Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

LÝ LUẬN của TRIẾT học mác – LENIN về mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC và THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH tự học của SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.71 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………………

TIỂU LUẬN

LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LENIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện: …………………
Lớp: ...................................................
Mã số SV: ……………………………

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS …………………

……., năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS …………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin chân thành
cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy cơ giáo giúp tơi
hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã ln
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 12 năm 2020
Học viên

…………………………



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học là thành tựu nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo con người và lồi
người nói chung. Q trình hình thành và phát triển của triết học diễn ra quanh co, phức
tạp và lâu dài. Vấn đề quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt
trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thực và thực tiễn là vô cùng quan trọng, cần thiết.
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn ln là một địi hỏi cấp
bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân,
của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động
lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý ... ln là chìa khóa để để giải quyết mọi
vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng
và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo
điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến
những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Tác giả quyết định lựa chọn nội dung: “Lý luận
của triết học Mác – Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn
trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay” để làm đề tài tiểu luận
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu lý luận của triết học Mác – Lenin về mối quan hệ
biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay


Để đạt được mục tiêu trên, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích nội dung của mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn
- Làm rõ lý luận của triết học Mác – Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa nhận

thức và thực tiễn trong quá trình tự học của sinh viên hiện nay
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Lịch sử - logic, phân tích – tổng hợp, quy nạp – diễn dịch


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LENIN VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN

1.1.

Nhận thức
Quan điểm duy tâm: Không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với

ý thức, do đó khơng thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan.
Duy tâm chủ quan, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp những cảm
giác của con người. Do đó, nhận thức, theo họ, chẳng qua là sự nhận thức cảm
giác, biểu tượng của con người
Duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới,
song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ
là sự tự nhận của ý niệm, tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngồi con người.
Thuyết hồi nghi nghi ngờ tính xác nhận của tri thức, biến sự nghi ngờ
thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của
bản thân thế giới bên ngồi.
Thuyết khơng thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới. Đối với
họ, thế giới khơng thể biết được, lý trí của con người có tính chất hạn chế và ngồi
giới hạn của cảm giác ra, con người khơng thể biết được gì nữa. Quan điểm của
thuyết hồi nghi và thuyết khơng thể biết đã bị bác bỏ bởi thực tiễn và sự phát

triển của nhận thức loài người.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình:Thừa nhận con người có khả
năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người. Tuy nhiên, do hạn chế bởi tính siêu hình, máy móc và trực quan nên
chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không giải quyết được một cách thực sự khoa
học những vấn đề của lý luận nhận thức.
Nhìn chung chủ nghĩa duy vật trước C.Mác chưa thấy đầy đủ vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.


Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức:
Nhận thức là quá trình phản ánh tái tạo lại hiện thực trong tư duy con người
trên cơ sở của thực tiễn - xã hội.
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản
sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người,
độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người - Hiện thực khách quan
là đối tượng của nhận thức.
Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về ngun
tắc khơng có cái gì là khơng thể biết. Dứt khốt là khơng có và khơng thể có đối
tượng nào mà con người khơng thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người
chưa biết, nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con
người sẽ biết được. Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng định
sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Q trình nhận thức
diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là q trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản
chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn
cịn là mục đích của nhân thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức.

Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng
tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
Chủ thể và khách thể nhận thức:
Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể
nhận thức
Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là lồi người nói chung.
Hay cụ thể hơn đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các
nhà bác học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận
thức, con người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động
xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm


người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận
thức.
Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí,
phẩm chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ
khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.
Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức
hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận
thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách
quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát
triển của nhận thức, của khoa học.
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể
nhận thức và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể
đóng vai trị quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã
tạo nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như
một q trình sáng tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy
luật của khách thể.
Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử - xã
hội.

1.2.

Thực tiễn
Phạm trù thức tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản khơng chỉ

của lý luận nhận thức macxít mà cịn của tồn bộ triết học Mác - Lênin nói chung.
Các nhà duy vật trước C.Mác đã có cơng lớn trong việc phát triển thế giới
quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể
biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn
nhất là khơng thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó
chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ rằng, khuyết
điểm chủ yếu, từ trước đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc) là khơng thấy được vai trị của thực tiễn.
Có một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo
trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động


tính thần, chứ khơng hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm
tính của con người.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm về
thực tiễn của các nhà triết học trước C.Mác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại một quan
điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trị của nó đối với nhận thức cũng như đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và
trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn,
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt
động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngồi, thì con

người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải
tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với
thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thoả mãn với những gì mà tự nhiên
cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của
cải vật chất để ni sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải
chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động
sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Khơng có
hoạt động đó, con người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì
vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn
là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ giữa sự vật với những điểu cần thiết đối với
con người.
Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn
lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ
biến của xã hội lồi người. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã
hội. Thực tiễn cũng có q trình vận động và phát triển của nó; trình độ phát triển của
thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Do


đó, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã
hội.
Thực tiễn bao gồm nhiều yêu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt
động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện
và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì
hoạt động thực tiễn khơng thể diễn ra được.
1.3.

