Rủi ro trong NHTM luôn tiềm ẩn lớn gây ra những tổn thất xảy ra ngoài ý
muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vậy
nguyên nhân chính nào dẫn đến rủi ro?
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào trong
nền kinh tế thị trường đều gặp rủi ro.
Đặc biệt hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh
doanh nhạy cảm càng không tránh được
những rủi ro. Hơn thế nữa, rủi ro luôn
tiềm ẩn lớn gây ra những tổn thất xảy ra
ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Vậy nguyên nhân chính nào dẫn đến rủi
ro
Điều quan trọng một ngân hàng là có thể đo lường mức độ rủi ro để từ
đó đề ra các phương pháp để thực hiện được khoảng lợi nhuận khả
quan hơn trong kỳ tới với
những thách thức của các nhân
tố bên ngoài lẫn bên trong làm
ảnh hưởng tới lợi nhuận nhtm
Đồng thời giới thiệu kiến thức cơ
bản về phương pháp phân tích
lợi nhuận và rủi ro của ngân
hàng, bằng cách vận dung các tỷ
số đo lường lợi nhuận và rủi ro
trong họat động của ngân hàng.
Bên cạnh đó cho thấy sự đánh
đổi giữa lợi nhuận và rủi ro ,
nghĩa là lợi nhuận càng cao thì
rủi ro càng cao và ngược lại.
I : GIỚI THIỆU:
1.1: Tổng Quan Ngân Hàng Thương Mại ( NHTM ):
Ngân hàng thương mại : hình thành xuất phát từ vận động của tư bản
thương nghiệp,và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương
nghiệp : chủ yếu cho các nhà buôn vay với hình thức chiết khấu thương
phiếu.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ngân hàng
thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính
và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính
Chức năng là TRUNG GIAN :
- Chức năng trung gian tín dụng:Chức năng trung gian tín dụng được
xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện
chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người
thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương
mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và
hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho
vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay
- Chức năng trung gian thanh toán:Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ
cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh
toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều
phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh
toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách
hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh
toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế
không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để
gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng
một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ
thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh
toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa,
đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát
triển kinh tế.
- Chức năng tạo tiền:Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ
bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một
yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp
vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức
năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở
hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh
toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn
huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng
để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,
được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này,
hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
2.1 : Một số khái quát về đo lường lợi nhuận và rủi ro :
Nhiều ngân hàng sẽ phải quản trị và chấp nhận rủi ro cao để có thể đạt được
lợi nhuận hợp lý. Điều quan trọng một ngân hàng có thể đo lường rủi ro để
thực hiện lợi nhuận khả quan hơn trong kỳ tới với những thách thức của các
nhân tố bên ngoài và sự điều chỉnh các luật lệ. Hoạt động của một ngân hàng
sẽ ảnh hưởng đến giá trị của nó trên thị trường, năng lực của nó sẽ thôn tính
ngân hàng khác hoặc là bị thôn tính với giá tốt, và năng lực sẽ tạo nên trong
thị trường tài chính. Mặc dù ngân hàng không thể thay đổi kết quả hoạt động
đã qua, nhưng qua đánh giá kết quả hoạt động này là bước đầu tiên cần thiết
cho việc lập kế hoạch hoạt động trong tương lai.
Bằng cách vận dung các tỷ số đo lường lợi nhuận và rủi ro trong doanh
nghiệp vào phân tích lợi nhuận và rủi ro trong họat động của ngân hàng.
Đồng thời cho thấy sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro , nghĩa là lợi nhuận
càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.
3.1 : Các tỷ số đo lường lợi nhuận và rủi ro :
Tỷ số đo lường lợi nhuận Mục
tiêu
Thực hiện
năm trước
Nhấn mạnh
thanh khoản
Lãi suất cận biên 4,00% 3,59% 3,92%
Hệ số sinh lợi (LN biên tế) 11,00% 11,68% 11,56%
Hệ số sử dụng tài sản 9,00% 6,95% 6,74%
Thu nhập trên tài sản ( ROA) 1,00% 0,81% 0,78%
Hệ số vốn CSH 14 lần 14,29 lần 13,88 lần
Thu nhập trên vốn CSH( ROE) 14,00% 11,60% 10,81%
Tỷ số đo lường rủi ro
Rủi ro thanh khoản 23,00% 16,67% 25,60%
Rủi ro lãi suất 1,00 0,87 0,96%
Rủi ro tín dụng 20,00% 20.00% 18,02%
Rủi ro vốn 10,00% 9,33% 10,67%
Trong khi các tỉ số lợi nhuận - rủi ro của ngân hàng được sử dung để đánh
giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những lãnh vực quan tâm lớn
nhất thì phương pháp đo lường bổ sung hoạt động của ngân hàng có thể
được sử dụng để làm rõ từng điểm mạnh - yếu của ngân hàng. Điều bao hàm
ở đây tại thời điểm phân tích loại đo lường bổ sung nào của ngân hàng có
thể sử dụng. Xu hướng, mục đích và số liệu của các ngân hàng cùng nhóm là
cơ sở cho sự đánh giá như các tỉ số bổ sung.
