BÀN VỀ VẤN ĐỀ TĂNG VỐN CỦA CÁC NHTM
VIỆT NAM TRƯỚC CỘT MỐC 31/12/2010
I. Lý luận chung:
1. Sự cần thiết về việc tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Để triển khai kế hoạch hoạt động trong những năm sắp tới và thực hiện chiến lược
phát triển hoạt động kinh doanh, việc tiếp tục tăng vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại
có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng nói riêng, và
nền kinh tế nói chung. Thông qua việc tăng vốn điều lệ, sẽ tạo điều kiện cho các ngân
hàng nâng cao năng lực hoạt động, khả năng cạnh tranh của bản thân ngân hàng trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
của đất nước; cụ thể:
+ Nâng cao khả năng huy động vốn và cho vay đối với khách hàng nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội;
+ Nâng cao khả năng đầu tư tài sản, góp vốn mua cổ phần, phát triển hệ thống
công nghệ hiện đại phục vụ công tác quản trị ngân hàng và cung ứng các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng mới, tạo cơ sở để phát triển mạng lưới chi nhánh nhằm đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu của khách hàng;
+ Nâng cao khả năng chống đỡ với các rủi ro trong hoạt động và đáp ứng tốt hơn
các chỉ tiêu đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các ngân hàng có vốn đầu tư của nước
ngoài trong thời kỳ mở cửa hội nhập, nâng cao vị thế của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế.
Việt Nam đã hội nhập thực sự với nền kinh tế thế giới kể từ khi gia nhập WTO,
cơ chế bao cấp dần dần được xóa bỏ, do đó nguy cơ xảy ra các vụ phá sản ngân hàng là
hoàn toàn có thể xảy ra, nhất là khi nước ta cũng không nằm ngoài khu vực chịu tác động
tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mặt khác, thực tế ở Việt Nam, khoảng cách
giữa sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ tài chính với hoạt động quản trị rủi ro đang
ngày càng lớn. Trong bối cảnh đó theo quy định của Nghị định141/2006/NĐ-CP buộc các
ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) phải tăng vốn điều lệ theo lộ trình với bước
1 đến hết năm 2008 phải đạt 1000 tỷ đồng và bước 2 phải đạt 3.000 tỷ đồng hạn chót
31/12/2010.
Lý do tăng vốn được lãnh đạo của các NHTM CP lý giải là nhằm giải quyết bài
toán nâng cao năng lực tài chính và chất lượng dịch vụ để tiếp cận theo các tiêu chuẩn
quốc tế, buộc phải bổ sung thêm vốn, nhằm nâng cao tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu
chuẩn Basel; đồng thời thu hẹp khoảng cách về năng lực tài chính, công nghệ của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam với Ngân hàng thương mại trong khu vực; tăng vốn là
để có đủ chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ phát triển mạng lưới tranh thủ chiếm lĩnh
thị phần. Do vậy, việc tăng vốn điều lệ là một việc làm tất yếu, vì nếu quy mô vốn ít sẽ
rất khó nâng cao năng lực cạnh tranh trên sân chơi tự do. Họ cho rằng vốn ít đồng nghĩa
chấp nhận tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quá khốc liệt hiện nay. Hơn nữa ít vốn thì không
thể nào mở rộng kinh doanh, phát triển công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Nhưng một
thực tế đáng lo ngại đó là các ngân hàng nhỏ, ngân hàng yếu kém sáp nhập lại với nhau
thì chỉ có cộng thêm vốn theo đúng quy định, chứ những yếu tố khác ít có cơ hội nhân
lên, không mang lại đội ngũ quản lý giỏi hơn, không có được chất lượng hoạt động tốt
hơn, không làm tăng thêm sức mạnh gì cho chính nó cũng như cho toàn hệ thống, càng
1
không có gì bảo đảm cho sự an toàn hơn cho cả hệ thống ngân hàng. Đây là điều đáng lo
ngại nhất cho BHTGVN trong việc bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền góp phần duy trì
sự phát triển an toàn bền vững hệ thống tài chính ngân hàng trong thời gian tới.
2. Văn bản qui định:
a. Nghị định của chính phủ số 141/2006/NĐ-CP ngày 22-11-2006 về ban hành
danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng:
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 12 tháng 12 năm 1997, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 17 tháng 6
năm 2003;
Căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12 tháng 12 năm 1997, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Xét đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính thức thông qua
một số điều khoản như sau:
Điều 1.Về mức vốn pháp định
Ban hành kèm theo Nghị định này Danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ
chức tín dụng thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp
bảo đảm có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp
định quy định tại Danh mục ban hành kèm theo, chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm
2008 và ngày 31 tháng 12 năm 2010.
2. Các tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày Nghị
định này có hiệu lực và trước ngày 31 tháng 12 năm 2008, phải đảm bảo có ngay số vốn
Điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định quy định cho
năm 2008 tại Danh mục ban hành kèm theo.
3. Các tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31
tháng 12 năm 2008 phải đảm bảo có ngay số vốn Điều lệ thực góp hoặc được cấp tối
thiểu tương đương mức vốn pháp định quy định cho năm 2010 tại Danh mục ban hành
kèm theo.
Điều 3. Quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước
Giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định xử lý, kể cả việc thu hồi Giấy
phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng có số vốn điều lệ thực góp hoặc
được cấp thấp hơn mức vốn pháp định tương ứng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng
quy định cho từng thời kỳ nêu trong Danh mục ban hành kèm theo.
Điều 4. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo và
thay thế Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 1998 của Chính phủ về ban
hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.
Điều 5. Trách nhiệm thi hành
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
Dưới đây là danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt
động tại Việt Nam.(Ban hành kèm theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP
ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ)
2
STT Loại hình tổ chức tín dụng
Mức vốn pháp định áp dụng cho
đến năm
2008 2010
I Ngân hàng
1 Ngân hàng thương mại
A Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
B Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
C Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
D Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
Đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD
2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng
3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng
5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
6 Quỹ tín dụng nhân dân
A Quỹ tín dụng nhân dân TW 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
B Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ đồng 0,1 tỷ đồng
II Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1 Công ty tài chính 300 tỷ đồng 500 tỷ đồng
2 Công ty cho thuê tài chính 100 tỷ đồng 150 tỷ đồng
b. Ngày 14-1-2010 Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 398/NHNN-TTGSNH yêu
cầu giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh thành phố chỉ đạo các tổ chức tín dụng
(ngân hàng thương mại cổ phần, không bao gồm ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ
phần hóa, tổ chức tín dụng phi ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) có trụ sở
chính trên địa bàn triển khai báo cáo tình hình tăng vốn điều lệ năm 2009 theo chấp thuận
của Ngân hàng Nhà nước; khẩn trương xây dựng kế hoạch tăng vốn trong năm tài chính
2010 trình cấp có thẩm quyền thông qua theo quy định hiện hành, trong đó nêu rõ tiến độ
thực hiện tăng vốn và phương án xử lý trong trường hợp không đạt được mức vốn này.
c. Cùng ngày, Ngân hàng Nhà nước có văn bản số 397/NHNN-TTGSNH yêu cầu
các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng trách nhiệm hữu
hạn 100% vốn nước ngoài, tổ chức tín dụng phi ngân hàng không phải là cổ phần xây
dựng kế hoạch tăng vốn điều lệ năm tài chính 2010. Để đảm bảo các tổ chức tín dụng
(TCTD) thực hiện việc tăng vốn điều lệ theo đúng quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ-
CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các
TCTD (Nghị định 141), Theo Văn Bản này Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu Quý
đơn vị:
1. Khẩn trương xây dựng kế hoạch tăng vốn trong năm tài chính 2010 trình các
cấp có thẩm quyền thông qua theo quy định hiện hành(Trong đó nêu rõ tiến độ thực hiện
tăng vốn và phương án xử lý trong trường hợp tổ chức tín dụng không đạt được mức vốn
này)
3
2. Chậm nhất ngày 31/03/2010 có văn bản báo cáo Thống đốc Ngân hàng nhà
nước (qua Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng) về việc tăng vốn điều lệ của Quý đơn
vị, trong đó báo cáo cụ thể về:
• Kết quả việc thực hiện tăng vốn năm 2009
• Kế hoạch tăng vốn điều lệ năm 2010 của Quý đơn vị nêu tại điểm 1 của
công văn này
• Đề xuất biện pháp xử lý đối với những trường hợp không đảm bảo mức vốn
quy định
3. Đề nghị các đơn vị nhận được công văn này nghiêm túc triển khai thực hiện
và báo cáo Thống đốc ngân hàng nhà nước đúng tiến độ
d. Ngày 10-5-2010 Văn bản số 3417/NHNN-TTGSNH yêu cầu tổ chứ tín dụng có
mức vốn điều lệ trong năm 2010 chưa đảm bảo mức vốn pháp định theo Nghị định 141
chậm nhất ngày 30.6.2010 phải trình Ngân hàng Nhà nước hồ sơ đề nghị chấp thuận tăng
vốn.Văn Bản có nội dung như sau:
1. Chậm nhất ngày 30/6/2010, tổ chức tín dụng phải trình Ngân hàng Nhà nước
hồ sơ đề nghị chấp thuận tăng vốn (đảm bảo mức vốn pháp định tại Nghị định 141) theo
quy định hiện hành.
