Hãn: Đảng Cộng sản Việt Nam - Các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb CTQG,
Hà Nội. 1998, tr. 171.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà
Nội.1996, tr. 120 - 121.
[7], [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,
Hà Nội. 2001, tr. 119, tr.189.


Câu 14. Đối ngoại thời kỳ đổi mới

5.9K 4 0
1. Hồn cảnh lịch sử và q trình hình thành đường lối
a)

Hồn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới từ thập kỷ 80, thế kỷ XX đến nay (đặc điểm thế giới; các xu thế quốc tế):
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông
tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn cịn, nhưng xu thế chung của thế giới là
hồ bình và hợp tác phát triển.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới
tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hố, đa dạng hố quan hệ quốc tế.

Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam (phá thế bị bao vây, cấm vận; chống tụt hậu về kinh
tế):
Vấn đề giải toả tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hố
và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây
dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt.
b) Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối
Giai đoạn (1986-1996): xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hố, đa
phương hóa quan hệ quốc tế.
Tháng 12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới.
Từ năm 1989, Đảng chủ trương xố bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng
và cùng có lợi với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ
sở các ngun tắc cùng tồn tại hồ bình”, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII (1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và
đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối
ngoại.
Giai đoạn (1996-2011): bổ sung và hồn chỉnh đường lối đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế:
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố quan
hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế giới; đồn kết với các nước đang phát triển, với phong trào khơng liên kết;
tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực.
Tháng 11/2001, Bộ chính trị ra nghị quyết số 07 về Hội nhập kinh tế quốc tế gồm 9 nhiệm vụ cụ
thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đại hội X (2006), Đảng nêu quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách thức của
việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư
tưởng chỉ đạo và công tác đối ngoại.
- Cơ hội và thách thức.
Về cơ hội: Xu thế hồ bình, hợp tác phát triển và xu thế tồn cầu hố kinh tế tạo thuận lợi cho
nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới đã nâng cao thê và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Về thách thức: Những vấn đề tồn cầu như phân hố giàu nghèo,
dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia...gây tác động bất lợi đối với nước ta. Nền kinh tế Việt Nam


phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: Sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia;
những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong
nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế – tài chính. Ngồi ra, lợi dụng
tồn cầu hố, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “ nhân quyền” chống phá chế độ
chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta. Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan
hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hố lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ
thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách
thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại nếu khơng nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ,
thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp,
nhưng tác động đến đâu còn phụ thuộc vào khả năng và nỗ lực của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn
bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì khơng
những sẽ vượt qua được thách thức, mà cịn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.

- Mục tiêu nhiệm vụ đối ngoại .
Lấy việc giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc . Mở rộng đối ngoại
và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết
hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
- Tư tưởng chỉ đạo.
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành cơng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đơi với đẩy mạnh đa phương hố, đa dạng hoá quan
hệ đối ngoại. Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc
đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác;
đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thê giới, không phân biệt chế độ
chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hồ bình, hợp tác với khu vực;chủ động tham gia các tổ chức
đa phương, khu vực toàn cầu.


Năm là: Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội
nhập kinh tế quốc tế là cơng việc của tồn dân.
Sáu là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế – xã hội; giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc; bảo vệ mơi
trường sinh thái trong q trình hội nhập kinh tê quốc tế.
Bảy là: Phát huy tối đa nội lực đi đơi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của
đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tám là: Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ

chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
Chín là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tăng cường sức mạnh đại đồn kết tồn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
a)

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị TW 4 khóa X (2007):
- Đưa các quan hệ đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy
định của WTO
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc
tế
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và mơi trường trong q trình hội nhập
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh XH
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân;
chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại


- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động
đối ngoại.
3.Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a)

Thành tựu


Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã
đạt được những kết quả:
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991)
về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan
hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(ngày 10-11-1991); tháng 11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viên trợ ODA cho Việt
Nam; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995). Tháng 7-1995 Việt Nam ra nhập
ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á.
Hai là, giải quyết hồ bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. Đàm
phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biển chồng
lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa ta và các nước ASEAN. Đã ký với
Trung Quốc. Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
hợp tác về nghề cá.
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Lần đầu tiên trong
lịch sử, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở
Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999 ký thoả thuận
với Trung Quốc khung khổ quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác tòan diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt
Nam – Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa
Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật bản (năm 2002). Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới. Tháng 102007, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên không thường trực Hội đồng
Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009.
Bốn là, tham gia các tổ chức quốc tế. Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thê giới (WB), Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) Việt Nam đã tham gia Khu


vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu

(ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt Nam được kết nạp là thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiêp thu khoa học công nghệ và kỹ năng
quản lý. Về mở rộng thị trường : Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên
180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng qui chế tối huệ quốc ; thiết lập và ký
kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Hội nhập kinh tế quốc tế
đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên
bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác
với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản
xuất hiện đại.
Sáu là: từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào mơi trường cạnh
tranh. Trong q trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý,
nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát
triển. Tư duy làm ăn mới, láy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các doanh
nghiệp mới năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý đang hình thành. Những kết quả trên đây
có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngồi kết hợp với các nguồn lực
trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp, góp phần đưa đến những thành tựu to lớn. Góp phần
giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và
bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế
b. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc
tế cũng bộc lộ những hạn chế:
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây
dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước.
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hồn chỉnh, khơng đồng bộ, gây khó
khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý

cho việc thực hiện các cam kết.


- Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực
sản xuất cơng nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản
phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu
vực.
- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và
chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến năm 2008
mặc dù còn những hạn chế, nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa
đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh tế – xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới;
thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường quốc tế. Các thành
tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.


Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
(Trích bài viết của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đăng trên Tạp chí Cộng sản số
740, ngày 17/9/2005)
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công tác đối ngoại, mà trước hết là đổi mới về chính sách và
hoạt động đối ngoại là bộ phận rất quan trọng trong cơng cuộc đổi mới tồn diện. Tiến tới Đại
hội lần thứ X của Đảng, việc nghiên cứu, đánh giá và tổng kết quá trình đổi mới sẽ góp phần đưa
hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta lên tầm cao mới, đáp ứng những đòi hỏi của tình
hình hiện nay cũng như trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đổi mới chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại là một quá trình liên tục, xuyên suốt
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta đứng trước những khó khăn rất hiểm nghèo. Ở
trong nước, chúng ta phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài. Về

đối ngoại, chúng ta phải đương đầu với tình trạng bị cơ lập về chính trị, bị bao vây cấm vận về
kinh tế. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra như vũ bão,
xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa nổi lên, đặt ra những cơ hội và thách thức cho nhiều quốc
gia, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng, xuất phát từ tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đã phân tích và đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn của đất nước thơng
qua đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế. Về đối ngoại, Đại hội VI khẳng
định: "Trong những năm tới, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại".
Đổi mới về kinh tế nhanh chóng mở rộng sang các lĩnh vực khác, trong đó có đối ngoại. Tháng
5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 13 về "nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong
tình hình mới" với chủ đề "giữ vững hịa bình, phát triển kinh tế". Nghị quyết nhấn mạnh chính
sách "thêm bạn bớt thù", đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, cùng
có lợi. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989) ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ
cần chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị kinh tế. Những đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại trên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống,
đem lại kết quả bước đầu trong việc phá bỏ thế bao vây cấm vận.
Bước vào thập kỷ 90, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã đặt
chúng ta trước những thách thức mới rất cam go. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu trong việc
triển khai chính sách đối ngoại mới đã tạo tiền đề để Đảng ta đưa ra đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần "Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển".
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là "giữ vững
nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động,
linh hoạt phù hợp với vị trí và hồn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới
và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ".


Sau 10 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; thế và lực của ta
được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được cải thiện; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Tuy nhiên,

chúng ta cịn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là "Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm
xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt".
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hồn thiện đường lối
đối ngoại thơng qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển". Ngồi ra, Đại hội cịn
nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết
riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị
quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá tồn diện, sâu sắc cục
diện thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học
kinh nghiệm về đối ngoại; đồng thời nêu ra những phương hướng chủ yếu trong hoạt động đối
ngoại trong những năm tới với việc giữ vững môi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế xã hội, lợi ích cao nhất của đất nước. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định
hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian
tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực
của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt,
lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị - kinh tế lớn
trên thế giới.
Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với
tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng
được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Quan hệ với Cam-puchia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết
các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ
với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16
chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Lần đầu tiên
trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh
Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai
nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp

hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực,
góp phần vào việc củng cố đồn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội
khối, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống như
Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng


đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung,
đồn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động
khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu
cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và
tự quyết dân tộc. Mặc dù chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của các bên, song kim
ngạch buôn bán và đầu tư giữa ta và các nước này đã và đang có những phát triển tích cực.
Khơng những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với
các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước
đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Hoa Kỳ trên tinh
thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ tháng 6-2005 của Thủ
tướng Phan Văn Khải, hai nước đã xác lập khuôn khổ "quan hệ hữu nghị, đối tác xây dựng, hợp
tác nhiều mặt, ổn định, lâu dài trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi". Nước ta
tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân,
Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du
lịch, chuyển giao cơng nghệ. Các nước này hiện đã trở thành những đối tác và thị trường hàng
đầu của ta.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt
Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế
kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu
vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... Hiện nay, nước ta đang
đẩy mạnh đàm phán và xúc tiến việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong cơng cuộc phát triển đất nước thơng qua
việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định. Bằng những việc làm trực tiếp, cụ thể, hoạt động
đối ngoại đã phục vụ cho việc hoạch định chính sách kinh tế, đặc biệt là cơng tác nghiên cứu,
tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở rộng các thị trường buôn bán, lao
động, du lịch; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước
khác. Đến nay, chúng ta đã thu hút được tổng cộng 45 tỉ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Năm
2004, kim ngạch xuất khẩu đạt 26 tỉ USD. Giai đoạn 2001 -2005, viện trợ phát triển chính thức
dành cho ta đạt 13,3 tỉ USD.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các mối
quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trị và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức
quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Khơng liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước
có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh
tế - xã hội; nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời đóng góp
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới bảo vệ hịa bình, bảo vệ các ngun tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức, Đảng ta
khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi là một bộ phận khơng thể tách rời của
dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới cơng tác đối với người


Việt Nam ở nước ngoài đã được ban hành. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cụ thể theo
hướng xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện
cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của cơng dân Việt Nam ở nước ngồi, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
Những thành tựu to lớn về đối ngoại trong 20 năm qua cho phép chúng ta rút ra những bài
học chủ yếu sau:
Bài học quan trọng nhất là phải luôn phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đi
đơi với tăng cường đồn kết và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; xác định đúng, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu; có cách nhìn đúng đắn, linh hoạt về đối
tượng và đối tác trong bối cảnh mới.

Bài học về thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại: Điều này chỉ có thể có được bằng việc vận
dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mà nổi bật là
nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "thêm bạn bớt thù". Quá trình đổi mới tư duy phải ln
gắn chặt với hồn cảnh thực tế, u cầu nhiệm vụ cấp thiết của đất nước, trên quan điểm nhìn
nhận Việt Nam là một bộ phận của thế giới, có sự gắn bó, tác động qua lại mật thiết với thế giới
bên ngoài. Đổi mới tư duy đối ngoại thể hiện ở cách nhìn nhận, tiếp cận mới khi đánh giá, dự báo
tình hình thế giới, xu thế của thế giới, thời đại.
Bài học về công tác lý luận, nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình: Thực tiễn cho thấy phải
luôn luôn chú trọng công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình, tổng kết lý luận và thực
tiễn để kịp thời rút ra những bài học quý báu cho các giai đoạn tiếp theo của công tác đối ngoại.
Bài học về thống nhất đối ngoại: Phải khơng ngừng hồn thiện cơ chế thống nhất quản lý đối
ngoại nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của cả nước trong triển khai
chính sách và hoạt động đối ngoại.
Bài học về cơng tác cán bộ: Phải luôn quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao
vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ mới.
Tiếp tục đổi mới công tác đối ngoại trong tình hình mới
Những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
trong 20 năm qua cũng như những bài học kinh nghiệm tạo cơ sở để chúng ta cùng suy ngẫm
một số vấn đề về phương hướng công tác đối ngoại thời gian tới:
Một là, mục tiêu và lợi ích cao nhất của ta vẫn là giữ vững môi trường hịa bình và ổn định, bảo
vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc
đẩy phát triển kinh tế năng động, bền vững. Do vậy, cần tiếp tục hồn thiện và kiên trì theo đuổi
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động
hội nhập quốc tế. Theo đó, cần tích cực xây dựng và triển khai thực hiện các khuôn khổ quan hệ
ổn định, lâu dài hiện có với các đối tác theo đúng phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, làđối
tác tin cậy của các nước", đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích,
củng cố an ninh đất nước và tạo môi trường thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế.