- Bốn loại đầu tiên của sự đo lường bổ sung là rất hữu ích cụ thể cho việc
hiểu một cách chi tiết các yếu tố thuộc về tỉ suất lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận trên tài sản.
+ Thứ nhất là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi loại tài sản sinh lợi
+ Thứ hai xem xét nguồn thu nhập ngoài lãi suất để xác định hiệu quả hoạt
động của ngân hàng từ các nguồn thu nhập ngòai lãi suất.
+ Hai loại khác là chi phí lãi suất của ngân hàng về các nguồn vốn huy
động được và những chi phí khác để thực hiện hoạt động của ngân hàng như
chi phí lương, chi phí quản lý..
+ Cơ cấu nguồn vốn và tài sản của ngân hàng thường cung cấp thông tin bổ
sung cho các tỷ số lợi nhuận và rủi ro. Phân tích cơ cấu này trong sự liên hệ
với lợi tức trên tài sản và chi phí của các nguồn vốn thường chứng minh có
ích.- Xác định tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của một số khoản mục được chọn
cung cấp hữu ích cho cả lợi nhuận và rủi ro.
4.1: Đo lường lợi nhuận và rủi ro NHTM
Đánh giá rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nên được so sánh với những
ngân hàng tương tự. Nói một cách tổng quát, lợi nhuận càng cao thì rủi ro
càng cao. Ngân hàng cố gắng tối đa hóa giá trị đầu tư của vốn chủ sở hữu
trong ngân hàng bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Căn cứ vào những hoạt động NH có thể huy động nguồn quỹ trong 5 cách
sau đây:
+ Tiền gởi không kỳ hạn
+ Tiền gởi có kỳ hạn: 3 tháng, 6 tháng . . .
+ Vay mượn từ các nguồn khác
+ Vốn CSH, vốn đầu tư của các CSH
+ Thu nhập chưa phân phối.
Tương tự, với nguồn quỹ có được ngoài mua sắm máy móc thiết bị, và
tiền để tại quỹ, ngân hàng sẽ sử dụng nguồn quỹ còn lại theo 5 cách sau đây:
+ Đầu tư chứng khoán ngắn hạn < 3tháng.
+ Đầu tư chứng khoán dài hạn > 3 tháng.
+ Cho vay ngắn hạn chất lượng cao, và lãi suất thay đổi. Chất lượng
cao có nghĩa là khỏan cho vay này được phân lọai không rủi ro.
+ Cho vay trung hạn chất lượng trung bình, và lãi suất thay đổi. Chất
lượng trung bình có nghĩa là khoản cho vay này được phân lọai có thể bị rủi
ro.
+ Cho vay dài hạn chất lượng cao, và lãi suất không đổi. Chất lượng
cao có nghĩa là khoản cho vay này được phân loại không rủi ro
5.1 : Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro:
Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro là những rủi ro nào phải chấp nhận để
có được lợi nhuận một cách thích đáng, mà là bao nhiêu rủi ro và lợi nhuận.
Vấn đề cơ bản ở đây là quản trị ngân hàng nên cố gắng tối đa hóa giá trị vốn
đầu tư của chủ đầu tư ngân hàng. Tối đa hóa giá trị này bao gồm cả hai, lợi
nhuận và rủi ro và sự cân bằng giữa hai.
Các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận khác nhau không chỉ bao gồm ROA và
ROE, mà còn định bởi thời gian của lợi nhuận và viễn cảnh lợi nhuận trong
tương lai.
- Chất lượng hoặc rủi ro của lợi nhuận có liên quan đến số lượng
- Thời gian và lợi nhuận trong tương lai. Lợi nhuận có thể tăng nhanh bằng
cách chấp nhận rủi ro hoạt động và tài chính nhiều hơn
+ Thời gian của lợi nhuận và viễn tưởng lại bị ảnh hưởng bởi rủi ro hoạt
động và rủi rủi ro tài chính.
+ Rủi ro môi trường nó không làm gia tăng lợi nhuận một cách cụ thể nhưng
cung cấp như 1 hạn chế trên chu kỳ và quyết định rủi ro.
- Sự quản trị của những ngân hàng lớn hơn hoặc những ngân hàng có nắm
giữ nhiều công ty, cổ phần của chúng bán trên thị trường rất cao giá trị nên
dùng giá thị trường đối với các chi phí thông thường của ngân hàng như là
một hướng dẫn để cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
+ Ngân hàng nên chấp nhận thêm rủi ro nếu giá trị thị trường tăng. Bởi vì sự
tăng trong lợi nhuận lớn hơn sự bù đắp phần giảm lợi nhuận nhiều lần kết
quả từ sự chấp nhận rủi ro cao hơn.