Sau thời điểm này, trường hợp tổ chức tín dụng không trình Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận việc tăng vốn điều lệ, Ngân hàng Nhà nước tạm thời không xem xét đề nghị
mở rộng mạng lưới (công ty trực thuộc sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, Quỹ tiết
kiệm, ATM, điểm giao dịch) hoặc bổ sung nội dung hoạt động của tổ chức tín dụng.
2. Đối với các tổ chức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tăng
vốn điều lệ đảm bảo mức vốn pháp định tại Nghị định 141: Định kỳ ngày mùng 5 hàng
tháng, tổ chức tín dụng có văn bản báo cáo việc thực hiện tăng vốn điều lệ về Ngân hàng
Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố (đối với tổ chức tín dụng cổ phần) hoặc Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng (đối với tổ chức tín dụng không phải là tổ chức tín dụng cổ
phần), trong đó nêu rõ những khó khăn vướng mắc (nếu có)
3. Đối với các tổ chức tín dụng không trình Ngân hàng Nhà nước chấp thuận
tăng vốn điều lệ hoặc không được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tăng vốn điều lệ để
đảm bảo mức vốn pháp định tại Nghị định 141. Chậm nhất ngày 30/9/2010, tổ chức tín
dụng phải có phương án chấm dứt tư cách pháp nhân của tổ chức tín dụng theo luật định
(bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại, tự giải thể ) trình Ngân hàng Nhà nước chi
nhánh tỉnh, thành phố (đối với tổ chức tín dụng cổ phần) hoặc Cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng (đối với tổ chức tín dụng không phải là tổ chức tín dụng cổ phần).
3. Các biện pháp tăng vốn điều lệ:
Phải lựa chọn thời điểm và phương thức hợp lý để tăng vốn. NHTMCP có thể
tăng vốn dưới hình thức chủ yếu là phát hành thêm cổ phiếu. Trong điều kiện hiện nay,
phát hành thêm cổ phiếu quả là một bài toán rất khó cho các NHTMCP, trước mắt
NHTMCP chỉ nên phát hành cổ phiếu để huy động từ cổ đông hiện hữu hoặc trả cổ tức
cho cổ đông bằng cổ phiếu.
Các ngân hàng chủ động hơn thì phát hành trái phiếu chuyển đổi trước đó một
năm, đợi đến khi trái phiếu thành cổ phiếu thì khớp với hạn mà nhà nước yêu cầu.
Xây dựng và đề xuất với Ngân hàng Nhà nước một tỷ lệ sở hữu cổ phiếu hợp lý
của cổ đông chiến lược và cổ đông nước ngoài. Với tỷ lệ 30% cho cổ đông nước ngoài
4
như hiện nay vẫn còn là một tỷ lệ khiêm tốn. Tỷ lệ này có thể cao hơn nhưng vẫn kiểm
soát được sự chi phối của cổ đông nước ngoài. Nếu tỷ lệ này được tăng lên sẽ giúp cho
NHTMCP tranh thủ được một nguồn lực rất lớn cho việc gia tăng quy mô vốn của mình
trong điều kiện cần thiết hiện nay.
Sáp nhập các ngân hàng, hoặc mua lại các ngân hàng nhỏ để hình thành nên một
ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn hơn, hình thành nên một tập đoàn tài chính đa năng
cũng là một giải pháp rất hiệu quả cho các NHTMCP hiện nay.
II. Thực trạng:
1. Nhìn lại quá trình tăng VĐL giai đoạn trc 31/12/2008
1.1. Tình hình chung:
Trong năm 2006 cho đến những tháng đầu năm 2007 đã xuất hiện sự kiện các
ngân hàng đua nhau tăng vốn điều lệ, cụ thể:
Trong năm 2006:
_ Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) nâng vốn điều lệ từ 300 tỷ đồng lên 1.000
tỷ đồng,
_ Ngân hàng An Bình nâng vốn từ 200 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng,
_ Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) nâng vốn điều lệ từ 618 tỷ đồng lên
1.500 tỷ đồng
Trong năm 2007:
_ Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội (MB) tăng vốn điều lệ lên mức 1.500
tỷ đồng,
_ EAB tăng vốn điều lệ từ 880 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng,
_ Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(VPBank) tăng vốn điều lệ từ 750 tỷ đồng lên 1.500 tỷ đồng,
_ Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông (OCB) tăng vốn điều lệ lên
1.200 tỷ đồng,
_ Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (SeABank) tăng vốn điều lệ lên
1.000 tỷ đồng…
Trong năm 2008:
STT Ngân hàng
Vốn điều lệ sau khi
tăng cuối năm 2008
(tỷ đồng)
1
Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu
Long (MHB)
816
2
Ngân hàng Công Thương Việt Nam
( Vietin Bank)
13.400
3
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(BIDV)
8.756
4 Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông 10.350
5
thôn Việt Nam
(Agribank)
5
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank)
2.117
6
Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí toàn
cầu (GPBank)
2.000
7
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á
(DaiABank)
1.000
8
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương
(OceanBank)
2.000
9
Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định
(GiaDinhBank)
1.000
10
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt
Nam (Maritime Bank)
3.000
11
Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long
(KienLong Bank)
2.000
12
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt
Nam (Techcom Bank)
3.642
13
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
(NaviBank)
1.000
14
Ngân hàng thương mại cổ phần Tiền Phong
(Tienphong Bank)
1.250
15
NHTMCP Nhà Hà Hội
(HABUBank)
2.800
16
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển nhà
TP.HCM (HDBank)
1.550
17
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông
(OCB)
1.474,477
18
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn công
thương (SaiGon Bank)
1.020
19
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội (SHB)
2.000
20
Ngân hàng thương mại cổ phần Bảo Việt
(BaoViet Bank)
1.500
21
Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhật
Khẩu Việt Nam (EximBank)
7.220
22
Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình
(ABBank)
3.482, 51296
23
Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á
(NASBank)
2.120, 85753
24
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín
(TrustBank)
2.000
25
Ngân hàng thương mại cổ phần Đệ Nhất
(FICOMBANK)
1.000
26
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á
(DongABank)
3.400
27 Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á 5.068, 54545
6
(SEA Bank)
28
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Tây
(Western Bank)
2.000
29
Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển
Mekong (MX Bank)
1.000
30
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương
Việt Nam (Vietcom Bank)
12.100,86
31
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á
(Nam A Bank)
1.252,83662
32
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
(ACB)
6.355
33
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam
(Southern Bank)
2.304,49782
34
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
(MB)
5.300
35
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế
(VIB)
3.400
36
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
(SCB)
3.635, 428
37
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Thương Tín (SacomBank)
5.116
38
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á
(VietA Bank)
1.631,80183
39
Ngân hàng thương mại cổ phần Xăng Dầu
Petrolimex
1.000
40
Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Tín
Nghĩa (TinNghiaBank)
3.399, 006
Nguồn: Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam
Từ giữa tháng 2/2008, do diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, hoạt động ngân hàng
có nhiều khó khăn hơn trước đây. Lạm phát tăng cao, thanh khoản của nhiều Ngân hàng
thương mại bị ảnh hưởng, lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tăng gấp khoảng 2 lần so
với trước đó, giá cổ phiếu giảm mạnh, thị trường chứng khoán điều chỉnh sâu và kéo dài.
Song nhìn cụ thể vào tình hình vốn của các NHTMCP có thể thấy, nhiều ngân
hàng do lịch sử phát triển, có thương hiệu, năng lực quản trị điều hành khá, chiến lược
kinh doanh rõ ràng và phù hợp, tận dụng các điều kiện thuận lợi của các năm trước nên
nhiều NHTMCP đã đạt mức vốn gấp 3 – 5 lần số vốn quy định cho năm 2008 và công bố
kế hoạch sẽ đạt mức vốn cũng gấp 3-4 lần quy định cho năm 2010.
_ NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã tăng vốn điều lệ từ 2.524
tỷ đồng lên 3.165 tỷ đồng. Đây là đợt tăng vốn lần thứ 2 của Techcombank trong năm
2008. Việc tăng vốn đợt 2 này là kết quả của việc phát hành thêm 5% cổ phần bán cho cổ
đông chiến lược Tập đoàn ngân hàng HSBC, tương đương 20.895.550 cổ phần, đã nâng
tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của đối tác này lên 20%. Tính đến hết tháng 8/2008,
Techcombank đạt tổng tài sản hơn 53.000 tỷ đồng.
_ Trước đó, NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng đã hoàn thành
đợt tăng vốn điều lệ từ 4.449 tỷ đồng lên 5.116 tỷ đồng, bằng việc chia cổ tức năm 2007
7
bằng cổ phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 15%. Số cổ phiếu tăng thêm này đã được đăng ký
giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2008.
_ Tuy nhiên tính đến thời điểm 2008, quy mô vốn điều lệ lớn nhất thuộc về
NHTMCP Á Châu (ACB). Giữa tháng 9/2008, ACB đã thông báo chốt danh sách để tăng
vốn điều lệ từ 2.630 tỷ đồng lên 5.805 tỷ đồng bằng việc chia cổ tức năm 2007 cho cổ
đông với tỷ lệ 55%.
Tiếp đó, từ ngày 17/9/2008, ACB cũng chính thức chuyển đổi số trái phiếu được
phát hành ngày 16/10/2006 thời hạn 5 năm sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu với tỷ lệ
1:100, tức là 1 trái phiếu mệnh giá 1 triệu đồng được chuyển đổi thành 100 cổ phiếu phổ
thông mệnh giá 10.000 đồng.
