Chuyên đề tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP.
Tên đề tài: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Tam sơn.
Giáo viên hướng dẫn: TS Nguyễn Hoàng Việt.
Sinh viên thực hiện: Mai Văn Nghiêm.
Lớp: K40 – DQ1.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
1
Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1 :
LỜI MỞ ĐẦU 5
Chương 1 8
Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 8
của doanh nghiệp 8
I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp 8
1. Khái niệm về cạnh tranh: 8
2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 10
2.1. Thị trường cạnh tranh 10
2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo 10
2.1.2.Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo 10
2.2.Cạnh tranh của doanh nghiệp 12
2.2.1.Cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào 12
2.2.2.Cạnh tranh trong quá trình sản xuất 13
2.2.3.Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa dịch vụ 14
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp 14
II. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 16
1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của
năng lực cạnh tranh 16
1.1 Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia 17
1.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa 18
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 18
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 19
2.1 Nhân tố giá cả hàng hóa, dịch vụ 19
2.2 Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm 19
2.3 Chất lượng hàng hóa dịch vụ 20
2.4 Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hóa dịch vụ 21
2.5 Nhân tố thời gian 21
2.6 Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp 22
2.7 Uy tín doanh nghiệp 22
3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh 23
III.Sự cần thiết của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nam Cường 24
1. Những cơ hội và thách thức 24
1.1.Cơ hội: 24
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
2
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1. Thị trường thế giới 24
1.1.2 Thị trường trong nước 24
1.2.Thách thức 25
2.Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh 27
2.1.Đối với ngành hàng điezel nói chung 27
2.2.Đối với công ty XNK Nam Cường nói riêng 27
Chương 2:Cơ sở thực tiễn về thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty,phân
tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty XNK Nam Cường 28
I.Giới thiệu về công ty và khái quát về thị trường 28
1.Quá trình hình thành và phát triển 28
1.1.Đặc điểm chung của công ty TNHH Nam Cường 28
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển 29
2.Khái quát về thị trường động cơ diezel 31
2.1.Tình hình miền Bắc 31
2.1.1.Nhu cầu sử dụng các loại hình sản phẩm của công ty 31
2.1.2.Tình hình sản xuất trong nước 31
2.2 Miền Trung và Miền Nam 31
2.3. Nguồn nguyên liệu 32
3.Mục tiêu và triết lý kinh doanh của công ty 33
3.1.Mục tiêu của công ty 33
3.2.Triết lý kinh doanh 34
3.3.Cam kết với khách hàng 34
3.4.Chính sách sản phẩm mới 34
3.5.Chính sách nâng cao năng lực sử dụng sản phẩm cho khách hàng 34
4.Sản phẩm và thị trường 34
4.1.Sản phẩm 34
4.2.Thị trường 36
5.Mạng lưới phân phối 36
II.Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty 37
1.Phân tích một số chỉ tiêu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công
ty 37
1.1.Nhân tố giá cả 37
1.2.Sản phẩm và cơ cấu 38
1.3.Chất lượng sản phẩm 39
1.4.Phân phối 39
1.5 Hoạt động bán hàng, marketing 40
2.Các biện pháp công ty đang thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh.