Hai là, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cả song phương và đa phương, nhất là hướng tới gia

nhập WTO. Xây dựng, hoàn thiện chiến lược tổng thể và lộ trình cho từng giai đoạn về hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, làm cơ sở chủ động điều hành và thực hiện
có hiệu quả tiến trình hội nhập. Hồn thiện chính sách tranh thủ đầu tư, viện trợ phát triển, xúc
tiến thương mại, du lịch và hợp tác lao động với từng đối tác.
Ba là, tập trung nỗ lực tạo chuyển biến cơ bản trong công tác ngoại giao phục vụ kinh tế. Trọng
tâm là triển khai các nhiệm vụ đã được quy định trong Nghị định 08/CP, tập trung vào cơng tác
thơng tin và dự báo vĩ mơ, góp phần tạo môi trường và khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt
động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, hỗ trợ có hiệu quả các yêu
cầu của doanh nghiệp, địa phương trong kinh tế đối ngoại.
Bốn là, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các tổ chức quốc tế và khu vực,
trước hết với ASEAN, APEC, ASEM, Liên hợp quốc, WB, IMF, ADB và với các tổ chức phi
chính phủ, kết hợp hiệu quả của quan hệ song phương với quan hệ đa phương, đẩy mạnh hoạt
động và từng bước nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này. Tích cực tổ chức thành
cơng Hội nghị cấp cao APEC 14 tại Hà Nội năm 2006.
Năm là, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của ngoại giao nhân dân và các hình thức ngoại giao
phong phú khác cùng với ngoại giao của Đảng và Nhà nước tạo thành sức mạnh tổng hợp trên
mặt trận đối ngoại.
Sáu là, tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, mà trọng
tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới
chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê
hương, tham gia xây dựng đất nước; chú trọng hơn nữa công tác bảo hộ cơng dân; triển khai
nhiều biện pháp tích cực thực hiện chủ trương hòa hợp dân tộc, hướng tới tương lai.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm "Việt Nam
sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển" đã đem lại cho Việt Nam một tầm vóc mới và một vị thế mới. Chưa
bao giờ sự giao lưu giữa Việt Nam với các nước ở khắp các châu lục, ở tất cả các cấp và trên tất
cả các lĩnh vực lại diễn ra năng động như từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay. Sự tổng hòa
các mối quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng, khu vực, nước lớn, các trung tâm kinh tế
- chính trị, bạn gần, bạn xa, kết hợp giữa đa dạng hóa với xác lập và củng cố quan hệ với các đối

tác tin cậy, các thị trường chiến lược, đã tạo cho Việt Nam thế đối ngoại cân bằng, ổn định và
vững chắc, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo
vệ đất nước.
Những thành tích đối ngoại to lớn trên đây đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định bản lĩnh lãnh đạo của Đảng ta và khả năng của đất nước ta
vững vàng vượt qua mọi thử thách của thời gian và thời cuộc để vươn tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những thành tích đối ngoại ấy cùng với thành
tựu phát triển chung của đất nước đã tạo tiền đề thuận lợi và cần thiết để chúng ta phát huy hơn
nữa vai trị của đối ngoại trong bối cảnh tình hình mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ


quốc, tăng thêm thế và lực cho đất nước để nắm bắt vận hội mới, đồng thời đối phó với thách
thức mới.


Phân tích chính đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI TS. Nguyễn
Nam Dương Viện nghiên cứu Chiến lược ngoại giao

2.

III. Chính sách và quan hệ của Việt Nam với các đối tác chủ chốt II. Giải thích đường
lối CSĐN Việt Nam thời kỳ đổi mới I. Khái quát đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam thời
kỳ đổi mới Giải thích chính sách, quan hệ của Việt Nam với các đối tác, vấn đề chủ chốt trong
công tác đối ngoại hiện nay 2. Bố cục Áp dụng khuôn khổ lý thuyết giải thích đường lối, chính
sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới Mục đích và Bố cục bài giảng 1. Mục đích

3.


I. Khái quát đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới Nội dung: Mơ tả
q trình đổi mới chính sách đối ngoại Việt Nam từ giữa thập kỷ 80 đến nay và xác định các bộ
phận cấu thành đường lối, chính sách đối ngoại mới Đổi mới và đổi mới trong lĩnh vực đối
ngoại: - Đổi mới là gì? - Đổi mới kinh tế: cơ chế quan liêu bao cấp → cơ chế thị trường, mở cửa,
tham gia phân công lao động quốc tế. - Đổi mới chính trị: chuyên chính vô sản → dân chủ xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. - Đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại: - Mục tiêu đối
ngoại: ưu tiên an ninh → ưu tiên phát triển - Công cụ đối ngoại: ưu tiên quân sự → ưu tiên ngoại
giao

4.