Số lượng trái phiếu chuyển đổi đợt này là 550.023 trái phiếu thành 55 triệu cổ
phiếu, tương đương 550,023 tỷ đồng. Theo đó vốn điều lệ của ACB sẽ tăng tiếp từ 5.805
tỷ đồng lên 6.355 tỷ đồng.
_ Một số Ngân hàng thương mại cổ phần khác cũng đã thực hiện tăng vốn.
NHTMCP Sài Gòn – SCB cũng vừa hoàn thành đợt tăng vốn điều lệ từ 1.970 tỷ đồng lên
2.180 tỷ đồng.
_ NHTMCP xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cũng đã thực hiện tăng vốn
từ việc chia cổ tức năm 2007 bằng cổ phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 14%, tương đương
386,706 tỷ đồng. Qua đợt này vốn điều lệ của Eximbank đã tăng từ 2.800 tỷ đồng lên
3.186,706 tỷ đồng.
_ Các Ngân hàng thương mại cổ phần khác như: MB, VIB, Habubank, Việt Á,
Đông Á, Phương Nam, Phương Đông, cũng đã đạt quy mô vốn điều lệ khá lớn so với
quy định cho năm 2008.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ của Việt Nam lại đứng
trước áp lực hoặc phải tăng vốn, hoặc phải sáp nhập và bán lại.
1.2. Những động thái của Ngân hàng Nhà nước để kiểm soát việc tăng vốn điều
lệ hàng loạt của các NHTMCP:
Vì lo ngại sự gia tăng chất lượng hoạt động không theo kịp sự bành trướng bề
rộng cũng như những bất lợi sẽ xảy ra đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam,
Ngân hàng Nhà nước đã cảnh báo và bắt đầu siết chặt việc tăng vốn điều lệ của hàng loạt
các NHTMCP.
_ Ngày 6.4.2007, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
3103/NHNN-CNH hướng dẫn việc tăng vốn điều lệ của tổ chức tín dụng trong năm 2007.
Theo đó các ngân hàng muốn tăng vốn phải trình phương án cụ thể, nêu rõ nhu cầu sử
dụng vốn; nhu cầu mở rộng cho vay; nhu cầu mở rộng phạm vi kinh doanh sang các lĩnh
vực khác (như chứng khoán, cho thuê tài chính ); nhu cầu mở rộng địa bàn; hiệu quả
kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ mới… Các ngân hàng phải công khai thông tin về lộ
trình tăng vốn như tổng mức vốn dự định tăng thêm, các đợt dự kiến phát hành, phương
án phát hành từng đợt, những đối tượng được mua, giá bán cho từng loại đối tượng, thời
điểm bán, nghĩa vụ - quyền lợi đi kèm… Đồng thời với việc tăng vốn, các ngân hàng phải
chứng minh được có đủ trình độ năng lực và nhân sự cần thiết để quản trị, điều hành,
kiểm soát quy mô hoạt động tăng lên.
8
_ Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số 7910/NHNN-CNH yêu cầu ngân hàng
thương mại cổ phần có vốn điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng báo cáo kế hoạch tăng vốn điều lệ
năm 2008 trước ngày 10/9/2008.
Theo văn bản trên, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố chỉ
đạo ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn có vốn điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng báo
cáo kế hoạch tăng vốn điều lệ năm 2008, biện pháp triển khai và tiến độ thực hiện theo lộ
trình quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP; những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện (nếu có) của các ngân hàng này.
Dựa trên cơ sở kết quả làm việc với ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng
Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tổng hợp và có ý kiến đánh giá về khả năng và đề
xuất biện pháp chỉ đạo thực hiện việc tăng vốn điều lệ theo quy định tại Nghị định số
141/2006/NĐ-CP báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trước ngày 10/9/2008.
Dễ thấy rằng, quan điểm của Ngân hàng Nhà nước cho rằng tăng vốn điều lệ là
cần thiết, nhưng sẽ là “lợi bất cập hại”, mà hại có thể nhiều hơn lợi nếu tốc độ tăng quá
nhanh. Mặc dù quyết định này vẫn còn nhiều bàn cãi, nhưng trước mắt có thể được xem
là cần thiết để đảm bảo được sự an toàn cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống
Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn thay da đổi thịt như hiện nay.
2. Quá trình tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại từ đầu năm 2009
đến nay:
2.1. Bối cảnh:
Sau nhiều nỗ lực của các ngân hàng thương mại, tính đến hết năm 2008, vậy mà
mới chỉ có 28 đơn vị vượt qua cửa ải 1000 tỷ đồng và có tới gần 10 đơn vị mới đạt mức
vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng vào cuối 2009, muộn hơn một năm so với quy định tại Nghị
định 141.
Các Ngân hàng cần tăng quy mô vốn lên 3000 tỷ đồng trong năm 2010 bao
gồm:
STT Ngân hàng Vốn hiện tại Vốn cần tăng
1 Ngân hàng Phương Nam
(Southern Bank)
2568 432
2 Ngân hàng Bắc Á (Nasbank) 2121 879
3 Ngân hàng Việt Nam thịnh
vượng (VPBank)
2117 883
4 Ngân hàng Đại Dương
(OceanBank)
2000 1,000
5 Ngân hàng Phương Đông
(OCB)
2000 1,000
6 Ngân hàng Kiên Long 2000 1,000
9
(KienLongBank)
7 Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu
(GP.Bank)
2000 1,000
8 Ngân hàng Đại Tín
(TrustBank)
2000 1,000
9 Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà
Nội
2000 1,000
10 Ngân hàng Tiên Phong
(TiênPhongBank)
1750 1,250
11 Ngân hàng Việt Á
(VietABank)
1632 1,368
12 Ngân hàng Phát triển nhà
Tp.HCM (HDBank)
1550 1,450
13 Ngân hàng Sài Gòn Công
thương (Saigon Bank)
1500 1,500
14 Ngân hàng Bảo Việt
(BaoVietBank)
1500 1,500
15 Ngân hàng Đại Á (DaiABank) 1000 2,000
16 Ngân hàng Nam Việt
(Navibank)
1000 2,000
17 Ngân hàng Phát triển Mê
Kông (MDB)
1000 2,000
18 Ngân hàng Phương Tây
(Western Bank)
1000 2,000
19 Ngân hàng Việt Nam Thương
Tín (VietBank)
1000 2,000
20 Ngân hàng Xăng dầu
Petrolimex (PG Bank)
1000 2,000
21 Ngân hàng Đệ Nhất
(Ficombank)
1000 2,000
22 Ngân hàng Gia Định
(GiaDinhBank)
1000 2,000
Tổng cộng 31,262
10
Nguồn: Báo cáo PHÂN TÍCH TRIỂN VỌNG NGÀNH NGÂN HÀNG , SME
Securities
Để bảo đảm thực hiện tốt lộ trình tăng vốn cũng như giám sát quá trình tăng vốn
pháp định của các Ngân hàng thương mại, từ đầu năm 2010 đến nay, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã ban hành khá nhiều văn bản nhắc nhở, hướng dẫn các ngân hàng thực
hiện đúng lộ trình của Nghị định 141.
Tại cuộc họp báo ngày 7.7.2010 của Văn phòng Chủ tịch Nước, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết hiện hệ thống có 37 Ngân hàng thương mại,
trong đó 7 ngân hàng đã có 5.000 tỉ vốn điều lệ, 3 ngân hàng có 4.000 tỉ vốn, 1 ngân hàng
có 3.500 tỉ và 3 ngân hàng có vốn từ 3.000-3.200 tỉ, 23 ngân hàng còn lại có mức vốn
điều lệ dưới 3.000 tỉ đồng và các ngân hàng này đã có hồ sơ đề nghị chấp thuận tăng vốn.
Đến nay đã có 2 ngân hàng hoàn thiện hồ sơ đề nghị chấp thuận tăng vốn, Ngân hàng
Nhà nước đang tiếp nhận và xem xét 16 hồ sơ, còn 5 hồ sơ đang trong quá trình xem xét
tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh, thành.
Việc các ngân hàng đến thời điểm này phải có hồ sơ, vì văn bản 3417/NHNN-
TTGSNH đã nói rõ sau thời điểm 30.6.2010, trường hợp tổ chức tín dụng không trình
Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc tăng vốn điều lệ, Ngân hàng Nhà nước tạm thời
không xem xét đề nghị mở rộng mạng lưới (Công ty trực thuộc, sở giao dịch, chi nhánh,
phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, ATM, điểm giao dịch) hoặc bổ sung nội dung hoạt động
của tổ chức tín dụng.
Đặc biệt, đối với các tổ chức tín dụng không trình Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận tăng vốn điều lệ hoặc không được chấp thuận tăng vốn điều lệ để đảm bảo mức vốn
pháp định tại Nghị định 141, chậm nhất ngày 30.9.2010, tổ chức tín dụng phải có phương
án chấm dứt tư cách pháp nhân của mình theo luật định (bao gồm: Sáp nhập, hợp nhất,
mua lại, tự giải thể ) trình Ngân hàng Nhà nước - chi nhánh tỉnh, thành phố (đối với tổ
chức tín dụng cổ phần) hoặc cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng (đối với tổ chức tín
dụng không phải cổ phần). Vì vậy, không một Ngân hàng thương mại nào dám để chậm
trễ việc làm hồ sơ theo thời gian trên, cho dù phương án tăng vốn có thực sự khả thi hay
không.
