Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích sự khả thi nhằm áp dụng xu hướng công nghệ 4 0 vào sự bảo tồn tài nguyên du lịch tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.77 KB, 14 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS …………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin chân
thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy cơ giáo
giúp tơi hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã ln
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 12 năm 2020
Học viên

…………………………


A. MỞ ĐẦU
Tài nguyên du lịch được coi là một phân hệ du lịch quan trọng, mang tính quyết
định của hệ thống lãnh thổ du lịch, là mục đích khám phá của du khách, là cơ sở quan
trọng để hình thành, phát triển du lịch ở một khu, điểm du lịch ở các địa phương hoặc
quốc gia.
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân
văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các
yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên
nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm
truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hố, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách
mạng, khảo cổ, kiến trúc, các cơng trình lao động sáng tạo của con người và các di sản
văn hố vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.Tài
nguyên du lịch phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đáo
có sức hấp dẫn lớn đối với du khách; tài nguyên du lịch là những tài nguyên gồm hai
giá trị: giá trị hữu hình và giá trị vơ hình; tài ngun du lịch thường dễ khai thác; tài
nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau; tài nguyên du lịch được khai thác tại


chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch; tài nguyên du lịch có thể sử dụng được nhiều lần.
Bảo tồn tài nguyên du lịch là xu hướng tất yếu trong thời đại cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), khi những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại
được ứng dụng mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có du lịch.
Tại Việt Nam, ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành Du lịch và bảo tồn tài nguyên
du lịch là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ, hiện đang được triển khai rộng khắp
trong toàn ngành.
Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0, khoa học và công nghệ (KH&CN), đặc biệt
là công nghệ thông tin – truyền thông (CNTT-TT) phát triển ngày càng mạnh mẽ, cho
phép tạo ra các sản phẩm sự đa dạng cho ngành du lịch. Việc ứng dụng những cơng
nghệ tiên tiến cho ngành du lịch như trí tuệ nhân tạo (AI), điện tốn đám mây, Big
data, Blockchain, cơng nghệ 3D, 3600, công nghệ thực tế ảo và thực tế tăng cường
(VR, AR), internet kết nối vạn vật (IoT), các công nghệ định vị (GIS, GPS, LBS); cùng
với sự bùng nổ của của internet, mạng xã hội, hệ thống mạng cảm biến không dây
(WSN) và các thế hệ mạng di động (4G, 5G),… đã góp phần làm thay đổi diện mạo


của ngành du lịch, các hoạt động du lịch ngày càng được cơng nghệ hóa, ngày càng trở
nên hiện đại hơn và thơng minh hơn. Có thể nói, sự kết hợp giữa công nghệ với bảo
tồn tài nguyên du lịch, đó là sự kêt hợp thơng minh.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Tác giả quyết định lựa chọn nội dung: “Phân tích
sự khả thi nhằm áp dụng xu hướng công nghệ 4.0 vào sự bảo tồn tài nguyên du lịch
tại Việt Nam”. Việc làm sáng tỏ nội dung trên, sẽ giúp chúng ta hiểu được vai trò quan
trong của việc áp dụng xu hướng công nghệ 4.0 vào sự bảo tồn tài nguyên du lịch tại
Việt Nam hiện nay.


B. NỘI DUNG
1. Tiến trình bảo tồn tài nguyên du lịch tại Việt Nam
1.1. Thể chế, chính sách mở đường cho bảo tồn tài nguyên du lịch

Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
định hướng cho việc triển khai ứng dụng KH&CN, CNTT-TT với phát triển kinh tế –
xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng. Thể chế chính sách đi trước là rất quan
trọng để khai thông, mở đường và tạo điều kiện nền tảng, hành lang pháp lý cho bảo
tồn tài nguyên du lịch.
Từ những năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ “CNTT là một
trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ
cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hố, xã hội của thế giới hiện
đại”. Vì thế, phải đẩy mạnh “ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của tồn dân tộc, thúc đẩy công cuộc
đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hố các ngành kinh tế”. Bộ Chính trị chủ trương:
“Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phịng đều phải ứng
dụng cơng nghệ thơng tin để phát triển”. Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2014 tiếp tục
khẳng định: “CNTT phải được ứng dụng rộng rãi và trở thành một ngành kinh tế có tác
động lan tỏa trong phát triển kinh tế – xã hội”. Nghị quyết số 26/2015/NQ-CP cũng
nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các ngành, các lĩnh vực nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh”. Khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư bùng nổ và tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc đẩy
mạnh ứng dụng CNTT-TT cho các ngành, các lĩnh vực ngày càng trở nên cấp thiết.
Trước bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 16/2017/CT-TTg về việc
tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thủ tướng đề
nghị các Bộ, ngành “Xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu
tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, bảo tồn tài nguyên
du lịch, đô thị thơng minh”. Có thể nói, hệ thống văn bản của Đảng và Chính phủ đã
mở ra định hướng chiến lược quan trọng để triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ
tiên tiến cho phát triển kinh tế – xã hội nói chung và du lịch nói riêng.


Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, khẳng định

quan điểm: “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến
lược quan trọng để phát triển đất nước”. Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, tất yếu phải đẩy mạnh
ứng dụng KH&CN hiện đại. Nghị quyết 08-NQ/TW có nêu ba khía cạnh ứng dụng
KH&CN với các hoạt động du lịch, gồm: xúc tiến quảng bá du lịch, đào tạo nguồn
nhân lực du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Luật du lịch năm 2017 cũng khẳng
định “nhà nước có chính sách trong việc khuyến khích hỗ trợ các hoạt động ứng dụng
khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch” (Khoản 4, Điều 5).
Để tạo bước đột phá trong việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam, năm 2017,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2017/NĐ-CP và Nghị quyết số 124/2017/NQCP quy định trình tự, thủ tục thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử (e-visa) cho người
nước ngoài nhập cảnh Việt Nam. Đặc biệt, trong chỉ thị số 16/2017/CT-TTg, lần đầu
tiên thuật ngữ “bảo tồn tài nguyên du lịch” được nhắc đến trong một văn bản pháp quy
của Việt Nam: “…ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông
minh, bảo tồn tài nguyên du lịch, đô thị thông minh”.
1.2. Tiếp cận bảo tồn tài nguyên du lịch
Bảo tồn tài nguyên du lịch mới “chớm nở” tại Việt Nam, vì thế nó vẫn cịn là
một lĩnh vực khá mới mẻ. Để hiểu và nắm bắt được xu thế phát triển cũng như có
những giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch, cơ
quan quản lý du lịch các cấp tại Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị
trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm xoay quanh chủ đề này.
Chỉ trong vài năm trở lại đây, rất nhiều hội nghị, hội thảo chuyên đề đã được tổ chức
với quy mô cấp tỉnh, cấp ngành, cấp quốc gia và cấp quốc tế.
Trong thời đại công nghệ số, việc hỗ trợ cung cấp thơng tin du lịch có ý nghĩa
quan trọng khơng chỉ đối với cơng tác quảng bá hình ảnh du lịch của Việt Nam mà cịn
có ý nghĩa quan trọng đối với khách du lịch, doanh nghiệp và cộng đồng. Hình thức
cung cấp thơng tin du lịch phổ biến nhất hiện nay là thông qua các hệ thống website,
cổng thông tin, trang thông tin điện tử, báo điện tử. Hiện nay, 100% cơ quan quản lý
du lịch từ Trung ương đến địa phương của Việt Nam đã có website du lịch. Hầu hết các
doanh nghiệp du lịch, đặc biệt là các doanh nghiệp lữ hành và các doanh nghiệp kinh