40
2.1.Những mặt tích cực đã đạt được 40
2.2.Những mặt hạn chế còn tồn tại 41
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
Nam Cường 44
I.Mục tiêu,định hướng của công ty cho đến năm 2020 44
1.Định hướng phát triển của ngành 45
1.1.Quan điểm phát triển 45
1.2.Mục tiêu của quy hoạch 45
2.Đinh hướng phát triển của công ty 45
2.1.Kế hoạch sản xuất, kinh doanh 45
2.1.1. Phướng án kinh doanh 45
2.2 . Các biện pháp thực hiện kế hoạch 46
2.2.1. Chiến lược sản phẩm và thị trường 46
2.2.2. Chiến lược Marketting 46
2.2.3. Chính sách quản lý chất lượng 47
2.2.4.Chính sách đối với các yếu tố đầu vào 48
2.2.5 Chính sách đối với người lao động 48
II.Một số biện pháp đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
XNK Nam Cường 49
1.Về phía Nhà Nước:Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển
ngành hàng 49
1.1.Về thị trường 49
1.2.Về đầu tư 49
1.3.Về nghiên cứu khoa học,chuyển giao công nghệ 50
1.4.Phát triển nguồn nhân lực: 50
1.5.Huy động vốn 50
2.Về phía doanh nghiệp: 50
2.1.Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp 50
2.2.Phát huy nhân tố con người 52
2.3.Đầu tư hợp lý cho công nghệ 54
2.4.Giải pháp xây dựng thương hiệu và văn hóa kinh doanh 55
Kết Luận 56
Tài liệu tham khảo 57
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
4
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh đóng vai trò vô cùng quan
trọng và được coi là động lực của sự phát triển của mỗi doanh nghiệp nói
riêng và của nền kinh tế nói chung. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát
triển của mọi thành phần kinh tế, góp phần xóa bỏ những độc quyền, bất hợp
lý, bất bình đẳng trong kinh doanh. Kết quả của quá trình cạnh tranh sẽ quyết
định doanh nghiệp nào tiếp tục tồn tại và phát triển còn doanh nghiệp nào sẽ
bị phá sản và giải thể. Do đó, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đã trở thành một vấn đề quan trọng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng
phải quan tâm.
Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Tam sơn là một doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh các loại vật liệu xây dưng hoàn thiện khá thành công trên thị
trường Hà nội và các tỉnh lân cận. Doanh thu và số lượng nhân viên của công
ty không ngừng tăng lên theo các năm .
Tuy nhiên, trên thị trường đang ngày càng xuất hiện nhiều những doanh
nghiệp cạnh tranh vớI doanh nghiệp Tam sơn.Do đó việc nghiên cứu các giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh là vô cùng cần thiết.
2.Mục đích nghiên cứu.
Chuyên đề này không chỉ làm sáng tỏ các lý luận về cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh mà đi kèm là những phân tích đánh giá, đưa ra đề xuất các giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của công ty
Cổ phần Đầu tư và xây dựng Tam sơn.
3.Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là năng lực cạnh tranh của Công ty cổ
phần đầu tư và xây dựng Tam sơn trên địa bàn Hà Nội và các vùng lân cận.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Chuyên đề này được làm theo nhiều phương pháp : Phân tích tổng hợp,
phương pháp diễn giải quy nạp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp
lozic.
4.Bố cục của chuyên đề
Bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản về nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2:Cơ sở thực tiễn về thực trạng năng lực cạnh tranh của công
ty,phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty C ổ ph ần đ ầu .
Chương 3: Các kết luận và đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần in và thương mại Thống Nhất.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1:Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
Chương 2:Cơ sở thực tiễn về thực trạng năng lực cạnh tranh của công
ty,phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty XNK Nam Cường.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty Nam Cường.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1
Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp
I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
1. Khái niệm về cạnh tranh:
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi
phối hoạt động của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh
tranh. Trong nền kinh tế thị trường mọi cá nhân được tự do kinh doanh, đây
chính là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường rất đa dạng
và phức tạp giữa các chủ thể có lợi ích đối lập nhau chẳng hạn như cạnh tranh
giữa những người mua, giữa những người bán, giữa những người bán với
người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh nghiệp nội địa với doanh
nghiệp nước ngoài….Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được miêu tả là quá trình
đương đầu của các quốc gia này với quốc gia khác.
Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh được
chia thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.
Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu được lợi nhuận lớn và có tỳ suất lợi nhuận
cao hơn so với số vốn đã bỏ ra, cùng với đó là việc đầu tư vốn vào ngành có
lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các
doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển
vốn đầu tư sang ngành có lợi nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình
thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành khác nhau và giúp cho các
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
8
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có số vốn bằng nhau thì thu được lợi
nhuận ngang nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hóa-dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong
nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trường trên cơ sở giá trị xã
hội của loại hàng hóa dịch vụ đó. Những doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh
tranh sẽ mở rộng quy mô hoạt động của mình trên thị trường, ngược lại những
doanh nghiệp kém lợi thế trong cạnh tranh sẽ phải thu hẹp phạm vi kinh
doanh, thậm chí còn có thể bị giải thể, phá sản.
Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã
đưa ra khái niệm: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch”. Như vậy, khi nghiên cứu cạnh
tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Mark đã coi cạnh tranh là cuộc
giành giật các lợi thế để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Tuy nhiên, cũng trong
nền kinh tế TBCN, cuốn sách “Từ điển kinh doanh” (xuất bản năm 1992,
Anh) lại đưa ra khái niệm: “Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà
kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía
mình” để đề cập tới sự cạnh tranh ở thị trường các yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp.
Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các
quốc gia trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau
trong từng giai đoạn cạnh tranh nhất định. Cạnh tranh là quy luật của nền kinh
tế thị trường, là động lực thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó
luôn phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
9
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng. Mặt khác tránh cạnh tranh bất hợp pháp làm tổn hại lợi ích của cộng
đồng cũng như làm suy yếu chính mình.
2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Thị trường cạnh tranh.
2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều
người bán mà không có người nào có ưu thế cung ứng một số lượng sản phẩm
lớn ảnh hưởng đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hóa trên thị trường được coi
là giống nhau, ít có sự khác biệt về mẫu mã, hình thức, chất lượng. Tất cả
người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan
đến việc trao đổi, vì vậy việc tham gia và rút khỏi thị trường của họ rất dễ
dàng. Họ không có khả năng nâng giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt
động kinh doanh trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới
mức thấp nhất.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp
cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng, làm cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn những sản phẩm vừa ý với
mức giá thấp nhất. Nhìn chung, xã hội thu được lợi ích do tài nguyên được
phân phối theo hướng có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang
kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu cầu xã hội. Tuy nhiên, đây là hình thái
cạnh tranh hầu như không tồn tại hoặc rất khó thấy trong thực tế.
2.1.2.Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo gắn liền với khả năng chi phối
hay kiểm soát giá của những người bán hay người mua riêng biệt. Xét từ phía
người bán, trên một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, doanh nghiệp
không phải là người chấp nhận giá mà là người định giá, có khả năng chi phối
giá, ở những mức độ khác nhau. Tùy theo số lượng doanh nghiệp người ta
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
10
Chuyên đề tốt nghiệp
chia thị trường cạnh tranh không hoàn hảo thành các dạng: thị trường độc
quyền thuần túy, thị trường độc quyền nhóm và thị trường cạnh tranh có tính
chất độc quyền.
Thị trường độc quyền thuần túy, xét từ góc độ người bán, trên thị
trường chỉ có một doanh nghiệp duy nhất hoạt động và cung ứng một loại
hàng hóa duy nhất, không có hàng hóa thay thế. Trên thị trường độc quyền
thuần túy, doanh nghiệp nói chung không bị nguy cơ gia nhập ngành từ phía
các đối thủ có tiềm năng đe dọa.
Thị trường độc quyền nhóm, xét từ phía người bán, là dạng thị trường
mà trên đó chỉ có một nhóm nhỏ doanh nghiệp cùng hoạt động. Tuy không
phải là một doanh nghiệp duy nhất độc chiếm thị trường, doanh nghiệp độc
quyền nhóm thường có quy mô tương đối lớn so với quy mô chung của thị
trường. Điều này cho phép nó có một quyền lực thị trường hay một khả năng
chi phối giá đáng kể. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường độc
quyền nhóm có thể giống hệt nhau hoặc gần như giống hệt nhau, song cũng
có thể khác biệt. Tính đồng nhất hay khác biệt của sản phẩm không phải là
những tính chất đặc thù của thị trường này. Đặc trưng cơ bản của độc quyền
nhóm là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp mỗi khi ra quyết định
về sản lượng, giá cả hay các quyết định kinh doanh có liên quan khác.
Thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền là một cấu trúc thị trường
vừa có tính chất của một thị trường cạnh tranh, vừa có tính chất của một thị
trường độc quyền. Nó có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trên thị trường có
nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động. Vì thế, giống như thị trường cạnh tranh
hoàn hảo, quy mô của mỗi doanh nghiệp đều tương đối nhỏ so với quy mô
chung của thị trường. Thứ hai, mỗi doanh nghiệp đều sản xuất ra một loại sản
phẩm khác biệt so với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác. Xét
theo nghĩa nào đó, một doanh nghiệp là nhà sản xuất độc quyền về loại sản
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
11
Chuyên đề tốt nghiệp
phẩm của mình. Tuy nhiên, các sản phẩm của các doanh nghiệp khác tương
đối dễ dàng thay thế sản phẩm này. Thứ ba, các doanh nghiệp có khả năng tự
do gia nhập cũng như rút lui khỏi ngành. Những rào cản pháp lý cũng như
kinh tế đối với sự gia nhập ngành là không tồn tại. Trên thực tế, các thị trường
như dịch vụ bán lẻ, dịch vụ ăn uống, sách, nhà nghỉ…có thể xếp vào dạng thị
trường này. Đặc điểm nổi bật của thị trường cạnh tranh có tính chất độc quyền
là tính khác biệt của sản phẩm. Dù đây không phải là đặc điểm duy nhất chỉ
có ở dạng thị trường này, nhưng chính nó là điều phân biệt thì trường này với
thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Do cung cấp một loại sản phẩm có tính khác
biệt so với sản phẩm của đối thủ, doanh nghiệp ít nhiều vẫn có quyền lực thị
trường, có khả năng chi phối giá.
2.2.Cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cùng một thị trường, các doanh nghiệp cùng cạnh tranh với nhau
trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
2.2.1.Cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào
Cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào thực chất là việc các
doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung ứng tốt nhất, đầy đủ,
thường xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ chế
thị trường, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu về
một số yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại một lúc. Mỗi nhà cung
ứng có một mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh
nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch
vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạng có nhà cung ứng độc quyền
các doanh nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một
nhà cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
12
Chuyên đề tốt nghiệp
có giá cao sẽ bị loại bỏ. Ngược lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách
mua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao.
2.2.2.Cạnh tranh trong quá trình sản xuất
Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối ưu nhất cho các câu hỏi
sau: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? Bởi vì có trả
lời tốt được các câu hỏi này thì các doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát
triển được.
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất
mặt hàng nào thì sẽ thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Trước hết, các doanh
nghiệp cần tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập
trung sản xuất những mặt hàng phù hợp. Doanh nghiệp nào tìm ra được nhu
cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đó thì sẽ giành chiến thắng.
Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh tranh không dừng ở mức độ này mà
cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng nhau kích thích tạo ra nhu cầu
mới trên thị trường để từ đó khai thác các nhu cầu này.
Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp đi tìm
cho mình các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lược định vị sản
phẩm. Điều này cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp.
Sản xuất như thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp doanh
nghiệp tìm ra phương thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ
giá thành và nâng cao lợi thé cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các
doanh nghiệp đã không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất
ra sản phẩm có giá trị cao và giá thành hạ.
Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản
xuất nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đẩy nhanh doanh
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
13
Chuyên đề tốt nghiệp
số bán hàng cũng như việc áp dụng các phương thức sản xuất nhằm giảm
thiểu chi phí để mong muốn có được lợi nhuận cao của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nào thực sự làm được điều này doanh nghiệp đó sẽ giành chiến
thắng trong cạnh tranh.
2.2.3.Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa dịch vụ
Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính
sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự
giành giật thị trường và khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh
nghiệp sẽ có điều kiện đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục tiêu cuối
cùng là tối đa lợi nhuận. Để làm được điều này, các doanh nghiệp phải tìm
mọi cách nhằm thu hút khách hàng về phía mình, tìm được chỗ đứng ổn định
và lâu dài trên thị trường bằng việc thực hiện các chiến lược và các giải pháp
khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tìm được cho mình
một lượng khách hàng lớn, hàng hóa dịch vụ tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp
chiến thắng và ngược lại.