2.2. Thực trạng
Thời gian chạy đua với Nghị định số 141/2006/NĐ-CP chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy
4 tháng. Hiện có khoảng 22 trên tổng số 41 Ngân hàng Thương mại Cổ phần đang phải
gấp rút thực hiện kế hoạch tăng vốn để đáp ứng đủ mức vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng.
Nhìn chung, phương án tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu
tập trung vào:
• Tận dụng sức mạnh của cổ đông hiện hữu
• Niêm yết trên thị trường chứng khoán để có thể thuận lợi hơn khi gọi vốn
• Bán cho tổ chức nước ngoài
• Ngoài ra, cũng có một số ít đơn vị có "tiền tích trữ" từ nguồn thặng dư vốn
cổ phần.
11
Khối Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN): Năm 2010 - năm cuối
cùng cho lộ trình tăng vốn điều lệ của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhưng đối
với các NHTMNN là năm coi như ngồi chơi xơi nước bởi mức vốn pháp định theo qui
định tại Nghị định 141 đã quá lạc hậu so với mức vốn điều lệ hiện có của các NHTMNN
hiện nay. Cụ thể là bốn NHTMNN gồm Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn
Việt Nam, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) hiện đều có mức
vốn điều lệ bình quân từ 10000 tỷ-15000 tỷ đồng (Ngoại trừ Ngân hàng Phát triển nhà
Đồng bằng sông Cửu Long(MHB) có mức vốn điều lệ dưới 1000 tỷ).Cụ thể là:
Vietcombank với 12.100 tỷ đồng , điều lệ của ngân hàng VietinBank này đang là 11.252
tỷ đồng và dự kiến hết 2010, VietinBank sẽ phát hành thêm 3 đợt, nâng vốn điều lệ lên
mức 18.731 tỷ đến 19.833 tỷ đồng.
Đặc biệt theo quyết định số 268/QĐTTg ngày 12/02/2010 của thủ tướng Chính
phủ thì vốn điều lệ của Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam được
bổ sung thêm 10000 tỷ đồng, nâng mức vốn điều lệ hiện tại của ngân hàng này lên 21000
tỷ đồng và dự kiến của Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam thì
đến cuối năm 2010 là 30000 tỷ đồng.
Khối Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP): Ngược lại với sự “ung dung”
của khối NHTMNN thì khối các NHTNCP phải chạy đua với thời gian, vượt “cửa tử” để
gia nhập câu lạc bộ 3000 tỷ đồng trước 31/12/2010.Công việc này là rất gian nan đối với
những ngân hàng nhỏ mà vốn chỉ quanh quẩn 1000 tỷ đồng Để có thể thực hiện thành
công kế hoạch tăng vốn phải thuyết phục được các cổ đông lớn tiếp tục bỏ thêm tiền và
thuyết phục các cổ đông nhỏ lẻ trong đại hội đồng chấp nhận phương án phát hành thêm
của mình. Nhưng hiện nay, hầu hết ngân hàng đều đã tiến hành đại hội cổ đông, trình và
thông qua phương án tăng vốn điều lệ trong năm 2010 để đảm bảo yêu cầu.
Phần lớn các ngân hàng đưa ra phương án tăng vốn thông qua phát hành cổ phần
cho cổ đông hiện hữu, cán bộ công nhân.Chẳng hạn như:
• Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank):
• Vốn điều lệ hiện nay là 1.000 tỷ đồng.
• Dự kiến việc tăng vốn đợt I: Phát hành 3,6 triệu cổ phiếu thưởng và phát
hành 94,6 triệu cổ phần cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ lên
2.000 tỷ đồng sẽ hoàn tất vào tháng 8
• Dự kiến việc tăng vốn đợt II: chào bán 100 triệu cổ phần cho cổ đông
hiện hữu để tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng vào tháng 11.
• Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
• Tăng vốn điều lệ từ 2.117 tỷ đồng lên 4.000 tỷ đồng trong năm
2010
• Đợt I: từ 2.117 tỷ đồng lên 2.456 tỷ đồng bằng cách phát hành cổ
phiếu để trả cổ tức và phát hành cổ phiếu thưởng với tỷ lệ 16,01%
trên tổng số cổ phần sở hữu của cổ đông.
• Phần còn lại sẽ tăng trong đợt 2.
12
Một số Ngân hàng “khôn ngoan” đã nhanh chân phát hành trái phiếu chuyển đổi, điển
hình:
• Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB): tháng 3/2010, SHB chào bán thành
công 15 triệu trái phiếu chuyển đổi với giá trị 1.500 tỷ đồng. Cùng với giá trị
1.500 tỷ đồng chào bán cổ phiếu lần này, cuối 2010, vốn điều lệ của SHB là 3.500
tỷ đồng và đến cuối quý 1/2011, ngân hàng này “bỏ túi” thêm 1.500 tỷ đồng, nâng
vốn điều lệ lên 5.000 tỷ đồng.
Niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng là một giải pháp để nâng cao vốn điều lệ của
các Ngân hàng nhỏ. Kế hoạch dự kiến niêm yết của một Ngân hàng trong năm 2010 như
sau:
• Navibank
• Ngày 3/6/2010, Navibank đã nộp hồ sơ niêm yết cổ phiếu của NH
lên HNX
• Vốn điều lệ thực góp tại thời điểm này là 1,000 tỷ đồng
• Kế hoạch đến tháng 11 tăng vốn lên 2,000 tỷ đồng
• Sau đó, phát hành thêm cổ phiếu để nâng vốn điều lệ lên 3,000 -
3,500 tỷ đồng
• Lý do để NH thực hiện tăng vốn theo từng giai đoạn là do cổ đông
lớn của NH là Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), hiện nắm
giữ 11% cổ phần đã quyết định không góp thêm vốn đầu tư vào
Navibank
Bên cạnh đó, một số ngân hàng ráo riết tìm đối tác nước ngoài để bán cổ phần và
tăng vốn điều lệ cho đủ mức vì không thể huy động thêm được nữa từ cổ đông trong
nước. Điển hình là:
• Ngân hàng Quốc tế (VIB) là ngân hàng đầu tiên trong năm nay bán cổ phần cho
cổ đông nước ngoài. Mới đây, VIB công bố đã bán 15% cổ phần cho Ngân hàng
Commonwealth of Autralia (CBA).
Còn những ngân hàng lớn có tiềm lực tài chính khá tốt như hàng cổ phần xuất
nhập khẩu Việt nam (Eximbank) (8.800 tỷ đồng)Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương tín
(Sacombank)(6700 tỷ đồng), Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)(7814) tỷ
đồng, Ngân,, LiênVietBank (3.300 tỷ đồng) ,Techcombank…cũng như các ngân hàng có
vốn điều lệ đã đạt quy định vẫ muốn tiếp tục tăng vốn điều lệ để độngkinh doanh của
mình.Chẳng hạn như:tăng cường nội lực cũng như hỗ trợ việc mở rộng hoạt động kinh
doanh.
_ Ngân hàng Sacombank đưa ra kế hoạch tăng vốn khá mạnh lên 9179 tỷ đồng
trong năm nay, trong đó gồm trả cổ tức cho cổ đông 15% bằng cổ phiếu, phát hành thêm
cổ phếu tỷ lệ 10:2 cho cổ đông hiện hữu với giá 12000 đồng/cổ phần, và phát hành thêm
2% cổ phần cho cán bộ ngân hàng.
_ ACB cũng có kế hoạch tăng vốn dự kiến là tăng 1563 tỷ đồng vốn điều lệ
bằng cách phát hành thêm cổ phiếu với tỷ lệ 5:1 cho cổ đông hiện hữu.
13
_ Các ngân hàng khác như ngân hàng Đông Á và Techcombank đều có kế
hoạch tăng thêm từ 1000-2500 tỷ đồng vốn điều lệ trong năm nay.
Do đây là các ngân hàng đã niêm yết và cũng là những ngân hàng cổ phần hàng
đầu nên việc phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu với giá không thấp hơn giá trị sổ sách
được xem là khả thi.
a) Những khó khăn, vướng mắc:
Tình hình kinh tế vĩ mô gặp nhiều bất ổn.
Theo ý kiến của nhiều lãnh đạo Ngân hàng thương mại và các chuyên gia, Nghị
định 141/2006/NĐ-CP được ban hành tháng 11.2006, thời điểm cổ phiếu ngân hàng đang
được mệnh danh là cổ phiếu vua. Thời điểm từ tháng 5/2006 – 6/2007 thị trường chứng
khoán Việt Nam khởi sắc mạnh mẽ (VNINDEX : 700-1170 điểm), là thời điểm “thiên
thời – địa lợi – nhân hòa” cho ngân hàng nào biết nắm bắt cơ hội, ngân hàng đó sẽ rút
ngắn được lộ trình tăng vốn. Và thực tế, đã có một số ngân hàng nắm bắt được cơ hội
vàng son đó.
Trong bối cảnh đó việc tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại ngỡ là rất
dễ dàng. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 bùng nổ Hệ thống tài chính - ngân hàng
phải gánh chịu những tổn thất nặng nề nhất, khó có thể phục hồi trong thời gian ngắn, tác
động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Thị trường chứng khoán Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung lao dốc theo.