Đánh giá rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nên được so sánh với những
ngân hàng tương tự. Nói một cách tổng quát, lợi nhuận càng cao thì rủi ro
càng cao. Ngân hàng cố gắng tối đa hóa giá trị đầu tư của vốn chủ sở hữu
trong ngân hàng bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
II: Thực Trạng Hoạt Động Của NHTM
2.1: Thực trạng lợi nhuận :
1. Huy động vốn:
Huy động vốn, được coi là hoạt động cơ bản, có tính chất sống còn đối
với bất kì NHTM nào
Trong đó vốn tự có của các NHTM tham gia vào nguồn vốn cho vay chỉ
chiếm tỉ lệ nhỏ, mà nguồn vốn chủ yếu để cấp tín dụng vào nền kinh tế là
nguồn vốn huy động, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn. Việc huy
động được nhiều vốn vừa đem lại lợi nhuận, vừa mở rộng hoạt động của
Ngân hàng. Vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của NHTM.
Bằng các hình thức sau đây:
• Nhận tiền gửi: Nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu
của NHTM, bao gồm:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức.
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn của các cá nhân.
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi tiết kiệm) của các cá
nhân tổ chức đoàn thể xã hội.
- Nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
• Phát hành giấy tờ có giá: NHTM được quyền phát hành giấy tờ
có giá (kỳ phiếu NH, trái phiếu NH….) để huy động vốn có kỳ
hạn và mục đích sử dụng.
• Các hình thức huy động vốn khác như vay vốn ở các NHTM
khác, vay vốn tại NH nhà nước…
• Huy động vốn thông qua việc bán các khoản cho vay.
2. Huy động tín dụng:
Huy động tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh
tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một
khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này
mà nền kinh tế sẽ phát triễn nhanh hơn, bền vững
Hoạt động tín dụng của NHTM gồm:
• Cho vay (cho vay ngắn hạn, trung hạn, cho vay lãi hạn…)
• Chiết khấu chứng từ có giá (cho vay gián tiếp)
• Cho thuê tài chính
• Bảo lãnh ngân hàng (tín dụng bằng chữ ký)
• Các hình thức khác (thấu chi, trả góp…)
3. Hoạt động dịch vụ thanh toán:
Đây là hoạt động quan trọng và có tính đặc thù của NHTM, nhờ hoạt
động này mà các giao dịch thanh toán của toàn bộ nền kinh tế được thực
hiện thông suốt và thuận lợi, đồng thời thông qua hoạt động này mà góp
phần làm giảm lượng tiền mặt trong lưu hành nền kinh tế. Hoạt động dịch
vụ thanh toán gồm:
• Mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng là pháp nhân, hoặc thế
nhân trong và ngoài nước.
• Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng.
• Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế.
• Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ.
• Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác.
• Tham gia hệ thống thanh toán bù trừ trong nước, và hệ thống thanh
toán quốc tế khi được phép.
4. Đầu tư tài chính:
Cho vay các khoản vay kinh doanh ngắn hạn
• Cho vay mua hàng dự trữ.
• Cho vay vốn lưu động.
• Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
• Cho vay kinh doanh chứng khoán.
• Cho vay kinh doanh bán lẻ.
• Cho vay trên tài sản (cho vay đối với các khoản phải thu, bao thanh
toán và cho vay trên cơ sở hàng dự trữ).
Cho vay các khoản vay kinh doanh dài hạn
• Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
• Cho vay luân chuyển.
• Cho vay theo dự án.
• Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
5.Sử dụng vốn:
• Sử dụng vốn là toàn bộ vốn mà ngân hàng đem cho vay và đầu tư
trong kế hoạch cụ thể như: Số dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn ,
dài hạn, cho vay khác và các nghiệp vụ đầu tư cho các nghiệp vụ
kinh doanh chính của ngân hàng
• Việc dự báo về sử dụng vốn của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn
đến kế hoạch kinh doanh và hiệu quả của ngân hàng.Việc dự báo
nhu cầu sử dụng vốn cho vay và đầu tư của các ngân hàng dựa vào
các yếu tố:
• Tăng trưởng GDP dự kiến
• Lợi nhuận dự kiến của các doanh nghiệp
• Chính sách cung ứng tiền NHTW
• Tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế
• Tỷ lệ lạm phát dự tính trong tương lai
• Số dư nợ cho vay hiện tại các ngân hàng
• Tình hình kinh tế trên địa bàn
• Khả năng tiêu dung cá nhân
• Các sản phẩm cung cấp vốn thay thế trong ngân hàng
2.2: Thực trạng rủi ro :
Rủi ro tín dung :
Một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại là hoạt động
cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các
ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả vì
nếu ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì
ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh
khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận
của ngân hàng, thậm chí phá sản. Vì thế bộ phận quản lý tín dụng và quản trị
rủi ro là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của bất kỳ ngân
hàng thương mại nào.
Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như thiếu tiền chi trả cho khách hàng, vì phần lớn nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng là nguồn vốn huy động, khi ngân hàng không thu hồi được nợ
gốc và lãi trong cho vay thì khả năng thanh toán của ngân hàng dần dần lâm
vào tình trạng thiếu hụt.
Như vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thanh
toán, làm cho ngân hàng lỗ và có nguy cơ bị phá sản.
Tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay và cho
thuê
Tỷ số giữa các khoản xóa nợ ròng so với tổng cho vay và cho thuê.
Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng số cho
vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hửu