doanh khách sạn được xếp hạng theo thang bậc sao ở Việt Nam cũng đã có website
riêng. Hệ thống báo mạng điện tử, các trang thông tin điện tử ở Việt Nam cũng thường
xuyên đăng tải tin bài về du lịch và quảng bá du lịch, đặc biệt các báo lớn, các trang tin
lớn… đều có chuyên mục riêng về du lịch. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ
lập trình web, cho phép các nhà lập trình thiết kế, tích hợp nhiều tính năng, tiện ích đa
dạng trên nền tảng web hỗ trợ các hoạt động du lịch như: bản đồ du lịch điện tử, chức
năng booking online, thanh tốn trực tuyến, tư vấn trực tuyến, chăm sóc khách hàng
trực tuyến, các chức năng quy đổi tiền tệ, dự báo thời tiết… thậm chí có thể tạo ra sự
tương tác trực tiếp của khách du lịch như góp ý, phản ánh, bình luận về các sự kiện du
lịch. Bên cạnh các hệ thống website, mạng xã hội cũng là một trong những kênh quan
trọng trong việc chia sẻ thơng tin, trải nghiệm du lịch và góp phần quảng bá du lịch.
Để hỗ trợ hoạt động du lịch của du khách, các địa phương của Việt Nam trong
những năm qua đã nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng nhiều phần mềm, tiện ích
thơng minh. Trong đó, nổi bật nhất vẫn là các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội trong năm 2018 đã đưa vào sử dụng 2 phần
mềm tiện ích thơng minh hỗ trợ du khách gồm hệ thống thuyết minh tự động tại di tích
Văn Miếu – Quốc Tử Giám và phần mềm hướng dẫn tham quan Hồng Thành Thăng
Long; một số tiện ích về bản đồ, tìm đường, trạm bus, travel guide khác cũng đã được
nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng từ lâu. Thành phố Hồ Chí Minh cũng rất tích
cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông với ngành Du lịch nhằm
hướng tới mục tiêu đưa thành phố trở thành đô thị bảo tồn tài nguyên du lịch, như: đưa
vào sử dụng một số trạm thông tin bảo tồn tài nguyên du lịch; đưa vào sử dụng phần
mềm bảo tồn tài nguyên du lịch “Vibrant Ho Chi Minh city” và một số phần mềm tiện
ích khác như “Sai Gon Bus”, “Ho Chi Minh City Travel Guide”, “Ho Chi Minh City
Guide and Map”. Đà Nẵng cũng là một trong những địa phương đi đầu trong việc triển
khai ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông với ngành Du lịch, phát triển mơ
hình bảo tồn tài ngun du lịch. Ngoài việc thường xuyên sử dụng các phương pháp
marketing điện tử để quảng bá du lịch, Đà Nẵng rất quan tâm xây dựng các hệ thống
phần mềm, tiện ích hỗ trợ du khách như “Da Nang Tourism”, “inDaNang”, “ Go! Đà

Nẵng”, “Da Nang Bus”. Đặc biệt, đầu năm 2018 Đà Nẵng đưa vào sử dụng ứng dụng
Chatbot “Da Nang Fantasticity”, đây là công nghệ được sử dụng đầu tiên tại Việt Nam
và Đơng Nam Á (cùng với Singapore). Ngồi ra, một số địa phương khác như Hải