I. Khái quát đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp) 1. Q trình
đổi mới chính sách đối ngoại Việt Nam a. Giai đoạn trước 1986 - Tiền thân của đổi mới: Miền
Bắc thời kỳ kháng chiến chống Mỹ; HNTW 6 (khóa IV) 8/1979. b. Giai đoạn 1986-1991 - Nghị
quyết 32 Bộ Chính Trị (7/1986): chuyển chiến lược, “cùng tồn tại hịa bình” - Nghị quyết Đại hội
VI (12/1986): Chính thức hóa NQ32; ưu tiên “xây dựng CNXH”; tham gia phân công lao động
quốc tế - Nghị quyết 13 Bộ Chính Trị (5/1988): Lợi ích dân tộc; đổi mới tư duy an ninh/phát
triển (an ninh chung); ưu tiên ngoại giao - Nghị quyết 8A Ban Chấp Hành Trung Ương (3/1990):
đổi mới tư duy về phe XHCN, “nghĩa vụ quốc tế” c. Giai đoạn 1991-1995 - Nghị quyết Đại hội
VII (6/1991): Cương lĩnh, Chiến lược phát triển 10 năm, đa phương hóa, đa dạng hóa - HNTW 3
(khóa VII) 6/1992: 4 phương châm, đa phương hóa, đa dạng hóa - Đại hội đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ (1/1994): 4 nguy cơ. d. Giai đoạn từ 1995 đến nay - Nghị quyết Đại hội VIII, IX,
X: Hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực… - HNTW 8 (khóa IX), 7/2003: an ninh tồn diện

5.

e. Giai đoạn 2011-2020 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội (2011) Báo cáo chính trị của BCHTW Khóa X trình Đại hội XI I. Khái quát đường
lối chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp)


6.

I. Khái quát đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp) 2. Các bộ
phận cấu thành đường lối, chính sách đối ngoại mới a. Mục tiêu: Hai mục tiêu chiến lược của
cách mạng Việt Nam: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Phát
triển: 1986-1995: Ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; 1996-2020: Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa - An ninh: Chuyển sang an ninh tồn diện. HNTW 8 (khóa IX) 7/2003: 6 mục tiêu an ninh.
Luật An ninh quốc gia 2004. - Ảnh hưởng: Nâng cao vị thế trên trường quốc tế Các nguy cơ và
thời cơ: Đại hội giữa nhiệm kỳ 1/1994: Bốn nguy cơ. b. Công cụ: - Ngoại giao: NQ 13 Bộ Chính
Trị - Kinh tế: Hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao phục vụ kinh tế - Qn sự: hiện đại hóa quốc
phịng, ngoại giao quốc phịng - Văn hóa: 2009 năm ngoại giao văn hóa c. Phương châm: HNTW 3 (khóa VII): 4 phương châm - HNTW 8 (khóa IX): đối tác và đối tượng

7.

I. Khái quát đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp) 3. Bộ máy
hoạch định và triển khai CSĐN Việt Nam - Đảng Cộng Sản Việt Nam: Đại hội đại biểu toàn


quốc, Ban Chấp Hành Trung Ương, Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư; Ban Đối Ngoại Trung ương, Ban
Tuyên giáo Trung ương… - Chính phủ: Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ Quốc Phịng, Bộ Cơng
An, Bộ Ngoại giao, Bộ Cơng Thương, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, các Sở ngoại vụ địa
phương… - Quốc Hội: Ủy ban đối ngoại Quốc hội… - Mặt trận tổ quốc: Liên hiệp hữu nghị… Doanh nghiệp - (…)
8.

II. Giải thích CSĐN Việt Nam thời kỳ đổi mới Nội dung: Áp dụng lý thuyết CSĐN để
giải thích sự chuyển đổi CSĐN Việt Nam vào giữa thập kỷ 80 và q trình chuyển đổi CSĐN từ
đó tới nay Câu hỏi nghiên cứu: Yếu tố nào gây ra sự chuyển hướng CSĐN Việt Nam thời kỳ đổi
mới? Phương pháp: Áp dụng 1 hoặc nhiều lý thuyết CSĐN, cấp độ phân tích và động lực thay
đổi + Bằng chứng thực nghiệm 1. Cấp hệ thống 2. Cấp quốc gia


9.