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trường. Nguồn
gốc của cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động,
thành phần tham gia cũng như các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có thể ví như cuộc chạy đua không có
đích, bất kỳ doanh nghiệp nào mà xác định cho mình một cái đích trong cuộc
chạy đau này thì sẽ tạo thành nhịp cầu cho các doanh nghiệp khác chạy qua.
Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy đua trên hai trận tuyến. Đó là cạnh
tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cạnh tranh giữa doanh nghiệp
với người tiêu dùng. Chính vì lý do này mà cạnh tranh giúp cho giá cả của
hàng hóa dịch vụ có xu hướng giảm xuống, trong khi đó, chất lượng hàng
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
14
Chuyên đề tốt nghiệp
hóa, dịch vụ ngày càng được nâng cao phù hợp với mong muốn người tiêu
dùng.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh
tranh mà các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên
trong mọi lĩnh vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu
chung. Chính điều này đã là động lực giúp các doanh nghiệp vươn lên trong
quá trình tồn tại. Hơn nữa, cạnh tranh còn là công cụ giúp các doanh nghiệp
thực hiện các mục tiêu kinh doanh và cũng nhờ có cạnh tranh sẽ tạo cho
doanh nghiệp những thách thức và cơ hội trong kinh doanh, để từ đó, giúp các
doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh được rủi ro.
Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô,
có sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho
phù hợp với điều kiện thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có
chi phí cao, không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ
hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục phát triển đóng góp cho
sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh tranh sẽ tạo nên sự ràng buộc
giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh tổng thể cho sự phát triển qua
việc phối hợp hài hòa các chức năng, nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp khác
nhau trong các ngành kinh tế.
Nói tóm lại, một khi có nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ tồn tại quy
luật cạnh tranh, đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
xã hội. Tuy nhiên cạnh tranh là hai mặt của một vấn đề. Một mặt, cạnh tranh
là động lực phát triển với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh lại mang
những đe dọa, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành phần tham gia
nền kinh tế thị trường nếu như không kịp thời thích ứng với nó. Hơn nữa,
cạnh tranh không phải là sự hủy diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
15
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp khác kinh doanh có hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển.
Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng
trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường phải không ngừng tích lũy những
kiến thức, sẵn sàng có những ứng xử cần thiết và thích hợp trước những hoàn
cảnh khác nhau do cạnh tranh mang lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế và
đất nước.
II. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ
của năng lực cạnh tranh
Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp
trong lý thuyết tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có
sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng
vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản
phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại,
hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các
sản phẩm cùng loại. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết
hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả
năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường. Theo định nghĩa này, có thể đồng nhất bốn
thuật ngữ hiện đang được sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả
năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau.
Năng lực cạnh tranh được chia làm bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh cấp
độ quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp độ ngành, năng lực cạnh tranh của doanh
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
16
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản
phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể
hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước. Năng lực
cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh
tranh quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nên không đề cập đến.
1.1 Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng
cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng
kinh tế khác”. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là
việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có
hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi
trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lơn với việc thúc đẩy quá trình
đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo
các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh
tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát
triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế, và hội nhập ngày càng có
hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế…còn có
tám yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia: Độ mở cửa
kinh tế, vai trò của chính phủ-vai trò và mức độ can thiệp của Nhà nước vào
hoạt động cạnh tranh, tài chính ngân hàng, công nghệ-mức độ đầu tư cho
nghiên cứu triển khai (R&D), trình độ công nghệ và tích lũy kiến thức công
nghệ, cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung, lao
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
17
Chuyên đề tốt nghiệp
động-số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của thị
trường lao động, thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền
móng cho nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của
luật pháp và quyền sở hữu.