Phịng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hưng n, Thanh Hóa, Quảng Bình, Cần Thơ… cũng
đang phối hợp tích cực với các tập đồn viễn thơng để triển khai những dự án bảo tồn
tài nguyên du lịch, sản xuất các phần mềm, tiện ích thơng minh cho ngành Du lịch.
Để bảo tồn tài nguyên du lịch, cần thiết phải phát triển và hoàn thiện hạ tầng
mạng bởi đây là điều kiện quan trọng để triển khai các hoạt động du lịch online. Nhận
thức được điều này, nhiều địa phương trong cả nước đã và đang triển khai lắp đặt các
trạm phát wifi miễn phí. Tại Hà Nội, nhiều điểm trên địa bàn thuộc các quận trung tâm
đã được lắp đặt trạm phát wifi miễn phí như khu vực quanh bờ hồ Hồn Kiếm, các khu
phố cổ, đường hoa, chợ hoa, công viên, bến xe, tuyến buýt… Một số điểm du lịch của
Hà Nội cũng đang được triển khai lắp đặt gồm: Bát Tràng, Vạn Phúc, Hoàng Thành
Thăng Long, Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Tại thành phố Hồ Chí Minh, hơn 100 điểm
phát wifi miễn phí đã được triển khai cho ba khu vực bệnh viện, trường học, điểm
công cộng tại các quận trung tâm và gần 1000 điểm phát wifi miễn phí tại các khu
cơng nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn thành phố. Đà Nẵng là một trong những địa
phương đi đầu trong cả nước về chủ trương phủ sóng wifi miễn phí phục vụ khách du
lịch và cộng đồng. Từ năm 2012, Đà Nẵng đã đầu tư gần 2 triệu USD cho dự án phủ
sóng wifi. Đến nay, trên địa bàn thành phố đã có tới gần 500 trạm phát trên tất cả các
tuyến đường phố chính, các điểm du lịch dọc bờ biển, các điểm du lịch dọc bờ sông
Hàn, các trung tâm mua sắm, trung tâm hành chính, các điểm du lịch và các điểm cơng
cộng khác. Ngoài ra, rất nhiều địa phương khác trong cả nước đã và đang tích cực triển
khai phủ sóng wifi miễn phí như: Quảng Ninh, Hải Phịng, Huế, Quảng Bình, Đà Lạt,
Cần Thơ…
Các doanh nghiệp du lịch của Việt Nam cũng rất tích cực tiếp cận CMCN 4.0 để
theo kịp xu hướng kinh doanh mới, đáp ứng nhu cầu du lịch đa dạng của du khách.
Nhiều doanh nghiệp đang tự cải tiến mình để trở thành những doanh nghiệp thơng

minh. Theo đó, các hoạt động kinh doanh hầu hết được triển khai trực tuyến:
marketing, quảng bá sản phẩm; nghiên cứu mở rộng thị trường; tư vấn, chăm sóc
khách hàng; thực hiện các giao dịch mua – bán, thanh toán… Các doanh nghiệp du lịch
hàng đầu Việt Nam đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại trong kinh doanh du
lịch như Vietravel, Saigontourist, Thiên Minh Group, Hanoitourist, Benthanhtourist…
Năm 2016, sàn giao dịch du lịch trực tuyến (Tripi) đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam, cho


phép giao dịch các tour trọn gói, khách sạn và vé máy bay. Đặc biệt, Tripi còn cho
phép khách hàng tìm kiếm, so sánh giá các sản phẩm du lịch và cập nhật chính xác
24/24 tình trạng sản phẩm. iVIVU (ivivu.com) cũng là một trong những sàn giao dịch
du lịch lớn, cho phép khách du lịch tìm kiếm thơng tin, so sánh, lựa chọn và thực hiện
các giao dịch đặt tour, mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn với hơn 300 tour du lịch,
hơn 5.000 khách sạn tại Việt Nam và 345.000 khách sạn toàn thế giới để du khách lựa
chọn; mỗi tháng ivivu.com thu hút lượng truy cập tới 10 triệu lượt. Hiện nay, ở Việt
Nam có khoảng hơn 10 sàn giao dịch du lịch. Đây là những điểm nhấn quan trọng của
các doanh nghiệp du lịch Việt về khả năng tiếp cận và thích ứng với bảo tồn tài nguyên
du lịch.
2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành du lịch và bảo tồn tài nguyên du lịch
đang là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ. Trong thời gian qua, mặc dù ngành du
lịch đang rất nỗ lực trong việc triển khai các giải pháp bảo tồn tài nguyên du lịch, tuy
nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập, hạn chế. Cụ thể:
– Chính sách đặc thù về bảo tồn tài nguyên du lịch: Mặc dù hiện đã có rất nhiều
văn bản pháp quy về đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT với phát triển kinh tế – xã hội nói
chung, phát triển du lịch nói riêng, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản cụ thể nào quy
định hay hướng dẫn triển khai bảo tồn tài nguyên du lịch ở Việt Nam. Một số địa
phương có chủ trương bảo tồn tài nguyên du lịch nhưng quá trình triển khai cịn nhiều
bất cập.
– Mơ hình bảo tồn tài ngun du lịch: Trong thời gian qua, đã có nhiều địa