Theo nhận định của các chuyên gia, năm 2010 là năm tích tụ tất cả những khó
khăn mà cuộc hủng hoảng tài chính gây ra, nhưng cũng là năm buộc tất cả các Ngân hàng
thương mại Việt Nam phải tăng đủ vốn pháp định theo quy định. Từ nay đến 31/12/2010
chỉ còn 3 tháng, các ngân hàng phải vừa tăng vốn, vừa đảm bảo các chỉ tiêu tài chính theo
quy định, trong khi thị trường chứng khoán chưa có dấu hiệu ủng hộ cho các ngân hàng
thương mại. Thêm vào đó, bước sang quý 2/2010 khủng hoảng nợ công một số nước
Châu Âu và nguy cơ lan sang Châu Á đã khiến tương lai của thị trường chứng khoán Việt
Nam đang trở nên bất ổn, khó lường, thanh khoản thị trường kém, giá cổ phiếu ngân hàng
càng thê thảm hơn. Đặc biệt là nền kinh tế đang có dấu hiệu tái lạm phát cao trở lại, do đó
nhiều chính sách từ kích cầu (chính sách nới lỏng tiền tệ) có thể chuyển sang thắt chặt
trong thời gian tới, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại vì tính thanh khoản của
thị trường chứng khoán bị tác động mạnh. Bài toán tăng vốn của các ngân hàng bằng
cách phát hành trái phiếu chuyển đổi hay cổ phiếu nay càng trở nên nan giải khi khả năng
thanh khoản của thị trường bị giảm sút.
Khó khăn cho các ngân hàng nhỏ chọn giải pháp “lên sàn”.
Gần đây, Ngân hàng Nà nước đã cho phép một số ngân hàng có vốn điều lệ 1000
tỷ đồng được niêm yết trên sàn chứng khoán để tăng cơ hội huy động đủ vốn điều lệ.
Niêm yết là giải pháp kỹ thuật để cổ phiếu ngân hàng tăng tính thanh khoản. Hy vọng thị
trường chứng khoán ấm lên, cơ hội tăng vốn của các Ngân hàng thương mại sẽ thuận lợi
hơn. Nhưng năm nay quá nhiều doanh nghiệp có ý định lên sàn, chưa kể nhiều ngân hàng
lớn cũng có kế hoạch niêm yết. Các ngân hàng nhỏ với mức độ đại chúng hóa thấp dù có
niêm yết cũng khó thu hút nhà đầu tư quan tâm. Các cổ đông nhỏ chắc chắn phải cân
nhắc vấn đề lợi nhuận là nên bỏ thêm tiền vào cho các ngân hàng nhỏ nâng vốn điều lệ
hay mua cổ phiếu của các ngân hàng lớn đang niêm yết trên sàn với giá không quá cao,
14
khó gặp phải rủi ro pha loãng vốn quá lớn vì tất cả các ngân hàng niêm yết đều có vốn
điều lệ trên 3000 tỷ, lại có cơ hội mua thêm cổ phiếu phát hành thêm trong năm nay. Các
ngân hàng nhỏ phát hành thêm quá nhiều cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng đến cổ đông do vốn
bị pha loãng quá cao, lợi nhuận khó tăng trưởng kịp. Chỉ có những cổ đông tâm huyết với
các ngân hàng nhỏ mới tiếp tục bỏ vốn vào đầu tư. Thêm vào đó, cổ phiếu của ngân hàng
nhỏ có thể giao dịch dưới mệnh giá, tính thanh khoản kém khiến cho đại hội cổ đông ở
những ngân hàng này trở nên căng thẳng. Đó là chưa kể việc các cổ đông còn đủ vốn để
tham gia vào cuộc tiếp vốn vào ngân hàng nữa không.
Cụ thể: tại đại hội cổ đông tổ chức vào tháng 4/2010, Navibank lấy ý kiến cổ
đông phát hành 200 triệu cổ phiếu bằng mệnh giá cho cổ đông hiện hữu và cán bộ công
nhân viên để tăng vốn từ 1.000 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng. Nhiều cán bộ công nhân viên
ngân hàng này cho rằng giá cổ phiếu ngân hàng đã thấp nhưng lại hạn chế chuyển
nhượng đến hai năm nên không hấp dẫn. Có ý kiến đề nghị Navibank tính đến phương án
ưu đãi bán dưới mệnh giá để khuyến khích cán bộ công nhân viên mua, phần bù dưới
mệnh giá sẽ trích từ quỹ phúc lợi của ngân hàng. Nhưng theo ông Đặng Thành Tâm,
thành viên hội đồng quản trị Navibank, theo quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước không được bán dưới mệnh giá. Nếu cổ đông, cán bộ công nhân viên không mua thì
ủy quyền cho hội đồng quản trị chào bán cho đối tác khác.
Thêm vào đó, Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 về “tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thương mại” thì tỷ lệ góp vốn của thể nhân và pháp nhân lần lượt là
10% và 20% vốn điều lệ (trước đó là từ 20-40%). Như vậy, cho dù cổ đông có tiềm ực tài
chính hùng mạnh thì cũng buộc phải nhường việc mua thêm cổ phần cho người khác.
Chật vật với cổ đông chiến lược
Trong thời điểm hiện nay, cổ phiếu ngân hàng không còn nằm trong danh mục ưu
tiên của nhà đầu tư trên thị trường. Việc tìm đối tác chiến lược trong nước đối với các
NHTMCP yếu thế cũng đang khép lại do các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước gần
như không được phép đầu tư vào các ngành nhạy cảm như ngân hàng, chứng khoán. Vì
thế, để hoàn thành việc tăng vốn, nhất thiết các ngân hàng nên tính đến việc tìm cổ đông
ngoại, bởi nếu chỉ trông chờ vào cổ đông trong nước, khả năng rất khó đạt mục tiêu. Tuy
nhiên, việc tìm kiếm các cổ đông chiến lược nước ngoài không dễ dàng trong bối cảnh
kinh tế toàn cầu hiện nay. Các ngân hàng nước ngoài hiện nay phải tập trung lo đối phó
với các rủi ro lớn do khủng hoảng tài chính gây ra, tất nhiên chưa tính đến việc mở rộng
đầu tư. Đó là chưa kể đến niềm tin của các cổ đông chiến lược nước ngoài đối với một số
NHTM cổ phần Việt Nam chưa tốt.
• Đại hội cổ đông của Ngân hàng Phương Đông (OCB) thông báo sẽ tăng
vốn thông qua việc phát hành từ thặng dư vốn, phát hành mới cho cổ đông
hiện hữu, bán thêm cho đối tác chiến lược nước ngoài và bán chọn lọc cho
đối tác trong nước. Tuy nhiên, theo ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc Ngân
hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, OCB nên cân nhắc kế
hoạch tăng vốn lên 20% cho đối tác nước ngoài là PNB Paripas, vì đến
thời điểm này Chính phủ chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài sở hữu vốn
của một ngân hàng trong nước không quá 15%.
15
Đau đầu với bài toán tỷ suất sinh lời. Trong bối cảnh các ngân hàng lớn như
ACB, Sacombank, Techcombank… có kế hoạch tăng năng lực tài chính, việc thực hiện
mục tiêu 3.000 tỷ đồng của các ngân hàng nhỏ càng khó khăn. So với chỉ tiêu lợi nhuận
xây dựng cũng như mức thực hiện được của năm trước, kế hoạch lợi nhuận được các
ngân hàng nhỏ đưa ra cho năm nay gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng
vốn điều lệ, tỷ suất sinh lời trên vốn 3.000 tỷ đồng vẫn khiêm tốn.
• OceanBank đưa ra chỉ tiêu 420 tỷ đồng so với năm 2009 là 300 tỷ đồng.
• HDBank dự kiến thu về 300 tỷ lợi nhuận trước thuế năm 2010 so với năm
trước 255 tỷ đồng
• GiaDinhBank đưa ra mức lợi nhuận 200 tỷ đồng so với 72 tỷ đồng năm
trước.
• NamABank có kế hoạch tăng đến 294,37% so với năm trước nhưng cũng
chỉ ở mức 280 tỷ đồng.
• TrustBank dự kiến lợi nhuận trước thuế năm 2010 là 290 tỷ đồng so 74 tỷ
đồng năm ngoái…
Nhiều ngân hàng nhỏ cho biết kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng trong thời
điểm hiện nay phải tổng hòa cả yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ, ngành, cổ
đông. Những năm trước tín dụng các ngân hàng nhỏ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực ngân
hàng, nhưng năm nay theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước tăng trưởng tín dụng của hệ
thống Ngân hàng thương mại không được vượt quá 25%. Điều này đang là bài toán nan
giải cho các ngân hàng vì hầu như các hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng nhỏ vẫn
còn khiêm tốn, 70-80% lợi nhuận của các ngân hàng nhỏ vẫn chủ yếu từ hoạt động tín
dụng.
Ông Đỗ Công Chính, Chủ tịch hội đồng quản trị VietABank, thừa nhận mạng lưới
hoạt động khiêm tốn, thiếu nhân lực giỏi, trình độ công nghệ và uy tín với tổ chức quốc tế
hạn chế nên các ngân hàng nhỏ vẫn khó có thể cạnh tranh mảng dịch vụ thanh toán và
kinh doanh ngoại tệ trong và ngoài nước với khách hàng. Vì vậy, năm nay các ngân hàng
nhỏ sẽ vẫn phải trông chờ vào hoạt động tín dụng là chính.