1.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa
Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì…hơn hẳn so với những sản
phẩm hàng hóa cùng loại. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được do năng
lực cạnh tranh của chủ thể tạo ra, nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà có, mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm
hàng hóa có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà
doanh nghiệp nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trí của mình trên thị trường cạnh
tranh cũng như đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ cho
việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở bốn yếu tố chính: giá
cả, chất lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian. Trong cơ
chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các phương án tối ưu để
giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
18
Chuyên đề tốt nghiệp
nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn
thời điểm bán hàng hợp lý nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
2.1 Nhân tố giá cả hàng hóa, dịch vụ
Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua
quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thỏa thuận với nhau để tiến hành
mức giá cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả được thể hiện
như một thứ vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh thông qua việc định
giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng, hoặc định giá cao.
Với mức giá ngang bằng mức giá thị trường doanh nghiệp có thể giữ
vững được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm
làm giảm giá thành. Ngược lại, với mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì sẽ
thu hút nhiều khách hàng, làm tăng sản lượng tiêu thu, doanh nghiệp có cơ
hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, tuy nhiên lợi nhuận có nguy cơ thâm
hụt. Mức giá mà doanh nghiệp áp dụng cao hơn mức giá thị trường nói chung
là không có lợi, nó chỉ sử dụng với các doanh nghiệp có tính độc quyền hoặc
với các loại hàng hóa đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
2.2 Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
Sản phẩm có thể vô hình hoặc hữu hình, là thứ mà mọi doanh nghiệp
đều hướng đến, quyết định thành công của doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề
đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm ra và cung cấp sản phẩm phù hợp với
thị hiếu người tiêu dùng, được thị trường chấp nhận, có khả năng tiêu thụ
mạnh giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là phần lớn những doanh
nghiệp đã thực hiện đa dạng hóa sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp luôn
được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp thị trường bằng cách cải tiến
các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại
sản phẩm hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh
nghiệp cũng luôn nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hóa. Việc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm của các
doanh nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận
mà còn có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đi đôi với việc đa dạng hóa sản phẩm, để đảm bảo đứng
vững trên thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện chiến lược trọng tâm hóa
vào một loại sản phẩm có tính chiến lược nhằm cung cấp cho một tập hợp
khách hàng mục tiêu hoặc thị trường mục tiêu.
2.3 Chất lượng hàng hóa dịch vụ
Nếu trước kia giá cả sản phẩm là yếu tố khá quan trọng thì ngày nay nó
phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế cạnh tranh
bằng giá cả là một trong những giải pháp mang tính hạ sách, nó làm giảm lợi
nhuận thu về. Ngược lại, với một sản phẩm có chất lượng vượt trội với mức
giá ngang bằng hoặc nhiều hơn thì khả năng sẽ thu hút khách hàng, tạo thêm
năng lực cạnh tranh mới.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định
bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thỏa mãn những tiêu
chuẩn kỹ thuật hay những yêu cầu quyết định của người tiêu dùng. Chất
lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay
cả khi tiêu thụ hàng hóa và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, dây
truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản
lý…
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt
trong nền sản xuất Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải đương
đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn hẳn trong việc tạo
ra hay cung cấp sản phẩm có chất lượng cao. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày
càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng sản phẩm đã được xuất
hiện, chất lượng sản phẩm là chất lượng được chi phối và quyết định bởi
khách hàng, chứ không phải nhà sản xuất hay người cung ứng.
2.4 Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hóa dịch vụ
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,
đây cũng là giai đoạn bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của quá
trình tiêu thụ sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối hợp lý, có hiệu
quả nhằm mục đích đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhanh
chóng giải phóng nguồn hàng, bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng
một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây dựng một nền
móng vững chắc cho việc củng cố và phát triển nâng cao năng lực cạnh tranh
của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức một mạng lưới bán hàng, doanh
nghiệp đồng thời cũng cần mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán
hàng như quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ sau bán. Đây là một trong
những chiến lược cạnh tranh phi giá cả gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng
một cách có hiệu quả.
