Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Quan điểm của các mác về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và sự vận dụng của đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trường ở việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.59 KB, 40 trang )

lOMoARcPSD|12114775

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
----------

MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC MÁC VỀ HÀNG HÓA,
SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TA TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
LỚP HP: 203POL10601 – Chiều thứ 5
SVTH: Nguyễn Dương Bảo Châu – 201A160154
Trần Nhật Lệ Hoa – 201A160180
Nguyễn Thị Minh Nguyệt – 201A160184
Nguyễn Thị Thanh Thảo – 201A160163
Lê Huyền Trang – 201A160161
GVHD: TS. Nguyễn Hữu Vượng

TP. Hồ Chí Minh, tháng 08, năm 2021


lOMoARcPSD|12114775

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
….…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………….………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………..……………………………………..
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 08 năm 2021
Giảng viên hướng dẫn

BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THAM GIA CỦA CÁC THÀNH VIÊN
STT

Họ và tên

MSSV

% tham gia

1

Nguyễn Dương Bảo Châu

201A160154

100%

2

Trần Nhật Lệ Hoa


201A160180

100%

3

Nguyễn Thị Minh Nguyệt

201A160184

100%

4

Nguyễn Thị Thanh Thảo (NT)

201A160163

100%

5

Lê Huyền Trang

201A160161

100%

2



lOMoARcPSD|12114775

LỜI CẢM ƠN
Qua khoảng thời gian học tập và nghiên cứu học phần “Kinh tế chính trị Mác Lênin”, chúng em xin chân thành cảm ơn đến thầy Nguyễn Hữu Vượng, thầy đã tận tình
giảng dạy, hướng dẫn và đem lại cho chúng em những nguồn kiến thức sâu sắc về lý luận
chính trị, tạo điều kiện cho chúng em thực hiện bài tiểu luận này. Đây chắc chắn sẽ là
những kiến thức quý báu, là hành trang để chúng em có thể vững bước sau này.
Chúng em cũng xin cảm ơn đến bộ phận thư viện đã cho chúng em mượn tài liệu và
sách tham khảo để làm bài một cách có hiệu quả nhất
Hơn nữa, chúng em gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bậc phụ huynh đã quan tâm, bảo ban,
tạo điều kiện cho chúng em được học tập tại ngôi trường Đại học Văn Hiến,
Với một người là sinh viên năm nhất như chúng em, việc làm tiểu luận cịn rất mới
mẻ do đó câu văn cịn nhiều sai sót. Rất mong q thầy đánh giá, góp ý để bản than
chúng em rút kinh nghiệm và bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Trân trọng.

3


lOMoARcPSD|12114775

MỤC LỤC

I.

PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 5
1. Đặt vấn đề................................................................................................................. 5
2. Nội dung của đề tài .................................................................................................. 6


II. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................... 7
1. Lý luận của Các Mác về hàng hóa và sản xuất hàng hóa ....................................... 7
1.1. Sản xuất hàng hóa .................................................................................................. 7
1.2. Hàng hóa ................................................................................................................ 9
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trƣờng trong thời kì
đổi mới ........................................................................................................................... 14
2.1. Khái niệm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 14
2.2. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ..................................................................................................................... 15
2.3. Sự vận dụng của Đảng ta và những vấn đề cần được tiếp tục xem xét và hoàn
thiện ............................................................................................................................ 17
III. PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................... 21
IV. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 23
V. BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ ....................................................................................... 24

4


lOMoARcPSD|12114775

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Lý do chọn đề tài

Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng nhiều tiêu chí, trong đó
có tiêu chí về sự phát triển kinh tế ở những thời kỳ, những giai đoạn khác nhau. Từ
chỗ ban đầu thực hành một “nền kinh tế cướp đoạt” (theo cách nói của Ph. Ăngghen), con người đã phải trải qua hàng vạn năm để biết dùng lửa nấu chín thức ăn và
sưởi ấm, biết thuần hóa súc vật, biết chăn ni, biết làm nghề nông, biết chế tạo ra
những vật phẩm đơn giản đáp ứng nhu cầu đơn giản và rất hạn chế trong một phạm