Thực tế hiện nay, nguồn vốn huy động thị trường 2 (liên ngân hàng) ở các ngân
hàng nhỏ chiếm khá cao trong tổng huy động vốn. Trong khi theo yêu cầu của Ngân hàng
Nhà nước các ngân hàng không được lấy vốn liên ngân hàng cho vay trên thị trường 1.
Điều này sẽ ảnh hưởng không ít đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Muốn tăng
trưởng tín dụng, phải tăng trưởng huy động. Do vậy ngân hàng nhỏ sẽ phải chấp nhận
tăng lãi suất cao mới có thể hút vốn, vì thế chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra cũng khó
mở rộng, dù đã được cho vay thỏa thuận lãi suất.
Để bù cho nguồn thu từ các hoạt động khác bị sụt giảm, hầu hết các ngân hàng
nhỏ đều có kế hoạch sử dụng vốn điều lệ tăng lên trong năm nay vào hoạt động đầu tư tài
chính và góp vốn liên doanh dài hạn với tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, các ngân hàng này đều
thừa nhận những khoản đầu tư tài chính những năm trước chưa mang lại nhiều lợi nhuận,
16
do các ngân hàng không dám “lướt sóng” mà chủ yếu đầu tư dài hạn. Phần lớn các doanh
nghiệp ngân hàng góp vốn mua cổ phần là doanh nghiệp mới thành lập, đang ở trong giai
đoạn đầu tư nên hiệu quả góp vốn chưa cao. Vì vậy, hoạt động đầu tư tài chính trước mắt
chưa đóng góp lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
III . Những ý kiến xung quanh vấn đề tăng vốn điều lệ:
1. Người trong cuộc nói gì?
Cuộc chạy nước rút tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng vào cuối năm nay khiến
không ít ngân hàng ướt mồ hôi. Các NHTM nhận định như thế nào về vấn đề này?
1.1 Ngân hàng đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc tăng vốn:
Có nhà băng cho rằng, yêu cầu tăng vốn điều lệ thật ra đã có sự chuẩn bị từ rất lâu
nên hoàn toàn nằm trong khả năng điều hành của ngân hàng. Ông Nguyễn Duy Hưng,
Tổng giám đốc Ngân hàng VietBank cho biết, lộ trình tăng vốn của ngân hàng trên thực
tế đã được chuẩn bị ngay từ khi có nghị định 141 của Chính phủ ban hành. Đại hội đồng
cổ đông tháng 4/2010 chính thức thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 1.000 tỷ lên
3.000 tỷ trong quý IV năm 2010. Ông Hưng nói "Việc tăng vốn này hoàn toàn không đột
ngột hay quá khó khăn vì ngân hàng đã chuẩn bị kỹ từ trước đó"
1.2 Khó khăn trong vấn đề tăng vốn:
Tuy nhiên, không phải tất cả NHTM đều sẵn sàng cho vấn đề tăng vốn. Phó giám
đốc một ngân hàng cổ phần thuộc loại trung bình có trụ sở tại Hà Nội nói, đây là một lộ
trình tăng vốn chưa bao giờ có từ trước đến nay, tăng đột biến cả về số tương đối lẫn
tuyệt đối. Trong tình hình hiện nay, nếu không thật sự cố gắng, nhiều ngân hàng sẽ không
theo kịp mức tăng vốn này, vì để đảm bảo mức sinh lời hợp lý thì ngân hàng phải tăng
trưởng lợi nhuận đồng thời mở rộng quy mô hoạt động tương ứng với tốc độ tăng vốn
điều lệ.
Ông Hoàng Văn Toàn, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đại Tín (TrustBank), cho rằng
tăng vốn trong bối cảnh hiện nay không đơn giản, ngân hàng phải tích cực vận động cổ
đông lớn đồng cảm, chia sẻ khó khăn. Để tạo niềm tin cho cổ đông, ngân hàng đang nỗ
lực niêm yết cổ phiếu trong năm nay. Ông nói: “Hiện nay dù TrustBank đã chọn được cổ
đông chiến lược nước ngoài nhưng chưa đồng ý cho họ tham gia góp vốn vì thị giá của cổ
phiếu ngân hàng hiện không cao. Không thể bán giá thấp gây thất vọng cho cổ đông hiện
hữu”
1.3 Liệu tăng vốn sẽ đảm bảo an toàn?
Quan điểm của NHNN khi đưa ra lộ trình tăng vốn này là nhằm đảm bảo tính an
toàn cho từng ngân hàng và cho cả hệ thống. Những ngân hàng đồng tình với quan điểm
này thì cho rằng tăng vốn điều lệ là một biện pháp quan trọng để đảm bảo an toàn cho
ngân hàng. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến không đồng tình
17
Ông Toàn cho rằng: không nhất thiết cứ phải tăng vốn điều lệ thì độ an toàn của
ngân hàng sẽ được nâng cao. Nếu NHNN muốn tăng độ an toàn của các ngân hàng lên thì
có thể ra quy định buộc phải nâng hệ số an toàn lên ví dụ 12% như đang áp dụng ở các
nước phát triển. Lúc đó các ngân hàng nào có vốn điều lệ thấp so với quy mô hoạt động
của mình thì buộc lòng phải tăng vốn lên cho đủ hoặc giảm quy mô hoạt động của mình
xuống. Nếu không thực hiện, NHNN hoàn toàn có thể buộc các ngân hàng đó đóng cửa
hoặc sáp nhập, hợp nhất
1.4 Áp lực tăng quy mô hoạt động
Thêm một vấn đề được nhiều ngân hàng quan tâm, đó là tốc độ tăng trưởng quy
mô hoạt động cũng phải phù hợp với tốc độ tăng vốn điều lệ theo lộ trình ngân hàng đặt
ra.
Ông Thomas Tobin, Tổng giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam, nói: “Một mức
vốn điều lệ tối thiểu là cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng mới thành lập có đủ khả năng
để tăng trưởng và hoạt động an toàn. Nhưng sau đó, mức vốn này nên phù hợp với quy
mô của từng ngân hàng”
Ông Tobin nói nhóm Banking Work Group do ông làm chủ tịch đồng ý rằng cần
phải có quy định về mức vốn tối thiểu để bảo vệ thị trường và khách hàng của ngân hàng.
“Tuy nhiên mức vốn tối thiểu và thời gian để đáp ứng mức vốn đó cần phải được suy xét
thật kỹ. Chúng tôi nghĩ mức đề xuất gần đây nhất là 5.000 tỉ đồng cho năm 2012 và
10.000 tỉ đồng cho năm 2015 là quá nhiều và quá nhanh”. Ông Tobin cũng e ngại rằng
một khi các ngân hàng tăng mạnh vốn huy động thì buộc họ cũng phải tăng mạnh việc
cho vay để khiến số vốn vừa huy động được đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn đối với
những cổ đông đã bỏ tiền đầu tư.
Lãnh đạo một ngân hàng khác cho biết các ngân hàng phải tăng vốn huy động lên
tương đương với vốn điều lệ của mình, mà tình hình hiện nay đâu dễ đẩy nhanh vốn huy
động và có thể phát sinh nhiều tiêu cực khi các ngân hàng chưa đạt chuẩn tìm cách tăng
nhanh vốn huy động của mình. Thêm vào đó, với mức vốn huy động như hiện nay, các
ngân hàng còn sử dụng chưa hết, tăng nữa thì biết để làm gì, và lấy lãi đâu ra để trả cổ tức
cho cổ đông. “Nếu vốn huy động tăng cao mà ngân hàng không biết đầu tư vào đâu, sinh
ra làm bậy thì càng gây nguy hiểm cho hệ thống”,
1.5 Nỗi lo kinh doanh khi quy mô vốn tăng so với trước:
Thừa nhận sẽ có thách thức sau khi tăng lên đủ mức vốn 3.000 tỷ đồng, ông Đào
Trọng Khanh, Tổng giám đốc Ngân hàng Tiên Phong cho rằng, việc tăng vốn quá nhanh
sẽ sinh ra nhiều thách thức. Thứ nhất là năng lực quản trị theo quy mô lớn và thứ hai là
áp lực lợi nhuận trên đồng vốn. "Chắc chắn lợi nhuận trong những năm đầu sẽ ở mức
thấp và chỉ có thể nâng dần trong những năm sau đó chứ không thể tăng song hành như
tốc độ tăng vốn điều lệ”
2. Ý kiến của người lập chính sách
Việc tăng vốn pháp định là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Hiện nay có hai kiểu hệ thống ngân hàng trên thế giới.
18
Thị trường nằm trong tay một số ngân hàng lớn như Singapore và Malaysia.
Hệ thống này tạo ra sự ổn định rất cao cho thị trường nhưng cũng xuất hiện
nhiều dấu hiệu của sự độc quyền và kìm hãm sự cạnh tranh tự do.
Trong khi đó, ở một số thị trường như Hồng Kông thì có rất nhiều ngân hàng
nhỏ hoạt động, kiểu thị trường này giúp tạo ra sự cạnh tranh tự do, nhưng khả
năng ổn định tiền tệ quốc gia sẽ khó khăn hơn.
Do vậy, lựa chọn mô hình nào sẽ là quyết định của người làm chính sách. Như
vậy, ý định của những người làm chính sách đã rõ khi đưa ra định hướng về mức vốn
điều lệ tối thiểu đối với các ngân hàng.