2.5 Nhân tố thời gian
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện
nay làm cho chu kỳ sống của sản phẩm nói chung có chiều hướng rút ngắn lại.
Đối với các doanh nghiệp yếu tố quyết định thành công trong kinh doanh
ngày nay là thời gian và tốc độ. Những thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ
thuật đã giúp cho những doanh nghiệp biết nắm bắt thời cơ kịp thời sẽ vượt
lên trên và là những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Hiện nay ở nhiều nước phát triển, cạnh tranh mang tính chất quan
trọng, là mục tiêu của nhiều doanh nghiệp đang hướng tới. Do vậy, khi xây
dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập đến vấn đề
“tốc độ thị trường”, “cạnh tranh dựa trên thời gian” và chú trọng tới vấn đề về
chu kỳ sản phẩm, thời gian nắm bắt, thỏa mãn nhu cầu thị trường, thời gian
đầu tư, thời gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch, giao hàng cũng như
tốc độ của công tác nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới.
2.6 Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là những giải
pháp mang tính dài hạn với mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh là điều
không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chỉ ra
phương hướng cho mỗi hoạt động. Chiến lược kinh doanh thường được xây
dựng trên cơ sở các mục tiêu kinh doanh, khả năng chủ quan của doanh
nghiệp, sự tác động của môi trường kinh doanh. Đối với công tác nâng cao
năng lực cạnh tranh thì chiến lược cạnh tranh là một phần trong chiến lược
kinh doanh nói chung, sẽ giúp cho doanh nghiệp chiến thắng các đối thủ cạnh
tranh hiện tại để vươn lên giành thị phần, chiếm lĩnh khách hàng, mang lại lợi
nhuận cao hơn…
2.7 Uy tín doanh nghiệp
Uy tín doanh nghiệp là tài sản vô hình mà không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng có được, là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Uy tín doanh nghiệp phải xây dựng và củng cố trên cơ sở mang lại
nhiều lợi ích cho xã hội và cho người tiêu dùng. Uy tín doanh nghiệp là cơ sở
để doanh nghiệp có thể vươn lên dễ dàng trong cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác, tạo dựng cho doanh nghiệp nền móng vững chắc với một tập
khách hàng thường xuyên. Uy tín của doanh nghiệp được hình thành sau một
thời gian dài hoạt động trên thị trường và là tài sản vô hình mà doanh nghiệp
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
22
Chuyên đề tốt nghiệp
cần phát huy và sử dụng nhưng một thứ vũ khí chủ lực trong điều kiện cạnh
tranh hiện nay.
3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
Thực chất của việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra những ưu thế
hơn hẳn về giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng cũng như uy tín sản phẩm, uy
tín doanh nghiệp, uy tín quốc gia nhằm giành được những lợi thế tương đối
trong cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa, thực hiện mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, cạnh tranh là một quy luật tất yếu
khách quan, chi phối sự vận động của cơ chế này. Các chủ thể kinh tế nói
chung, các doanh nghiệp nói riêng, đều phải chấp nhận cạnh tranh. Chính vì
lẽ đó mà việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp có ý
nghĩa rất lớn. Trước hết, doanh nghiệp muốn có cơ hội tồn tại được trong nền
kinh tế thị trường thì cần phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiệu quả
của việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp khẳng định
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, mặt khác nó còn xác định vị thế cho
mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra, việc nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ đồng nghĩa
với quá trình xây dựng doanh nghiệp cả về vật chất lẫn tinh thần, vô hình sẽ
tạo cho doanh nghiệp những ưu thế riêng mà doanh nghiệp khác không có
được. Cùng với việc nâng cao năng lực cạnh tranh là việc doanh nghiệp mở
rộng thị trường, mở rộng tập khách hàng, hội nhập chung với thị trường quốc
tế, từ đó sẽ tạo ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội, đem lại những thương vụ
kinh doanh đầy hứa hẹn. Như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một
tất yếu khách quan. Để thắng thế trong cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp phải
không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như giá
thành, giá bán, chất lượng sản phẩm…
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở nước ta, từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp buộc
phải làm quen và chấp nhận cơ chế mới cùng với việc nỗ lực nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước mở cửa nền
kinh tế sâu rộng, gia nhập tổ chức thương mại thế giới, thị trường trong nước
có sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp nước ngoài danh tiếng. Chính vì thế,
các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh
vì sự tồn tại của doanh nghiệp nói riêng và sự phụ thuộc từ nước ngoài nói
chung.