vi cộng đồng nhỏ hẹp. Dần dần, khi một cộng đồng có thừa một loại sản phẩm nào đó
đã được làm ra nhưng lại cần đến những loại sản phẩm khác mà cộng đồng khác dư
thừa thì sự trao đổi bắt đầu diễn ra. Sản xuất phát triển thì sự trao đổi ấy diễn ra ngày
càng thường xuyên hơn trên phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Như vậy, từ hình thái
kinh tế tự nhiên, nhân loại chuyển dần lên một hình thái kinh tế cao hơn là sản xuất
hàng hóa - đó là kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa ra đời là một bước tiến lớn
trong lịch sử nhân loại, đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế, cho tới nay nó đã phát
triển và đạt tới trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế thị
trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận
dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trị của con người
chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển. Trước đây, C. Mác
đã từng nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mỗi người đều coi
người khác là phương tiện để lợi dụng. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặt con người lên hàng đầu, coi con người là động
lực nhưng cũng là mục tiêu của sự phát triển. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương không đợi đến khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các mục tiêu xã
hội. Kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước
Việt Nam vận dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trị
của con người chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển. Với
những lý do trên, nhóm em đã chọn đề tài “Quan điểm của Các Mác về hàng hóa,
sản xuất hàng hóa và sự vận dụng của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam trong thời kì đổi mới” để hồn thành bài tiểu luận cuối kì của học
phần này.

1.2. Tình hình nghiên cứu
Theo báo Quân đội Nhân dân đăng ngày 21/05/2021 - Bài viết “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giải đáp sâu sắc về nhiều vấn đề mấu

chốt của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
5


lOMoARcPSD|12114775

Theo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đăng ngày 31/10/2020 - về: Nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ, luôn vận
động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.
Theo Tạp chí cơng thương đăng ngày 13/01/2021 - Bài viết: Giá trị và sức sống
của lý thuyết hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.

1.3. Cái mới của đề tài
Bên cạnh những đề tài đã có sẵn, cái mới của đề tài này chính là nghiên cứu kĩ
càng hơn về Quan điểm về hàng hóa, sản xuất hàng hóa theo chủ nghĩa Mác Lênin.
Từ đó cho ta hiểu rõ hơn về sự vận dụng của Đảng ta trong việc phát triển nền kinh tế
thị trường trong thời kì đổi mới.

1.4.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tìm ra quan điểm của Các Mác về hàng hóa, sản xuất hàng hóa và sự vận dụng
của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trường trong thời kì đổi mới.

2. Nội dung của đề tài
2.1 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở lý luận về vấn đề hàng hóa, sản xuất hàng hóa. Bài tiểu
luận nhằm phân tích vấn đề trên. Từ đó thấy được sự vận dụng của Đảng ta trong
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

- Nhiệm vụ: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề cần
nghiên cứu của đề tài.

2.2 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hàng hóa, sản xuất hàng hóa và sự vận
dụng của Đảng trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi
kinh tế của đất nước Việt Nam.

2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu các tài liệu sách báo, các thơng tin trên internet có liên
quan đến đề tài “Quan điểm của Các Mác về hàng hóa,sản xuất hàng hóa và sự vận
dụng của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời kì đổi
mới”.

6


lOMoARcPSD|12114775

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận của Các Mác về hàng hóa và sản xuất hàng hóa
1.1. Sản xuất hàng hóa
1.1.1. Khái niệm của sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm được sản xuất ra để trao
đổi mua bán trên thị trường. Sản xuất hàng hóa đưa lồi người thốt khỏi tình trạng
“mơng muội”, khơng phụ thuộc vào sản phẩm tự cung tự cấp, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Sản xuất hàng hóa làm thoả mãn nhu cầu của người sản xuất, người tiêu dùng.

Với phương thức sản xuất lớn, tập trung chun mơn hóa với cơng cụ sản xuất ngày
càng hiện đại. Tính chất và mơi trường sản xuất hàng hóa cạnh tranh gay gắt. Phạm
vi sản xuất kinh tế mở, thị trường trong nước gắn với thị trường quốc tế.