Vậy ý định của NHNN là muốn giới hạn số lượng ngân hàng toàn quốc trong thời
gian tới, nên tôi nghĩ hạn chế hoạt động của các ngân hàng chưa đáp ứng quy định về vốn
cũng là một biện pháp nên xem xét trước khi bắt các ngân hàng hợp nhất, sáp nhập.
Thứ hai: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế
VN từng bước mở cửa dịch vụ ngân hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ thống ngân hàng
cạnh tranh bình đẳng trên bình diện quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù hợp và thống
nhất. Hơn bao giờ hết sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt,
thách thức đối với các NHTMVN càng gia tăng khi Chính phủ VN tháo dỡ rào cản đối
với các ngân hàng thương mại nước ngoài (NHTMNNg) và tiến đến xóa bỏ những bảo hộ
của Nhà nước đối với ngân hàng trong nước. Vì vậy Việc tăng vốn pháp định giúp tăng
năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTMVN trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Thứ ba: Hệ số an toàn vốn tối thiểu theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và áp
lực tăng vốn điều lệ tại Nghị định 141 là cơ hội để sàng lọc ngân hàng thương mại nhỏ,
yếu và đẩy nhanh tiến trình mua bán - sáp nhập (M&A).
Vấn đề cơ bản của quy định về vốn điều lệ của một ngân hàng không hẳn ở chỗ
một nền kinh tế có quá nhiều hay quá ít ngân hàng, hay ngân hàng quá nhỏ. Mấu chốt của
vấn đề vốn điều lệ là đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính Một hệ thống tài chính an
toàn khi các ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR – capital adequacy ratio) cao, nói cách
khác có đủ vốn để “chịu trận” khi lỗ. Nếu vốn thấp mà lỗ nặng, ngân hàng sẽ phá sản và
vì đặc thù của loại hình kinh doanh này sẽ rất dễ kéo toàn hệ thống sụp đổ theo, liên luỵ
cho cả nền kinh tế.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy cho rằng:
Một điểm đáng lưu ý khác, theo Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 về
“tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại” thì tỷ lệ góp vốn của thể nhân và pháp
nhân lần lượt là 10% và 20% vốn điều lệ. Từ 2010, vốn điều lệ tối thiểu mỗi ngân hàng
19
được nâng lên 3.000 tỷ đồng và có ý kiến rằng, nếu chất lượng hoạt động của một ngân
hàng nào kém cỏi thì mức độ ảnh hưởng đến hệ thống sẽ rất khó lường.
Đã có một tình huống được giả định rằng, một “đại gia” nào đó gửi vốn cho các
thể nhân đứng tên ở vài ba ngân hàng. Sau đó, “đại gia” này dùng các cổ đông “hờ” gây
áp lực cho hội đồng quản trị và ban điều hành phải giải ngân cho các dự án của mình.
Trong điều kiện thị trường ổn định thì có thể “chưa làm sao” nhưng chẳng may “đại gia”
mất thanh khoản thì thử hỏi hậu họa sẽ như thế nào?
Cũng theo Thống đốc thì mức vốn góp theo Nghị định 59 sẽ giảm còn một nửa khi
Luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng được thực thi. Cùng đó, Ngân
hàng Nhà nước sẽ bắt buộc cổ đông ngân hàng phải chứng minh nguồn gốc vốn góp,
thay vì chỉ chung chung “không vi phạm pháp luật” như lâu nay. Những cổ đông có tỷ lệ
vốn góp nhiều hơn mức luật cho phép thì phải rút bớt hoặc sang nhượng lại.
Như vậy, mức vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng, sự minh bạch và giảm tỷ lệ đối với
nguồn vốn góp được coi là cơ hội tốt để nhà nước sàng lọc, loại bỏ những cơ thể ốm yếu
trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, việc gia tăng vốn pháp định, an ninh tài chính là vấn đề quan trọng,
sống còn trong hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường; bao trùm lên tất cả các
hoạt động của ngân hàng và là tiêu chí cuối cùng đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng trong mối tương tác với hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Sự cần thiết bảo đảm an ninh tài chính ngân hàng nằm ngay trong yếu tố kinh tế xuất phát
từ bản thân hoạt động ngân hàng và mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động ngân hàng
và hoạt động kinh tế xã hội.
Trên phạm vi toàn cầu, quan điểm về an ninh hoạt động của các tổ chức tín dụng
nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng bao trùm nội dung cơ bản sau:
An ninh trong nguồn vốn.
An ninh trong sử dụng vốn.
An ninh trong sinh lời.
IV. Vấn để sáp nhập, giải thể:
1. Việc sáp nhập tổ chức tín dụng được quy định ở thông tư 04/2010/TT-NHNN
1.1 Đối tượng điều chỉnh: (điều 1)
Ngân hàng thương mại;
20
Công ty tài chính;
Công ty cho thuê tài chính;
Tổ chức tín dụng hợp tác.
Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc sáp nhập tổ chức tín dụng.
1.2 Khái niệm về hợp nhất, sáp nhập, mua lại: (điều 2)
Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (gọi là tổ chức
tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp
nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín
dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập.
1.3 Thẩm quyền chấp thuận việc sáp nhập tổ chức tín dụng ( Điều 3 )
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc sáp nhập tổ chức tín dụng.
1.4 Nguyên tắc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng ( Điều 5 )
Nguyên tắc thỏa thuận: Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập thỏa thuận giải quyết các
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên có liên quan phù hợp với các quy định của pháp luật hiện
hành.
Nguyên tắc bảo vệ khách hàng: Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập phải đảm bảo không
ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đặc biệt quyền lợi của người gửi tiền tại từng tổ chức
tín dụng tham gia sáp nhập.
Nguyên tắc bảo mật thông tin: Các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc và các tổ chức, cá nhân có liên quan của các tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập phải có
trách nhiệm bảo mật thông tin để các tổ chức tín dụng này được hoạt động ổn định trước khi Đề
án sáp nhập được cơ quan có thẩm quyền quyết định của tổ chức tín dụng thông qua.
Nguyên tắc cung cấp thông tin:
Trong quá trình tiến hành các thủ tục liên quan đến việc sáp nhập tổ chức tín dụng,
Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ, thống
nhất, trung thực, chính xác và không phân biệt cho các chủ sở hữu của tất cả các bên
tham gia sáp nhập và các tổ chức khác có thẩm quyền các thông tin về quá trình sáp
nhập tổ chức tín dụng, trong đó có tình hình tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ
chức tín dụng;
Các hồ sơ, tài liệu và quảng cáo của các tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập phải đảm
bảo nguyên tắc thận trọng, chính xác, không gây hiểu nhầm.
Nguyên tắc ra quyết định sáp nhập:
Cơ quan có thẩm quyền quyết định của các tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập thông
qua quyết định về việc sáp nhập theo điều kiện, thể thức họp và biểu quyết theo quy
21
định của pháp luật hiện hành.
Đối với những vấn đề liên quan đến tổ chức hợp nhất, điều kiện, thể thức họp và biểu
quyết thông qua các quyết định do các tổ chức tín dụng bị hợp nhất thỏa thuận, nêu
cụ thể tại Đề án hợp nhất và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
1.5 Các hình thức sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng ( Điều 6 )
Các hình thức sáp nhập:
a) Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác sáp nhập vào một
ngân hàng.
b) Công ty tài chính sáp nhập vào một công ty tài chính.
c) Công ty cho thuê tài chính sáp nhập vào một công ty cho thuê tài chính.
Điều kiện để được sáp nhập ( Điều 9 )
Không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại Luật Cạnh tranh;
Có Đề án sáp nhập bao gồm tối thiểu các nội dung quy định tại Điều 12 Thông tư này. Đề
án sáp nhập có nội dung không được trái với Hợp đồng sáp nhập;
Tổ chức tín dụng nhận sáp nhập sau khi sáp nhập đảm bảo mức vốn điều lệ tối thiểu bằng
mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật hiện hành.
1.6 Điều kiện để được hợp nhất ( Điều 13 )
Không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Có Đề án hợp nhất bao gồm tối thiểu các nội dung quy định tại Điều 16 Thông tư này. Đề
án hợp nhất có nội dung không được trái với Hợp đồng hợp nhất.
Tổ chức tín dụng hợp nhất phải đảm bảo mức vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp
định theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Những vấn đề xoay quay việc sát nhập của NHTM
Theo quyết định của ngân hàng nhà nước thì đối với các tổ chức tín dụng không
trình ngân hàng nhà nước chấp thuận tăng vốn điều lệ hoặc không được ngân hàng nhà
nước chấp thuận tăng vốn điều lệ để đảm bảo mức vốn pháp định tại Nghị định 141 thì
chậm nhất ngày 30/9/2010, tổ chức tín dụng phải có phương án chấm dứt tư cách pháp
nhân của tổ chức tín dụng theo luật định (bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại, tự giải
thể…) trình ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố (đối với tổ chức tín dụng cổ
phần) hoặc Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (đối với tổ chức tín dụng không phải
tổ chức tín dụng cổ phần). Và trước quyết định này của ngân hàng nhà nước thì có rất
nhiều ý kiến về làn sóng sát nhập của các ngân hàng thương mại trong năm 2010. Nổi bật
22
lên trong đó là hai luồng ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau:
Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng: Sẽ rất khó xảy ra tình trạng sát nhập của
các ngân hàng thương mại trong năm 2010 và hoàn toàn không ủng hộ chính
sách sát nhập các NHTM của ngân hàng nhà nước vì một vài lí do sau đây:
• Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng được sự quan tâm lớn của rất nhiều
cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Thể hiện qua việc số lượng đơn xin
cấp phép thành lập ngân hàng lớn, như năm 2007 có tới hàng chục bộ hồ
sơ xin cấp phép thành lập mới ngân hàng và tới năm 2009 thì chỉ có một
số ít ngân hàng được cấp phép thành lập mới, nhiều tổ chức và cổ đông
của các ngân hàng không được cấp phép thành lập cũng đã và đang tìm
kiếm mua lại hoặc góp vốn vào các ngân hàng khác. Số lượng các Ngân
hàng nước ngoài xin thành lập chi nhánh tại Việt Nam cũng tăng lên đáng
kể trong năm vài năm gần đây.