II. Giải thích CSĐN Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp) 1. Các yếu tố hệ thống: hệ quả đối
với CSĐN VN - Cơ cấu bất đối xứng Việt Nam – Trung Quốc (Brantly Womack), Việt Nam –
Mỹ, Việt Nam – Lào và Campuchia → ? - Cơ cấu đối xứng Việt Nam – ASEAN - Trật tự khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương: Lưỡng cực Trung – Mỹ? Nga, Nhật, Úc, Ấn Độ? - Liên kết
kinh tế, hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực: - Các cơ chế đa phương: ASEAN, ASEAN+, ARF,
EAS, APEC… - Các nguyên tắc và chuẩn mực của ASEAN:

10.

II. Giải thích CSĐN Việt Nam thời kỳ đổi mới (tiếp) 2. Các yếu tố quốc nội: Hệ quả đối
với CSĐN VN - Đổi mới kinh tế: Kinh tế thị trường, mở cửa → ? - Đổi mới chính trị: Đổi mới
hệ thống chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền → ? - Tư tưởng Hồ Chí
Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại: Đại hội VII → ? - Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH 1991: ý tưởng CNXH nhân văn, phồn vinh, đậm đà bản sắc dân
tộc; mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” →? - Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa: xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thu ật cho CNXH → ? - (…)

11.

III. Phân tích chính sách và quan hệ của Việt Nam với các đối tác chủ chốt Nội dung: Từ
việc phân tích đường lối, CSĐN tổng thể nói trên, tiếp tục áp dụng lý thuyết để phân tích chính
sách và quan hệ của Việt Nam với các đối tác chủ chốt. Lưu ý: Khi phân tích quan hệ của Việt
Nam với một đối tác, cần lưu ý phân tích: - Chính sách của Việt Nam đối với đối tác - Chính
sách của đối tác đối với Việt Nam - Môi trường quốc tế

12.


Can dự Cân bằng, phù suy, phù thịnh Trung lập Nhất biên đảo Các lựa chọn chính
sách của VN: Mỹ: “Benign neglect”; “Mặt trận thứ hai”; Tái can dự… Trung Quốc: “Phát triển
hịa bình”, “Châu Á hài hịa”, láng giềng thân thi ện… Chính sách của TQ và Mỹ đối với Đông
Nam Á và VN: Môi trường quốc tế Liên kết kinh tế Hệ tư tưởng, văn hóa Địa lý So sánh
lực lượng Các động lực chi phối: III. Phân tích chính sách và quan hệ của Việt Nam với các đối
tác chủ chốt (tiếp) 1. Chính sách và quan hệ của Việt Nam đối với Trung Quốc và Mỹ

13.

Các lựa chọn chính sách của VN: Chính sách của các nước ASEAN đối với VN: Các
động lực chi phối: III. Phân tích chính sách và quan hệ của Việt Nam với các đối tác chủ chốt
(tiếp) 2. Chính sách và quan hệ của Việt Nam đối với ASEAN và các nước Đông Nam Á

14.

Các lựa chọn chính sách của VN: Chính sách của các đối tác đối với VN: Các động lực
chi phối: III. Phân tích chính sách và quan hệ của Việt Nam với các đối tác chủ chốt (tiếp) 3.
Chính sách và quan hệ của Việt Nam đối với Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc

15.

Cảm ơn!


Đường lối đối ngoại của Đảng
CHƯƠNG 1:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG THỜI KÌ TRƯỚC ĐỔI MỚI
(1975 – 1986)
1.1 Hồn cảnh lịch sử
1.1.1 Tình hình trong nước

Năm 1975 nước ta hồn tồn giải phóng, tổ quốc hịa bình, thống nhất cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây cũng chính là thuận lợi cơ
bản của nước ta. Nhưng ngoài những mặt thuận lợi trên thì nước ta cũng đã gặp vơ vàn khó khăn
trong thời kì này. Chiến tranh vừa kết thúc thì nước ta phải tập trung vào cơng cuộc khắc phục
hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh, thì lại xảy ra hai cuộc chiến là chiến tranh biên giới
Tây Nam với Campuchia, và cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Hai cuộc chiến này
đã làm suy giảm tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm
mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3-1982) nhận định “Nước ta đang ở trong
tình thế vừa có hịa bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Mặt
khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian
ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội.
1..1.2 Tình hình thế giới:
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên
trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục
diện hịa hỗn của các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông
Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển
mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng;
phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát
triển mạnh. Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa
xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những mâu
thuẫn bất đồng. Tình hình Đơng Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ
đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan rã; ngày 24 – 2 – 1976, các nước
ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục
diện hịa bình hợp tác trong khu vực.
1.2 Chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại
là “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc

phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nướ ta”.
Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đồn kết
chiến đấu và quan hệ và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát
triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ


hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa
Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tơn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng ta đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như:
Chú trọng củng cố tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xơ, coi quan hệ với Liên Xơ là hịn
đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ
đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp
phần xây dựng khu vực Đơng Nam Á hịa bình tự do, trung lập ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại. Tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V (3-1982), Đảng ta xác định:
Cơng tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất
bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta. Về quan hệ
với các nước, Đảng tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ; xác định quan
hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc;
kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải
quyết các trở ngại giữa hai bên; chủ trương khơi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên
cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường
về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Trên thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986) là xây dựng mối quan hệ hợp tác tồn diện
với Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và
Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và không phát triển; đấu
tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch.
1.3 Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ
nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô.
Thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, từ năm 1975

đến năm 1977, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước.
Về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo
thuân lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đơng
Nam Á trở thành khu vực hịa bình hữu nghị và hợp tác.
Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986,
quan hệ quốc tế của Việt Nam cũng gặp những trở ngại lớn. Từ những năm cuối của thập kỉ 70,
nước ta bị bao vây, cấm vận vế kinh tế, cơ lập về chính trị, vừa phải đương đầu với “một kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch. Những hạn chế của đối ngoại Việt Nam
giai đoạn này suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản được Đại hội Đảng lần thứ VI
chỉ ra “là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản; nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan”.
CHƯƠNG 2
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG THỜI KÌ ĐỔI
MỚI (1986 ĐẾN NAY)
2.1 Hồn cảnh lịch sử
Tình hình nước ta và thế giới thời kì đổi mới:


Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa hộc công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông
tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia dân tộc.
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được
hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ
đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra hình thành một trật tự thế giới mới. Trong thời kỳ
này, những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế của thế giới là
hịa bình hợp tác và phát triển.Trước diễn biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, các tổ
chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương
thức hành động cho phù hợp với nhu cầu nhiệm vụ bên trong và xu hướng phát triển của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới
tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và

tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghê, mở
rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước cũng đổi
mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào
sức mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và khoa học cơng nghệ
được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Xu thế tồn cầu hóa và tác động của nó: Dưới góc độ kinh
tế, tồn cầu hóa là q trình lực lượng sản suất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các
rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, vốn,
tiền tệ, thơng tin, lao động… vận động thơng thống; sự phân cơng lao động mang tính quốc tế.
Những tác động tích cực của tồn cầu hóa là: Trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng
hóa tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất nhà nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên hợp tác.
Mặt khác tồn cầu hóa làm tăng tính tùy thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia,
thuận lợi cho việc xây dựng mơi trường hịa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nuớc Những tác
động tiêu cực của tồn cầu hóa là: Xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng,
chi phối q trình tồn cầu hóa tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm tăng sự phân
cực giữa nước giàu và nước nghèo. Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Tồn cầu hóa kinh tế là một
xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thẫn,
vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.” Thực tế cho thấy
rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ
động tham gia vào q trình tồn cầu hóa, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn
trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Từ thập kỷ 90, tình
hình khu vực có những chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực vẫn tồn tại những bất ổn, như
vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các nước tăng cường
vũ trang, nhưng Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, Châu
Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hịa bình và hợp
tác trong khu vực phát triển mạnh.
Tại Việt Nam Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nữa
cuối thập kỷ 70 tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn, cản
trở cho sự phát triển của các mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu,

thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và
cấp bách đối với nước ta. Ở trong nước, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm
chủ quan khác, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, Nguy cơ tụt hậu xa


hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức
lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt để thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các
nguồn lực trong nước; còn phải tranh thủ các nguồn lực bên ngồi, trong đó hợp tác kinh tế với
các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
2.2 Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại
Thời kỳ đổi mới của Đảng ta được đánh dấu bởi các mốc lớn như sau:
- Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc khởi đầu của quá
trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết nhận định rằng,
tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cơ lập về chính trị sẽ thành nguy cơ
lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra sức tranh thủ các nước anh em,
bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu cô
lập ta về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu
tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hịa bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
- kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong
phân công lao động quốc tế.
- Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 8-1989) và Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt
trong quá trình đổi mới" và các nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước
tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của
chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập trung đánh giá tình hình thế giới
liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra
các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với
nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công
tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách
đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi,
bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa
dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối
ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII
(tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển".
- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn
bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển".
- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về đối ngoại,