1.1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện sau đây:
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành,
nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên mơn hóa lao động, do
đó dẫn đến chun mơn hóa sản xuất.
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên,
kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên
những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng
vùng.
Phân cơng lao động có vai trị đó là tạo cơ sở cho sản xuất, làm cho việc trao
đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân cơng lao động xã hội thì mỗi người,
mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu cuộc
sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau, tránh xảy
ra hiện tượng mâu thuẫn thừa và thiếu trong nhu cầu xã hội.
Ngồi ra, phân cơng lao động xã hội còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng
lên, do đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ
để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. C.Mác viết: "Trong công xã Ấn Độ thời cổ
đại, lao động đã có sự phân cơng xã hội, nhưng các sản phẩm lao động khơng trở
thành hàng hóa... Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa". Vì vậy, muốn sản
xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
b) Sự tách biệt tƣơng đối về mặt kinh tế của những ngƣời sản xuất

7



lOMoARcPSD|12114775

Bên cạnh điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều
kiện đủ, đó là phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành
những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền
sở hữu của các chủ thể kinh tế hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hố.
Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự
tách biệt này cịn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản
xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tách biệt này do các quan hệ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao
động.
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thơng qua việc mua bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Cơ sở thứ ba đó là do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp
tư liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền
sở hữu mà còn khác biệt ở quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác
nhau của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản
xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân cơng lao động xã hội thì việc trao đổi sản

phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ
có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi
hàng hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ mới
có quyền mang nó đi bán. Thêm vào đó, sự tách biệt ấy cịn làm cho quan hệ trao đổi
của chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi hàng hóa, vì sự tách biệt tương đối về
mặt kinh tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh tế độc lập với nhau.
Chính vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo ngun tắc ngang
giá mới cơng bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.

8


lOMoARcPSD|12114775

Tóm lại: Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên,
nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao
động khơng mang hình thái hàng hóa.

1.2. Hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và thuộc tính của hàng hóa
a) Khái niệm hàng hóa

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thơng qua trao đổi hay buôn bán và được lưu thông trên thị trường, có
sẵn trên thị trường.
Karl Marx định nghĩa “hàng hóa” trước hết là “đồ vật mang hình dạng có khả
năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó”. Hàng hóa có thể ở
dạng vật thể (hữu hình) hoặc phi vật thể (vơ hình). Hàng hóa hữu hình như sắt thép,

quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức lao động.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa
David Ricardo cho rằng hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản là: giá trị sử dụng và
giá trị hàng hóa.
*Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn
một số nhu cầu nào đó của con người (có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần,
nhu cầu cá nhân, nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất…).
Giá trị sử dụng của hàng hóa có các đặc trưng như sau:
- Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định
- Hàng hóa khơng nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học
kỹ thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa
và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau.
- Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc
mọi kiểu tổ chức sản xuất.
- Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho
người tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa
theo mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của
xã hội.
- Xã hội ngày càng phát triển thì hàng hóa ngày càng phong phú và đa dạng.
*Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa.

9


lOMoARcPSD|12114775

Cả quần áo và thóc lúa đều là sản phẩm của q trình sản xuất thơng qua lao
động, là sản phẩm của lao động, có lao động kết tinh vào trong đó, có sự chi phí về
thời gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất chúng.

Giá trị hàng hóa có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
- Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương thức
sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.
- Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa.
- Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.
*Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng
hóa. Phải có đủ hai thuộc tính này sản phẩm, vật phẩm đó mới được gọi là hàng hóa.
Nếu thiếu một trong hai thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm khơng được coi là hàng
hóa.
Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ là mặt
giá trị (tức là lợi nhuận) chứ không phải là giá trị sử dụng. Trong tay người bán có
giá trị sử dụng, tuy nhiên cái mà họ quan tâm là giá trị hàng hóa. Ngược lại, đối với
người mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng. Nhưng để có giá trị sử dụng, trước hết họ
cần thực hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể chi phối giá trị sử dụng. Vì vậy mâu
thuẫn giữa hai thuộc tính này chính là q trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị
hàng hóa là hai quá trình khác nhau về thời gian và khơng gian. Q trình thực hiện
giá trị được thực hiện trước (trên thị trường), quá trình thực hiện giá trị sử dụng diễn
ra sau (trong tiêu dùng). Nếu giá trị của hàng hóa khơng được thực hiện thì sẽ dẫn
đến khủng hoảng sản xuất.
=> Giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với
nhau.