III.Sự cần thiết của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nam Cường
1. Những cơ hội và thách thức
1.1.Cơ hội:
1.1.1. Thị trường thế giới.
a.Chúng ta được biết đối với sản phẩm của công ty là mặt hàng động cơ
điezel công suất vừa và nhỏ chủ yếu phục vụ cho nông lâm ngư nghiệp và
một số ngành dịch vụ khác ,loại sản phẩm này rất phù hợp tiêu thụ ở những
nước chậm và đang phát triển như Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia….Vì thế
lượng tiêu thụ sản phẩm tại các nước trên thế giới chủ yếu tập trung ở các
nước đang phát triển.
1.1.2 Thị trường trong nước
a.Nhu cầu ngày càng tăng :
Nhu cầu đối với sản phẩm của công ty ngày càng tăng lên trong giai
đoạn những năm 2005-2007 và sẽ còn tiếp tục tăng nữa.Nguyên do là gì?
Thứ nhất, do dân số ngày càng tăng nhanh (vào năm 2005 là 83,12 triệu
người ) đi kèm theo đó là mức tiêu dùng sẽ tăng lên và do đời sống của người
dân ngày càng cao.
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ hai,Việt Nam đã mở cửa gia nhập vào WTO, đây là cơ hội để các
nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, tạo ra làn sóng về
sản phẩm dịch vụ giúp sản phẩm của công ty tiêu thụ tốt hơn.
Việt Nam những năm gần đây liên tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
và đi kèm theo đó, nhà nước liên tục rót ngân sách cho các tỉnh thành hoàn
thiện thêm về cơ sở hạ tầng,cầu đường, giao thông, và hệ thống thông tin.
Nhu cầu sử dụng các loại sản phẩm của công ty cũng vì vậy tăng lên .
1.2.Thách thức.
a.Vấn đề công nghệ (phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài)
Hiện nay, hầu hết các nhà máy sản xuất các mặt hàng của công ty đều
có dây chuyền máy móc được nhập khẩu từ nước ngoài .Các loại dây chuyền
này hiện nay trong nước chưa sản xuất được, hoặc nếu có cũng chưa đảm bảo
được yêu cầu về chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật. Nếu công nghệ của
dây chuyền sản xuất bị lỗi thời thì các công ty của chúng ta một lần nữa lại
phải mua công nghệ của nước ngoài.
Dây chuyền sản xuất của công ty trách nhiệm hữu hạn Nam Cường đã
sử dụng được nhập từ Trung Quốc qua quá trình đàm phán ký hợp đồng của
Giám đốc Trần Ngọc Dần với tập đoàn Chang Chai của Trung Quốc.Dây
chuyền được chính thức đi vào sản xuất từ năm 2000.
b.Phụ thuộc nước ngoài về nguyên liệu( 85% là nhập khẩu)
Giám đốc Trần Ngọc Dần cho biết :”Phần lớn các loại nguyên liệu đầu
vào của công ty đều là nhập khẩu từ nước ngoài “. Một số sản phẩm của công
ty còn nhập khẩu nguyên chiếc đem về Việt Nam tiêu thụ.
Cho đến nay ở Việt Nam đã có một số cơ sở sản xuất được phụ tùng
thay thế cho các loại động cơ diezel và động cơ xăng, nhưng về chất lượng và
giá cả có lẽ khó có thể cạnh tranh với nước ngoài.Vì thế việc thay thế nhập
SV : Mai Văn Nghiêm Lớp K40 - DQ1
25