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn

Giữa lý luận và thực tiễn có sự thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, thâm

nhập, chuyển hóa cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong MQH với LL, TT quyết
định LL. TT như thế nào thì LL phản ánh như thế đó. TT ln vận động, biến đổi khơng
ngừng vì vậy LL cũng phải biến đổi theo. Trình độ lý luận càng cao, nhận thức thực tiễn
càng sâu sắc. Thực tiễn càng đa dạng phong phú càng làm cho lý luận phát triển. HCM:
"Thống nhất giữa LL và TT là 1 nguyên tắc căn bản của CN Mác-Lê. Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là LL sng. TT khơng có LL hướng dẫn thì thành TT mù quáng".
LL không phản ánh hiện thực một cách thụ động mà có vai trị như kim chỉ nam vạch
phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của TT.
* MQH BC giữa LL và TT thể hiện qua vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động
thực tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy
luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp "vật
liệu" cho nhận thức. Không có thực tiễn thì khơng thể có nhận thức -> việc đo đạt ruộng
đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp - La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét,
Pitago... ra đời. Lý luận Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn CM lịch sử XH, là sự đúc
kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng
nên hệ thống lý luận KH hồn chỉnh.
Thực tiễn ln đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ địi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách
khác, thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức
phát triển.
Thực tiễn cịn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua
các hoạt động sản xuất, chiến đấu, sáng tạo nghệ thuật... những cơ quan cảm giác như


thính giác, thị giác... được rèn luyện -> tạo cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả, đúng
đắn hơn.
Thực tiễn cịn là cơ sở chế tạo cơng cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu
quả hơn như kính thiên văn, máy vi tính... đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật
chất. Nhờ những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác, đúng
đắn hơn. Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi
phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, con người
phải tìm hiểu thế giới xung quanh để tồn tại. Nghĩa là, nhận thức của con người đã bị
chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá
trị của tri thức - kết quả của nhận thức
Nếu nhận thức khơng vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ
nghĩa thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Thông qua
thực tiễn, con người mới "vật chất hóa" được tri thức, "hiện thực hóa" được tư tưởng.
Thơng qua q trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải hiểu
thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối,
vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử
cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính
tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Cho
nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là những
tri thức đã đạt được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.
Lý luận đóng vai trị soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng
ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trị hết sức to lớn đối với hoạt động
thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người
góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng
để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng


Lý luận đóng vai trị định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt
động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.

CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ

THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY


2.1. Vai trò năng lực tự học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người nói chung, của sinh viên nói riêng
Khi khẳng định vai trị của nhận thứcđối với nhận thức và cải tạo thế giới,
V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách
quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”. Điều này cho thấy, một mặt, thơng qua hoạt
động tư duy, con người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác,
thông qua hoạt động thực tiễn, con người có thể cải biến hiện thực khách quan theo
những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định nhận thứckhoa học, năng lực
nhận thứckhoa học có vai trị quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động
thực tiễn.
Năng lực nhận thứcbiện chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong q trình học
tập cũng như cơng tác sau này:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Nhận thứcbiện
chứng sẽ giúp sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên
nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên
cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên khơng cịn phải
học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ nhận thứcsiêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
2.2. Nội dung cơ bản rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên
Một là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Quan điểm tồn diện địi hỏi sinh viên nhận thức và xử lý các tình huống
thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt
động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau
để tác động vào đối tượng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần giúp

cho sinh viên có thể nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm chiết trung,
ngụy biện.


Hai là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và
hành động. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh viên trong nhận thức và xử lý các
tình huống, giải thích các hiện tượng cần phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận
thức. Khi nhận thức sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hồn cảnh lịch
sử - cụ thể, mơi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển. Phải xác
định rõ vị trí, vai trị khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể, trong tình huống cụ thể.
Ba là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên không chỉ nắm bắt cái hiện
đang tồn tại của sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng; phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt
lùi, khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp
của sự vật, hiện tượng trong q trình phát triển của nó. Sinh viên phải biết phân chia
quá trình phát triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc
đẩy sự vật phát triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì
trệ, định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu phương pháp luận
rút ra từ các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật: cái riêng và cái chung,
nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và
hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Năm là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu những quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật. Với quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, giảng viên cần rèn luyện cho sinh
viên trong nhận thức và hành động phải biết đi từ những tích luỹ về lượng để làm biến
đổi về chất, cách thức tích lũy về lượng (tăng về số lượng, thay đổi cách sắp xếp các yếu
tố cấu thành, hay cả hai), phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy thông qua vận dụng
linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Cần khắc phục hai tư tưởng trái ngược nhau là

tư tưởng tả khuynh (nơn nóng, bất chấp quy luật, chủ quan duy ý chí) và tư tưởng hữu
khuynh (bảo thủ, trì trệ). Với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, giảng
viên cần rèn luyện cho sinh viên hiểu sâu sắc rằng, để nhận thức đúng đắn bản chất của
sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu, phát
hiện ra mâu thuẫn của sự vật; phải xem xét sự vật trong thể thống nhất những mặt (nét