1.2.2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.
- Giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng, do thuộc tính tự
nhiên của vật thể hàng hóa quyết định. Hàng hóa càng phong phú, hiện đại thì giá trị

sử dụng càng cao.
- Giá trị của hàng hóa được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thơng, mang
thuộc tính xã hội của hàng hóa

10


lOMoARcPSD|12114775

Hai thuộc tính này là do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết
định. C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
*Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp, chuyên mơn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương
pháp, cơng cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những
cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do
có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát
triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Đặc trưng của lao động cụ thể:
- Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với
sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa
dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm
trù vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với
vật phẩm, nó là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội
nào.
- Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình
độ phát triển và sự áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm

gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời đại.
- Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng mà do
hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay
đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con
người.
Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ may, mục đích là sản xuất ra áo quần, đối
tượng lao động là vải, phương pháp của người thợ may là các thao tác lên kim, chỉ,
thước đo, kéo, phương tiện được sử dụng là máy may, và kết quả lao động là tạo ra
một bộ đồ hoàn chỉnh.
*Lao động trừu tƣợng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao
động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Đặc trưng của lao động trừu tượng:
đổi.

- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng trao
11


lOMoARcPSD|12114775

- Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra
giá trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa.
Ví dụ: Lao động của người thợ may và lao động của người làm gốm, nếu xét về
mặt lao động cụ thể thì hồn tồn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ những hình thức cụ
thể ấy đi thì cái chung ở đây là sự tiêu hao sức lao động.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.
*Tính chất tƣ nhân: Do người sản xuất quyết định, là việc riêng của họ. Sản

xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai
*Tính chất xã hội: Hao phí lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa.
Bởi vì nó là một bộ phận của tồn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công xã
hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau thơng qua trao đổi hàng hóa. Lao động trừu
tượng là biểu hiện của lao động xã hội
Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó
được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể khơng ăn khớp
với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu
của xã hội…). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa
khơng bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với
mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng khơng bán được
hoặc bán được nhưng khơng thu hồi đủ chi phí lao động
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu
thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng
hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

1.2.3. Lƣợng giá trị và các nhân tố ảnh hƣởng đến lƣợng giá trị của hàng
hóa
Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:
Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản
xuất ra hàng hóa đó quyểt định.
a) Thƣớc đo lƣợng giá trị của hàng hóa
Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một
giờ lao động, một ngày lao động, v.v.. Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời
gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất
nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay

12


lOMoARcPSD|12114775

nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của
họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cả biệt của hàng
hóa mà từng người sản xuất ra.
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của
giá trị sử dụng ấy".
Vì vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động
xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật
trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn
cảnh xã hội nhất định.
b) Các nhân tố ảnh hƣởng đến lƣợng giá trị của hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hóa cũng là một đại lượng khơng cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy
thuộc vào hai nhân tố:
Thứ nhất, năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng
sản phấm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết đế
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động
xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi khơng phải theo giá trị cá biệt mà là
giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng
hóa chính là năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản

xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược
lại, năng suất lao dộng xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều.
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và
tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn
vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của
người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và
các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với
lượng giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương,
là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng
13


lOMoARcPSD|12114775

lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và
lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của một
đơn vị sản phẩm thì khơng đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống
như kéo dài thời gian lao động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị
của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả
năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi
phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến
hành được.

Trong một giờ lao động, người sửa chữa máy tính tạo ra nhiều giá trị hơn
người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động giản đơn, có nghĩa là
bất kỳ một người bình thường nào, khơng phải trải qua đào tạo, khơng cần có sự phát
triển đặc biệt, cũng có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chữa máy tính
là lao động phức tạp địi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay
nghề.
Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp
tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có
thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình
trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
C.Mác viết: "Lao động phức tạp... chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy
thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân lên...”.

2. Sự vận dụng của Đảng ta trong phát triển nền kinh tế thị trƣờng trong
thời kì đổi mới
2.1. Khái niệm của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế
thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ
nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ
nghĩa trong tương lai. Mơ hình kinh tế này khá tương đồng với mơ hình kinh tế thị

14


lOMoARcPSD|12114775

trường xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
trong đó các mơ hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.

2.2. Các đặc trƣng cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới.

2.2.1. Khái quát các đặc trƣng chung
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo
luật pháp và được bình đẳng khơng phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ
hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị
trường cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường
khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa
các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn
định, bền vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành: Tơn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị
trường; tính năng động của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở
vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập
môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ

chế thị trường.

2.2.2. Những đặc trƣng riêng
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của
kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam có một số đặc
trưng sau:
- Về vị trí đặc thù: Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến
lên CNXH ở Việt Nam. Đặc trưng này hàm ý khơng có một nền kinh tế nào khác
ngồi kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm vai trị là cơ sở kinh tế để xây dựng CNXH
ở nước ta.
- Về mục tiêu phát triển của nền kinh tế: Tính định hướng XHCN trong phát
triển kinh tế - xã hội quy định phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
15


lOMoARcPSD|12114775

chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
+Làm cho dân giàu: Mức bình quân đầu người tang nhanh, khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội được thu hẹp.
+ Làm cho nước mạnh: Gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia, bảo vệ mơi trường sinh thái và bí mật quốc
gia.
+ Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi
ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường.