phương triển khai các biện pháp bảo tồn tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, các hoạt động
này diễn ra mang tính cục bộ, thiếu cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý và đặc biệt là
thiếu “mơ hình bảo tồn tài ngun du lịch” đảm bảo tính hiệu quả. Điều này dẫn đến
đầu tư thiếu trọng điểm, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả mang lại chưa cao. Nguyên nhân
của vấn đề này là do bảo tồn tài nguyên du lịch đang là xu thế mới, chưa hình thành và
chưa có tiền lệ ở Việt Nam, chưa có địa phương nào xây dựng thành cơng để làm mơ
hình học hỏi cho các địa phương khác.
– Mức độ sẵn sàng cho bảo tồn tài nguyên du lịch: Bảo tồn tài nguyên du lịch
được phát triển trên nền tảng ứng dụng KH&CN, CNTT-TT, đây được coi là điều kiện,


tiền đề tiên quyết. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng về công nghệ để bảo tồn tài nguyên du
lịch ở Việt Nam chưa cao.
Chỉ số xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT của
Bộ VHTT&DL trong vài năm trở lại đây xếp ở vị trí trung bình khá, từ thứ 4 đến thứ 7
trên bảng xếp hạng 19 Bộ, ngành. Trong đó, các chỉ số về hạ tầng kỹ thuật và chỉ số
ứng CNTT nhiều năm xếp ở vị trí trung bình yếu (Bảng 1).
Bảng 1. Xếp hạng của Bộ VHTT&DL về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và
ứng dụng CNTT-TT

Chỉ số xếp hạng

Năm 2018

Năm 2017

Năm 2016

Năm 2015


Chỉ số xếp hạng chung

5

6

4

7

Chỉ số Hạ tầng kỹ thuật

8

11

4

11

Chỉ số Hạ tầng nhân lực

4

6

3

4


Chỉ số Ứng dụng CNTT

5

10

9

11

Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018
Trình độ khoa học và cơng nghệ: So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là
quốc gia có trình độ khoa học và cơng nghệ cịn hạn chế. Vì thế, việc nghiên cứu, sản
xuất các sản phẩm công nghệ ứng dụng cho du lịch vẫn cịn nhiều hạn chế. Ví dụ, Thái
Lan đã nghiên cứu ứng dụng được công nghệ thực tại ảo (VRT) để sản xuất các tour du
lịch ảo và đưa vào khai thác sử dụng tại thủ đô Bangkok từ những năm 2015, 2016;
Singapore đã nghiên cứu internet vạn vật (IoT) để thiết kế các phịng nghỉ thơng minh,
quản trị khách sạn thông minh tại một số khách sạn hiện đại từ những năm 2010; Hàn
Quốc sản xuất hệ thống các phần mềm, ứng dụng, tiện ích thơng minh cho ngành du
lịch khá đầy đủ và hệ thống hay Đài Loan đã phát triển hệ thống thẻ điện tử, vé điện tử
du lịch, xây dựng nhiều trung tâm bảo tồn tài nguyên du lịch (i-Center) và trạm thông


tin bảo tồn tài nguyên du lịch để hỗ trợ khách du lịch nhưng ở Việt Nam còn rất hạn
chế.
– Sự tiếp cận của doanh nghiệp với bảo tồn tài nguyên du lịch còn yếu: Trong
các lĩnh vực kinh doanh du lịch chính như: lữ hành, lưu trú, vận tải du lịch, ăn uống,
giải trí, mua sắm,… thì khả năng tiếp cận công nghệ, bảo tồn tài nguyên du lịch chủ
yếu ở một số phân nhánh như lữ hành quốc tế, vận tải hàng không, cơ sở lưu trú cao
cấp. Trong đó, cũng chỉ có các doanh nghiệp hàng đầu, có tiềm lực mới có khả năng

đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, tiếp cận bảo tồn tài nguyên du lịch. Nguyên nhân
chính do đặc điểm doanh nghiệp du lịch Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
vừa, vốn ít, kinh doanh nhỏ lẻ nên khả năng tài chính chi trả cho đầu tư ứng dụng công
nghệ không cao; doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, doanh nghiệp kinh doanh
lưu trú (nhà nghỉ, khách sạn 1-2 sao) chiếm số lượng lớn, đối tượng khách phục vụ chủ
yếu là khách nội địa, nhu cầu khách sử dụng các dịch vụ thông minh, trực tuyến không
lớn nên khả năng tiếp cận bảo tồn tài nguyên du lịch của các doanh nghiệp này còn
thấp.
3. Một số giải pháp thúc đẩy bảo tồn tài nguyên du lịch tại Việt Nam
Để bảo tồn tài nguyên du lịch tại Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung
thực hiện một số giải pháp căn bản sau:
– Tiếp tục hồn thiện thể chế chính sách cho bảo tồn tài ngun du lịch
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách đặc thù
và ban hành những văn bản cụ thể, quy định, hướng dẫn chi tiết về bảo tồn tài nguyên
du lịch để định hướng cho ngành Du lịch và các địa phương trong việc triển khai thực
hiện. Cơ quan quản lý du lịch các cấp cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
về bảo tồn tài nguyên du lịch, có lộ trình và bước đi phù hợp. Ngồi ra, cần hồn thiện
hơn nữa thể chế chính sách liên quan đến ứng dụng KH&CN, CNTT-TT thông với
phát triển kinh tế – xã hội nói chung như: các chính sách về phát triển Chính phủ điện
tử, thủ tục hành chính điện tử, thương mại điện tử, phát triển giao thông thông minh,
đô thị thông minh, để đồng bộ với thể chế chính sách về bảo tồn tài nguyên du lịch.
– Xác định mơ hình và triển khai thí điểm


Bảo tồn tài nguyên du lịch là định hướng chiến lược nhất quán của Đảng và
Chính phủ, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên,
không nhất thiết địa phương nào cũng phải bảo tồn tài nguyên du lịch. Căn cứ vào điều
kiện kinh tế – xã hội, cơ sở vật chất – kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, trình độ cơng nghệ,
nguồn nhân lực và tiềm năng phát triển du lịch,… xác định một số địa phương trọng
điểm triển khai thí điểm mơ hình bảo tồn tài ngun du lịch. Đồng thời, gắn bảo tồn tài

nguyên du lịch với các lĩnh vực có liên quan như đơ thị thơng minh, giao thơng thông
minh, nông nghiệp thông minh, quản lý năng lượng thông minh,… Có thể lựa chọn 3
hoặc 5 địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển, đang đứng đầu bảng xếp
hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT gồm: Hà Nội, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên – Huế làm mơ hình thí điểm
cho phát triển đơ thị thông minh và bảo tồn tài nguyên du lịch. Việc xác định rõ mơ
hình và triển khai thí điểm sẽ giúp Trung ương và địa phương tập trung được nguồn
lực cho bảo tồn tài nguyên du lịch, tránh thực hiện dàn trải, manh mún, nhỏ lẻ, thiếu
hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Kết quả của một số mơ hình thí điểm này sẽ là bài
học kinh nghiệm q giá để ngành du lịch và các địa phương khác học hỏi.
– Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin –
truyền thông theo hướng ứng dụng cho ngành du lịch, tạo nền tảng cơng nghệ cho bảo
tồn tài ngun du lịch
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách ưu tiên,
khuyến khích các hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN cho ngành du lịch. Cần
xác định và ưu tiên đầu tư cho các hạng mục công nghệ quan trọng hỗ trợ bảo tồn tài
nguyên du lịch, bao gồm: xây dựng cơ sở dữ liệu ngành; đầu tư phát triển hạ tầng công
nghệ; đầu tư sản xuất các phần mềm, hệ thống, chương trình, ứng dụng, tiện ích thông
minh cho ngành du lịch; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất các sản
phẩm và dịch vụ bảo tồn tài nguyên du lịch; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên
tiến cho công tác quản lý và phát triển điểm đến; ứng dụng công nghệ cho công tác
thống kê du lịch; ứng dụng công nghệ cho công tác bảo tồn, phục chế các giá trị di sản,
di tích phục vụ du lịch.
– Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cơng nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế
về khoa học công nghệ


Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ với các nước phát triển để học
hỏi kinh nghiệp, nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ với
bảo tồn tài nguyên du lịch; hợp tác, chuyển giao công nghệ và hợp tác đầu tư phát triển

cơng nghệ cho Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành Du lịch cần chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn nhân lực ngồi trình độ chun
mơn về du lịch phải có khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng và vận hành cơng nghệ, sẵn
sàng tiếp cận và thích ứng với bảo tồn tài nguyên du lịch. Thu hút nhân tài có trình độ
cao về cơng nghệ vào làm việc trong ngành du lịch.
– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo tồn tài nguyên
du lịch
Nâng cao nhận thức của người dân về bảo tồn tài nguyên du lịch, tuyên tuyền
sâu rộng nâng cao nhận thức của cộng đồng về các hoạt động du lịch trực tuyến, những
ưu điểm và những tồn tại, bất cập của nó để khách du lịch và người dân hiểu, có những
hoạt động tích cực, “thơng minh”, tránh bị lợi dụng, lừa đảo. Khuyến khích các doanh
nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận bảo
tồn tài nguyên du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà
nước về du lịch, nâng cao hiệu quả quản lý, từng bước điện đại hóa ngành du lịch.

KẾT LUẬN


Bảo tồn tài nguyên du lịch là xu hướng tất yếu của tương lai, nó sẽ tạo ra một
diện mạo mới cho ngành du lịch của Việt Nam và du lịch thế giới. Tuy nhiên, để bảo
tồn tài nguyên du lịch cần phải có những điều kiện và tiền đề nhất định – nền tảng cốt
yếu của nó là ứng dụng những thành tựu KH&CN tiên tiến của CMCN 4.0. Muốn bảo
tồn tài nguyên du lịch, trước hết phải có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó, phải hiểu
được bản chất và nắm được quy luật vận động, phát triển của nó.
Trong một giới hạn và phạm vi nghiên cứu nhất định, bài viết đã trình bày một
số vấn đề có liên quan đến bảo tồn tài nguyên du lịch tại Việt Nam. Trên cơ sở luận
giải các cách hiểu về thuật ngữ “bảo tồn tài nguyên du lịch”, bài viết phân tích tiến
trình bảo tồn tài ngun du lịch tại Việt Nam thời gian qua, chỉ ra những ưu điểm,
những thành tựu đã đạt được và một số khó khăn, hạn chế cịn tồn tại. Qua đó, bài viết
đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy bảo tồn tài nguyên du lịch tại Việt Nam trong thời

gian tới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 58CT/TW về Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
[2]. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW về Đẩy mạnh ứng dụng, phát
triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
[3]. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc Ban hành chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW.
[4]. Chỉ thị số 16/2017/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư.
[5]. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08-NQ/TW về Phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn.
[6]. Chính phủ (2017), Nghị định số 07/NĐ-CP Quy định trình tự, thủ tục thực
hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngồi nhập cảnh Việt Nam.
[7]. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 124/NQ-CP về việc Bổ sung danh sách các
nước có cơng dân được thí điểm cấp thị thực điện tử.
[8]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Quyết định số 3728/QĐBVHTTDL về việc ban hành kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin của Bộ VHTT&DL giai đoạn 2016-2020.
[9]. Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam (2018), Báo cáo tóm tắt
chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam (VN ICT Index 2018),
Nxb Thông tin Truyền thông, HN.
[10]. Taiwan Tourism Bureau (2018), The Heart of Asia, Publishing rights of
Tourism Bureau, Ministry of Transport, Taiwan, ISBN 978-986-05-5407-6.




×