tương đồng), những khuynh hướng trái ngược nhau, tìm ra những mặt đối lập và những
mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó; phải biết phân loại
mâu thuẫn để đưa ra phương pháp đấu tranh cho phù hợp (tìm ra phương thức, phương
tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển). Đối với quy luật
phủ định của phủ định, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên nhận thức đúng đắn về
xu hướng phát triển của sự vật là đường “xốy ốc”, hiểu rõ q trình phát triển của sự
vật không phải lúc nào cũng đi theo đường thẳng, mà nhiều khi diễn ra quanh co, phức
tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau và ở mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm
riêng biệt, nên phải có cách tác động phù hợp, phải biết ủng hộ cái mới, đồng thời kế
thừa có chọn lọc những cái vốn có tinh hoa của cái cũ…
Sáu là, rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên nghiên cứu nội dung Lý
luận nhận thức duy vật biện chứng. Cần rèn luyên sinh viên nắm vững quan điểm thực
tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm,
chủ nghĩa giáo điều. Nhận thức là một quá trình, lặp đi lặp lại khơng có điểm dừng: từ
thực tiễn tới nhận thức – từ nhận thức lại trở về thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục q trình
nhận thức và lồi người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên phải nhận thức được chân
lý là khách quan, chống những quan điểm chủ quan cho rằng chân lý là thuộc về kẻ
mạnh, chân lý thuộc về đa số, chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán
chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính tương
đối, vừa mang tính tuyệt đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống
của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của
Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm
cụ thể nhất định

Phương pháp luận biện chứng phải được xét trên lập trường duy vật, nên phải chú
ý phần thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.3.Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực để nâng cao
năng lực tự học cho sinh viên
Thứ nhất: Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng duy vật cho
sinh viên. Cần tập trung cho sinh viên nắm vững phương pháp luận được rút ra từ lý
luận phép biện chứng duy vật: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan
điểm phát triển, quan điểm thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù,


các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong q trình giảng dạy cần so
sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề cho sinh viên giải quyết, sau đó kết luận. Chẳng hạn:
Vì sao sự phát triển diễn ra theo đường “xốy ốc” mà khơng theo đường thẳng hoặc theo
vịng trịn khép kín? Cần đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy để
chứng minh.
Thứ hai: Luyện tập cho sinh viên các phương pháp biện chứng thông qua thực
tiễn cách mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi khơng ngừng….
Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn lãnh đạo cách
mạng Việt Nam như thế nào?
Sinh viên có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật như thế
nào qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét cán bộ khơng nên chỉ xét ngoài mặt,
chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của cán bộ” , “Có kinh
nghiệm mà khơng có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” hay tìm những câu
thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng triết học duy vật biện chứng.
Cho một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ sự vận động, phát triển của sự vật chịu
tác động đồng thời cả ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật…
Thứ ba: Định hướng cho sinh viên có ý thức tự vận dụng phương pháp luận biện
chứng trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản thân. Muốn nâng cao năng lực tư
duy sinh viên cần nắm vững, áp dụng triệt để phương pháp luận biện chứng duy vật
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm tồn diện để

phân tích một hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể trong quá trình học tập của bản thân. Trong quy luật phủ định của phủ
định có thể định hướng cho sinh viên vận dụng tính kế thừa của phủ định biện chứng
trong cuộc sống, học tập của sinh viên; Hoặc bản thân sinh viên cần kế thừa như thế nào
về truyền thống văn hóa dân tộc? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên
nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Sinh viên phải nhận thức được bất cứ
kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó sinh viên có ý thức làm việc thiện, tránh
việc ác. Luyện tập cho sinh viên biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật
vào trong thực tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp
luận rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào lĩnh vực giáo dục
và đào tạo.


Thứ tư: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện chứng cho sinh viên.
Có thể kiểm tra bài tập về nhà thơng qua thảo luận nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu
hỏi ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống.
Tóm lại, để nâng cao năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện phương
pháp biện chứng duy vật, giảng viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và
phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra
sinh viên dưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn
luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào việc
xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải
quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học của họ sau này.

C. KẾT LUẬN
Năng lực nhận thức hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử
của con người; trình độ tư duy của con người, do đó phụ thuộc vào năng lực và trình độ


thực tiễn của họ. Song, tư duy cũng thâm nhập vào thực tiễn và chỉ đạo thực tiễn của

con người; những đổi mới và phát triển diễn ra trong tư duy, vì vậy có tác dụng mở
đường, định hướng cho những đổi mới và phát triển của con người trong hoạt động thực
tiễn.
Như vậy, để nâng cao năng lực tự học của sinh viên thông qua rèn luyện phương
pháp biện chứng duy vật, cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và phương pháp
dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra sinh viên
dưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện phương
pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng
lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải quyết tốt các vấn
đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học của họ sau này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), “Tồn tập, t.20”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), “Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII”, Nxb GP-CXBIPH.
[5] Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
[6] Hồ Chí Minh (1996), “Tồn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] V.I.Lênin (1977), “Toàn tập, t.42”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
[8] V.I.Lênin (1981), “Toàn tập, t.29”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.




×