- Về chế độ hình thức xã hội: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam là nền kinh tế hỗn hợp, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất, trong đó, chế độ cơng hữu ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc. Trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh
tế nhà nước cùng nền kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác
lập và chiếm ưu thế tuyệt đối.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo”. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt.
Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có
tính ngun tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản
chất của mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mơ hình kinh tế thị
trường khác.
- Về nguyên tắc, cần có cách tiếp cận mới đến vấn đề công bằng trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, cụ thể:
+ Thứ nhất, cần xác định rõ và giải quyết tốt mối quan hệ kết hợp giữa mục tiêu
tăng trưởng và phát triển (mục tiêu thoát khỏi tụt hậu phát triển cho dân tộc Việt Nam
và mục tiêu công bằng xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.

+ Thứ hai, cần quan niệm công bằng xã hội trước hết là sự bình đẳng về cơ hội
phát triển và dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội của mọi người dân, mọi chủ thể
kinh tế và mọi vùng miền của đất nước. Đồng thời, phải chấp nhận ở mức độ nào đó
sự chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập chính đáng, về dân trí trong từng thời
kỳ, giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư cụ thể. Dĩ nhiên, không được phép để độ
doãng của sự chênh lệch này làm tổn hại đến ổn định chính trị - xã hội. Chấp nhận
chênh lệch để từng bước thu hẹp chênh lệch trong mỗi bước phát triển của đất nước
là một thực tế khách quan trong phát triển ở nước ta hiện nay.


16


lOMoARcPSD|12114775

+ Thứ ba, cần trả lời câu hỏi “nhà nước phải làm gì và làm như thế nào để thị
trường phục vụ người nghèo hiệu quả; hỗ trợ các vùng chậm phát triển, và chặn
đứng, xoá bỏ nạn tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân”. Đây là cách đặt vấn đề tích
cực để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và cơng bằng xã hội
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam,
phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng
đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật
chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm
no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào
sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài
theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử
dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế
đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Trên đây là một số đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở VN. Các đặc trưng này vừa phản ánh tính phổ biến, vừa thể
hiện những nét đặc thù trong mơ hình phát triển mà Việt Nam lựa chọn.

2.3. Sự vận dụng của Đảng ta và những vấn đề cần đƣợc tiếp tục xem xét
và hoàn thiện
2.3.1.Sự vận dụng “quan điểm của Các Mác về hàng hóa, sản xuất hàng
hóa” của Đảng ta vào nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình
thành, phát triển, đến nay đã có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập

quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần, có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, thị trường
trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò trong việc
xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, nền
kinh tế đã vận hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà
nước vừa xây dựng và hồn thiện thể chế, tạo khn khổ pháp luật, mơi trường ổn
định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà
nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, phát triển
bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường. Gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của các
nền KTTT hiện đại trên thế giới.
17


lOMoARcPSD|12114775

Cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa,
tập trung, bao cấp chuyển sang nền KTTT và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh
chóng được các nhà đầu tư trong, ngồi nước và đơng đảo người sản xuất, tiêu dùng
hưởng ứng. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước ngồi xuất hiện
ngày càng nhiều, hộ nơng dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát
triển mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn,
chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng
khoán phát triển khá nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa học
- công nghệ, dù còn chưa phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành.
Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển mạnh, đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở
ở mức độ cao trong khu vực.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta còn chủ trương và nhất quán vận hành nền

kinh tế thị trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị
trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối
công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho mọi thành viên để không
ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau. Đó chính là định hướng cực kỳ quan
trọng cho tồn bộ q trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả đạt
được:
- Về kinh tế:
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Công cuộc
đổi mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia
nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002
- 2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu
người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2
USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là
dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục có khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu
trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu được duy trì ở mức cao. GDP thực tăng
ước khoảng 7%, tương tự tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018, điều này cho thấy Việt
Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP
đạt 1,8% trong nửa đầu năm, dự kiến cả năm đạt 2,8%. Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới khơng dự báo suy thối kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự
kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng (6-7%). Tuy nhiên,
tác động của dịch Covid-19 rất khó đốn định, tùy thuộc vào quy mô và thời gian kéo
dài của dịch bệnh. Sức ép lên tài chính cơng sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm, trong
khi chi ngân sách tăng lên để kích hoạt các gói hỗ trợ các hộ gia đình và doanh
nghiệp giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19.
- Về xã hội:
18