Ngành ngân hàng vẫn là một ngành được xác định là còn nhiều tiềm năng phát
triển tại Việt Nam, vẫn còn nhiều vùng và khu vực dân cư chưa có điều kiện sử dụng dịch
vụ ngân hàng, còn nhiều sản phẩm dịch vụ có thể triển khai tại Việt Nam, số lượng khách
hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng qua từng năm cùng với lộ trình
thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam.
Phần lớn nguồn vốn cung cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh hiện nay là từ hệ
thống tín dụng của các ngân hàng. Các ngân hàng nhỏ đang tìm cách nâng vốn điều lệ để
đáp ứng đúng quy định về lộ trình tăng vốn được đề ra vì vậy năm 2010 sẽ không tạo ra
làn sóng sáp nhập ngân hàng mà chỉ có thể có sự chuyển dịch về cơ cấu chủ sở hữu đối
với các ngân hàng có khó khăn trong việc tăng vốn điều lệ, khả năng cuối năm 2010 tất
cả các ngân hàng nhỏ sẽ nâng vốn điều lệ thành công lên 3000 tỷ.
• Khi các ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn điều lệ, thì buộc
phải sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai ngân hàng có
hệ số an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập hệ số này không thể tăng dù vốn
điều lệ tăng. Kể cả nếu bỏ qua hệ số an toàn vốn, liệu rủi ro hệ thống có
giảm đi khi các ngân hàng nhỏ sáp nhập lại với nhau không? Ngân hàng
nhà nước lập luận rằng với số ngân hàng ít đi họ sẽ giám sát chặt chẽ hơn
và bản thân các ngân hàng sẽ cẩn thận hơn, điều hành tốt hơn là những
ngân hàng nhỏ manh mún hiện nay. Trước hết cần xác định, ngân hàng
23
càng lớn thì hoạt động và sản phẩm càng phức tạp, ngân hàng nhà nước sẽ
càng khó giám sát và kiểm tra để phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro. Ngoài vấn
đề quá lớn để thất bại, nhiều nhà kinh tế như Krugman, Johnson đã cảnh
báo hiện tượng “quá lớn để quản lý”. Nghĩa là ngân hàng lớn sẽ có nhiều
cách để “lách luật”, hoặc tệ hơn nữa là tìm cách ảnh hưởng tới quá trình
làm luật/chính sách để có lợi cho mình.
Lập luận cho rằng các ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động
quá liều lĩnh là có một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các ngân hàng nhỏ
và/hoặc buộc tăng vốn điều lệ không giải quyết được nguyên nhân căn bản. Chuyên môn
và nghiệp vụ ngân hàng không phải là điều quá khó để các ngân hàng nhỏ không thể học
được (với sự giúp đỡ của ngân hàng nhà nước). Việc điều hành những ngân hàng nhỏ có
1 – 2 chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một ngân hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và
cả ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự đào tạo, giúp đỡ, giám sát của
ngân hàng nhà nước nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các ngân hàng nhỏ sau khi sáp nhập
với nhau không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ chuyên môn
tăng lên.
Nếu thực sự tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ hoạt động, theo quy luật mèo
nhỏ bắt chuột nhỏ, thì sẽ không xảy ra tình trạng, nhỏ cản mũi lớn, làm rối thị trường.
Nếu ngân hàng nhỏ chỉ được hoạt động trong phạm vi một vài tỉnh, với vài chi nhánh, chỉ
huy động và cho vay các món nhỏ, đúng với năng lực và các giới hạn luật định, thì sao có
thể ảnh hưởng xấu đến thị trường?
Lo sợ các ngân hàng nhỏ làm loạn thị trường, nên sáp nhập nhằm giảm bớt ngân
hàng, thì liệu có mâu thuẫn khi dẫn tới khả năng một hoặc một nhóm ngân hàng lớn sẽ
thao túng thị trường tài chính, tiền tệ? Cho rằng sắp xếp lại, để càng ít ngân hàng, càng dễ
kiểm soát, liệu có tạo ra một nghịch lý khác là ngân hàng càng lớn, thì càng phức tạp và
lại càng khó kiểm soát?
Một ngân hàng yếu kém thì cần phải chấm dứt hoạt động, nếu đó là yếu kém do
nguyên nhân khác. Còn nếu chỉ vì lý do không đạt được một mức vốn pháp định quá cao
so với mặt bằng nền kinh tế, mà lại nhập vào nhau, thì chỉ là phép cộng giản đơn, không
làm tăng thêm sức mạnh gì cho chính nó cũng như cho toàn hệ thống, thậm chí còn là
ngược lại.
Sự không đồng tình với sáp nhập ngân hàng là dựa vào quan điểm rằng Việt Nam
24
rất cần những ngân hàng nhỏ. Bởi vì trên thế giới, ngay tại các cường quốc kinh tế, bên
cạnh các ngân hàng khổng lồ vẫn tồn tại các ngân hàng nhỏ. Chăng hạn như ở Mỹ hiện
nay vẫn còn tồn tại các ngân hàng nhỏ, trong đó hơn phân nửa là các ngân hàng có tổng
tài sản nhỏ hơn 100 triệu đô la. Đặc điểm chung của các ngân hàng này: là những ngân
hàng có quy mô nhỏ và tập trung phần lớn hoạt động vào khu vực cộng đồng nơi mà hội
sở được thiết lập. Vì phạm vi phục vụ nhỏ nên không nhất thiết phải có quy mô lớn và
quy mô nhỏ sẽ phù hợp trong một phạm vi hoạt động nhất định miễn là biết giới hạn,
đừng tham vọng bành trướng quá của mình.
Các ngân hàng nhỏ luôn có vai trò bổ sung, thay thế cho những khoảng trống mà
các ngân hàng lớn khó mà phục vụ tốt hơn. Các ngân hàng lớn thường có vẻ xa cách
khách hàng cả về địa lý và tâm thức. Công tác quản trị của các ngân hàng lớn chủ yếu là
dựa vào thông tin tài chính “cứng”, các mô hình quản lý bằng điện toán phức tạp, các
quyết định tập trung hóa. Họ quen với việc đánh giá tín nhiệm khách hàng bằng những dữ
liệu định lượng thống kê, báo cáo tài chính. Khi phải lựa chọn, chăng hạn khi xem xét
hàng trăm, hàng ngàn hồ sơ vay vốn, họ đương có nhiều sự lựa chọn và sẽ ưu tiên cho các
khách hàng vừa và lớn vì các khách hàng này tỏ ra phù hợp với chính sách và phương
cách quản trị của họ. Tức là quan hệ khách hàng của các ngân hàng lớn chủ yếu dựa vào
quan hệ giao dịch trong khi hoạt động của các ngân hàng nhỏ phần nhiều dựa vào quan
hệ vì cho vay nhỏ thường phát sinh quan hệ gần gũi, thâm giao, do đó các ngân hàng nhỏ
cũng tiết kiệm được chi phí trong việc phân tích thẩm định khách hàng.
Nhớ lại thời kỳ trước khi có Nghị định 141/2006/NĐ-CP ở Việt Nam, bên cạnh
các ngân hàng cổ phần đô thị, đã tồn tại và phát triển trong một thời gian dài các ngân
hàng cổ phần nông thôn. Các ngân hàng cổ phần nông thôn đã trải qua những thăng trầm
nhất định, nhưng qua thời gian, một số ngân hàng đã khẳng định khá tốt vai trò phục vụ
các doanh nghiệp nhỏ, cá nhân, nông hộ và khách hàng như Kiên Long, Mỹ Xuyên ở
vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Các ngân hàng này này chịu sự hạn chế trong đa dạng
hóa về mặt địa lý, nên chỉ có thể giới hạn phạm vi hoạt động trong một tỉnh thành nhất
định. Trào lưu chuyển đổi từ ngân hàng nông thôn lên ngân hàng đô thị cùng Nghị định
141/2006/NĐ-CP đã mặc nhiên “xóa sổ” mô hình ngân hàng nông thôn. Nền kinh tế Việt
Nam nói chung và nói riêng là khu vực kinh tế nông thôn, kinh tế nông hộ, thậm chí cả
khu vực kinh tế phi chính thức vẫn luôn cần đến dịch vụ cho vay vừa và nhỏ. Vì vậy sự
tồn tại các ngân hàng nhỏ là một sự tồn tại khách quan đối với nền kinh tế.
25