đặc biệt là ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối
tượng, đối tác. Cần nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực
hiện tối đa lợi ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta
là điều vô cùng quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của
quốc gia", "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc". Hội nghị cũng đã nhấn mạnh
cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh

thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta", làm cơ
sở mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ
quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực".
2.3 Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại:
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam diễn ra cùng
một lúc trên 4 mặt :
- Một là, tạo dựng và củng cố mơi trường hịa bình, ổn định cho cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là quan hệ với các
nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện
nhiệm vụ quan trọng này. Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn
đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đồng thời triển khai mạnh mẽ các
hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN, chủ động tham gia các hoạt
động của Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam chính thức tham gia ASEAN. Việc Việt Nam gia nhập
ASEAN là một quyết định đúng đắn và kịp thời. Cùng với việc giải quyết hịa bình vấn đề
Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính
quốc tế, ký Hiệp định khung với với Liên minh châu Âu, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Mỹ, củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc và
các nước đang phát triển ở châu á, Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh và các nước công nghiệp
phát triển trên thế giới. Việt Nam gia nhập ASEAN góp phần phá thế bị bao vây, cơ lập, tạo ra
mơi trường hịa bình, ổn định và thuận lợi hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa Việt Nam
hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế. Mặt khác, để góp phần bảo đảm an ninh và ổn định
cho đất nước, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã góp phần chủ động và tích cực giải quyết
những vấn đề tồn tại với các nước láng giềng và các nước ở khu vực như đàm phán và ký Hiệp
định biên giới với Lào, thỏa thuận về khai thác chung với Ma-lai-xi-a trên vùng chồng lấn, phân
định vùng chồng lấn với Thái Lan, đàm phán và ký Hiệp định về biên giới trên bộ với Trung

Quốc và đang đàm phán để có thể ký Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc trong
năm 2000, tiếp tục đàm phán với In-đô-nê-xi-a về phân định thềm lục địa, tiếp tục đàm phán với
Campuchia để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về biên giới lãnh thổ. Hoạt động đối ngoại
cũng đã góp phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và hành động lợi dụng chiêu bài "nhân
quyền", "dân chủ" và "tự do tín ngưỡng" để can thiệp vào cơng việc nội bộ Việt Nam. Tồn bộ


các hoạt động trên đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc tạo dựng môi trường khu vực
tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hai là, ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào cơng cuộc phát
triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam
thời kỳ đổi mới. Nhờ những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại chính sách bao
vây cấm vận của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy quan hệ kinh tế
thương mại song phương với hơn 130 nước và lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư trên 36 tỷ USD
của hơn 60 nước và lãnh thổ, tranh thủ hơn 13 tỷ USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của
các chính phủ và các tổ chức quốc tế và hàng tỷ USD viện trợ khơng hồn lại của nhiều chính
phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo
dựng mơi trường quốc tế hịa bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công
nghệ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết thực cho
yêu cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, lực lượng
sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh xu thế tồn cầu hóa. Trong bối cảnh
đó, các nước đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong phân công lao động quốc
tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý để phát triển, đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình.
Nhận rõ xu thế đó, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới". Từ đầu những năm 90 Việt Nam đã khai thơng quan hệ với các tổ
chức tài chính quốc tế, tiếp đó năm 1995 chính thức gia nhập ASEAN và tham gia AFTA. Năm
1996 Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập và
năm 1998 trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình

Dương (APEC). Việt Nam cũng đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại với Mỹ và đang đàm
phán về việc gia nhập WTO, mức hội nhập cao nhất, rộng nhất, có ý nghĩa quan trọng đối với
việc thiết lập môi trường buôn bán và quan hệ hợp tác kinh tế với toàn bộ thế giới.
- Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167
nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các
nước lớn, các ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Trong điều kiện quốc tế
ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng
giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế giới. Việt Nam
đã hoạt động tích cực với vai trị ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên
Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong
trào Khơng liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN; Việt Nam tổ chức
thành công Hội nghị cấp cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997 và đặc biệt là
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 năm 1998 đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín và vị thế
của đất nước. Có thể nói ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời
đổi mới. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng cố và nâng cao vị thế
quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ
độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dưng đất nước.
- Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối ngoại phong phú, đa dạng cả
theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng
cố quan hệ đồn kết hữu nghị với các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công


×