lOMoARcPSD|12114775

Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân
số Việt Nam đã đạt 96,5 triệu dân vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân
tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung bình gần
76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương trong khu vực. Tầng lớp trung
lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng 13% dân số và dự kiến sẽ tăng lên đến 26%
vào năm 2026.
Trong giai đoạn 2010-2020, chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên
0,69. Một em bé Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức
năng suất bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy
đủ. Như vậy, Việt Nam là quốc gia có chỉ số vốn con người cao nhất trong số các
quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên vẫn cịn tồn tại khoảng cách giữa các địa
phương, nhất là ở nhóm dân tộc thiểu số.
tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện.
Trong giai đoạn 1993-2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn
16,7 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong giai
đoạn 1990-2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân là 73, cao hơn mức
trung bình của khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, tỷ lệ
chênh lệch giới tính khi sinh cịn ở mức cao và ngày một tăng, điều này cho thấy tình
trạng phân biệt giới tính vẫn cịn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những
quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên
65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã có sự thay đổi tích cực.
Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện. Tính đến năm 2016, 99%
dân số sử dụng điện chiếu sáng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ 14% năm 1993. Tỷ lệ
tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm
2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm

GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo
ra thách thức không nhỏ đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng
hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số
137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).

2.3.2.Những vấn đề cần đƣợc tiếp tục xem xét và hoàn thiện
Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản, Việt Nam đã, đang và
sẽ tiếp tục chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
KTTT định hướng XHCN với những thành tựu KT-XH ngày càng to lớn. Thể chế
KTTT, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng,
hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được
triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính
trị-xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do phát triển
KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một q trình chưa có tiền lệ nên có
19


lOMoARcPSD|12114775

những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét và hoàn
thiện, cụ thể:
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng là một
nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và
những giá trị XHCN đất nước đang phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu
chúng ta có thể nghiên cứu để áp dụng nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những
giá trị chung của thể chế KTTT nhằm tạo thuận lợi sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa
bền vững hơn.
Thứ hai, bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao
trùm và khơng q thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các
vùng miền, giữa các thành phần, đối tượng trong xã hội.

Thứ ba, cần có chiến lược cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để việc
phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hịa 2 yếu tố, đó là: Phát triển “nhanh” và
“bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành, bởi với một nền kinh tế đang phát triển
như Việt Nam nếu khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì rất
dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Nhìn chung, động lực và triển vọng
hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào
những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về phát triển
KTTT định hướng XHCN.

20


lOMoARcPSD|12114775

III. PHẦN KẾT LUẬN
Trên hành trình lịch sử phát triển của xã hội nhân loại, con người khơng ngừng
tìm tịi, học hỏi và sáng tạo ra những cái mới để cải tạo đời sống thô sơ, phát minh
thêm nhiều khái niệm, sự vật, công cụ lao động và phương thức trao đổi... Thời đại
đã thay đổi khi con người biết tạo ra các sản phẩm, nhiều mặt hàng khác nhau để đáp
ứng nhu cầu cá nhân. Với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, loại hình sản xuất
hàng hóa dần chiếm ưu thế và đem lại nhiều giá trị về mặt đời sống xã hội – giao
thương hơn cả loại hình sản xuất tự cung tự cấp. Sản xuất hàng hóa làm thỏa mãn
nhu cầu của số đơng (người sản xuất và kể cả người tiêu dùng), với phương thức
chun mơn hóa và cơng cụ sản xuất tân tiến, hiện đại cùng quy mô rộng lớn, không
chỉ đáp ứng trong một phạm vi khu vực hẹp, khép kín mà còn mở rộng thị trường với
các khu vực lân cận và trên thế giới. Vậy các yếu tố, điều kiện cơ bản để sản xuất
hàng hóa được xã hội cơng nhận và ứng dụng vào đời sống là gì?
Đó là việc phân cơng lao động xã hội. Điều đó làm chun mơn hóa lao động,
dẫn đến chun mơn hóa sản xuất và xuất hiện nhiều ngành nghề khác nhau. Nhưng
phân cơng lao động xã hội thì mỗi hộ sản xuất chỉ có thể tạo ra được 1-2 mặt hàng cơ

bản, vì vậy khơng thể đáp ứng hồn tồn nhu cầu cần nhiều thứ của mỗi cá thể trong
một hộ gia đình. Với mâu thuẫn thừa và thiếu trước mắt cùng mong muốn khẩn thiết
của thời đại, con người buộc phải trao đổi sản phẩm với nhau dựa trên nhu cầu bản
thân và mục đích sử dụng của sản phẩm. Đó cho thấy việc phân cơng lao động xã hội
là cơ sở của sản xuất và trao đổi, một trong hai điều kiện ra đời cơ bản của sản xuất
hàng hóa.
Điều kiện thứ hai chính là sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể kinh tế.
Khi bản thân mình thiếu cái mà người khác dư thừa, và mình dư cái mà người ta cần
thì lúc đó mới cần thiết phải trao đổi sản phẩm với nhau. “Chỉ có sản phẩm của
những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau
như là những hàng hóa”.
Sản phẩm muốn trở thành hàng hóa cần ba điều kiện là kết tinh của quá trình
lao động, làm thỏa mãn nhu cầu của con người và được trao đổi, mua bán. Vì vậy, ta
có khái niệm rõ ràng về hàng hóa theo C.Mác như sau: “Hàng hóa là sản phẩm của
lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi, mua
bán”. Mọi hàng hóa đều là sản phẩm nhưng mọi sản phẩm khơng phải là hàng hóa.
Sản phẩm chỉ được gọi là hàng hóa khi chúng được trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản đó là giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Cịn giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người.
Có một điều mà mọi người cần lưu ý vì rất dễ gây nhầm lẫn: sức lao động là
một loại hàng hóa đặc biệt. C.Mác đã viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con
21


lOMoARcPSD|12114775

người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị

sử dụng nào đó”. Như vậy, có thể thấy, sức lao động của con người bao gồm trí lực
và thể lực kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất. Để sức lao động trở một loại
hàng hóa cần có hai điều kiện sau: thứ nhất, người lao động phải tự do về thân thể;
thứ hai, người lao động khơng có các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức
lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán. Vì vậy, họ phải bán sức lao động của mình
để duy trì và phát triển cuộc sống. Hàng hóa sức lao động bước đến sự phát triển
vượt bậc khi chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đỉnh cao. Đó là nền tảng quan trọng để
đánh dấu sự vượt bậc của văn minh nhân loại.
Hàng hóa đều có một lượng giá trị nhất định và cần có nhiều nhân tố ảnh hưởng
đến lượng giá trị hàng hóa đó. Như chúng ta được biết từ phần nội dung trên, lượng
giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
bao gồm năng suất lao động, mức độ phức tạp lao động và cường độ lao động. Năng
suất lao động tỷ lệ nghịch với giá cả hàng hóa, mức độ phức tạp của lao động lại tỷ lệ
thuận với giá cả hàng hóa.
Chúng ta hiểu được rằng hàng hóa đã trở nên rất phổ biến trong xã hội hiện đại
ngày nay. Hàng hóa khơng chỉ được trao đổi trực tiếp mà cịn được mua bán gián tiếp
trong thời đại 4.0. Mọi người dễ dàng có được hàng hóa mong muốn dù đang ở nhà,
không cần phải di chuyển đến chỗ bán, bạn vẫn có thể nhận được hàng bằng cú nhấp
chuột chọn mua trên các trang điện tử nổi bật như Shopee, Lazada, Tiki, Sendo,...
Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông phương tiện mà giữa người
mua và người bán khơng cịn bị ngăn cách cản trở về mặt địa lý, với đa dạng nhiều
loại hàng hóa khác nhau cùng các mức giá hợp túi tiền của người tiêu dùng.
Với quy mô kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà
nước ta đang theo đuổi đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương phát triển trong
nước và ngoài nước. Đời sống của người dân dần cải thiện và nâng cấp hơn so với
trước kia. Đảng ta ln lắng nghe những ý kiến đóng góp từ phía người dân, các cán
bộ các cấp để thay đổi bộ máy nhà nước hoàn thiện và linh hoạt hơn trong tương lai
gần.
Hiện tại, thế giới đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19 nguy hiểm và kéo

dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam ta.
Mỗi khi dịch bùng phát, Nhà nước đưa ra các chỉ thị, chính sách phù hợp với tình
hình thực tế nhằm giãn cách xã hội, hạn chế tình trạng lây lan bệnh dịch trong cộng
đồng. Vì vậy, việc giao thương hàng hóa cùng với nền kinh tế quốc gia có chiều
hướng khơng được khả quan. Nhưng nhân dân và Nhà nước luôn đồng hành cùng
nhau, sát cánh hỗ trợ vượt qua thời điểm khó khăn này để Việt Nam mau chóng khỏe
mạnh trở lại.

22


lOMoARcPSD|12114775

IV. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo, 2019, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Hà Nội.
2. GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, 19/11/2020, Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và vấn đề con người – tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát
triển, tapchicongsan.org.vn
Đọc từ link: />3. ThS Nguyễn Kiêm Ái, 01/07/2013, Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tuyengiaotiengiang.vn.
Đọc từ link: />4. Nguyễn Hoàng Thiêm, Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, hoctap24h.vn
Đọc từ link: />5. PGS.TS. Đặng Quang Định, 18/07/2021, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tapchicongsan.org.vn
Đọc từ link: />6. Không tên tác giả, 07/08/2021, Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa,
luatminhkhue.vn
Đọc từ link: />7. Nguyễn Linh An, 01/04/2021, Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa,
hoatieu.vn
Đọc từ link: />
23



lOMoARcPSD|12114775

V. BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
Họ và tên: Nguyễn Dương Bảo Châu

Lớp HP: 203POL10601

MSSV: 201A160154

GVHD: TS. Nguyễn Hữu Vượng

THI GIỮA KÌ
Học phần: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài: Vì sao Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là một tất yếu?
Bài làm
 Về kinh tế thị trường:
Đặc trưng phổ biến: kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều
mơ hình khác nhau, các nền kinh tế thị trường có những đặc điểm chung bao gồm:
- Có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế , nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể
kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
- Thị trường đóng vai trị quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội
thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị trường
dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học cơng nghệ..
- Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh; động lực trực tiếp
của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi nhuận và lợi ích kinh tế - xã hộu khác; nhà

nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lí, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục
những khuyết điểm của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình
đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
tế.

- Là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị trường quốc
Ngoài ra, kinh tế thị trường còn tạo ra được những tác động tích cực:

- Một là, nền kinh tế thị trường ln tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể
kinh tế.
- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ
thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia.
24


lOMoARcPSD|12114775

- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa
nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Do hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mơ
hình kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể
để giải quyết trong thời gian tới. Để hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các
điều kiện gia nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại
quốc tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự
độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa
đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài viết: "Ðưa ra quan
niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận
rất cơ bản và sáng tạo của Ðảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực

hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới". Cả lý luận và thực tiễn chứng minh nhận định trên của Tổng Bí
thư là hồn tồn đúng đắn. Kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế
hàng hóa, khi mọi sản phẩm đều có thể trở thành hàng hóa) là sản phẩm của văn
minh nhân loại, xuất hiện từ rất xa xưa, được phát triển tới trình độ cao dưới chủ
nghĩa tư bản, nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư
bản. Nghĩa là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư
bản, mà kinh tế hàng hóa - nguồn nuôi dưỡng và xuất phát điểm của kinh tế thị
trường - tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, song khơng có kinh tế thị
trường chung, đồng nhất cho mọi chế độ xã hội khác nhau. Mặc dù, kinh tế thị trường
là mơ hình phát triển phổ quát, có những đặc điểm chung, có những giá trị, nguyên
tắc, chuẩn mực chung, vận động theo những quy luật chung…, nhưng ở mỗi quốc
gia, kinh tế thị trường có sắc thái riêng, có dấu ấn riêng.
Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong lịch sử phát triển kinh tế thị
trường xuất hiện mơ hình kinh tế thị trường mới - kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ðây thật sự là "một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Ðảng
ta…". Qua thực tiễn hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, một thành quả lý luận
quan trọng được khẳng định: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo của Ðảng ta và là con đường,
phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Nước ta đang trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế là nền kinh tế q độ, khơng thể có
ngay kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nước ta phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa - mơ hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội - vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của
thế giới vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất bao gồm
hai mặt gắn bó biện chứng hữu cơ với nhau, là kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự
25



×