Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

VẬN DỤNG NGUYÊN tắc THỐNG NHẤT và đấu TRANH GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN lý GIẢI về sự lựa CHỌN về CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.06 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………………

TIỂU LUẬN

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU
TRANH GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÝ GIẢI VỀ SỰ
LỰA CHỌN VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: …………………
Lớp: ...................................................
Mã số SV: ……………………………

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS …………………

……., năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS …………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin chân
thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy cơ giáo
giúp tơi hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã ln
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 12 năm 2020
Học viên

…………………………




A. MỞ ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực là một nguyên tắc, và luôn luôn là
một yêu cầu tối cao của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó cũng là địi hỏi tất yếu, mang tính
quy luật của hoạt động thực tiễn xã hội, của sự vận động lịch sử và sự phát triển nhân
loại. Nếu đảm bảo sự thống nhất này thì hoạt động của con người sẽ có được hiệu quả
cao và có đóng góp nhất định cho cộng đồng; đối với sự vận động xã hội sẽ có thêm
cơ sở và động lực để phát triển. Chính nhờ biết kết hợp, vận dụng và thực thi cách
mạng nguyên tắc, yêu cầu này mà trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã lãnh
đạo dân tộc Việt Nam đạt được nhiều thắng lợi quan trọng.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, trải qua hơn 33
năm đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và cũng đã chứng minh
rằng phát triển theo định hướng XHCN là phù hợp với khát vọng của toàn dân, là
nguồn sức mạnh tạo nên sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân. Độc lập dân tộc là
tiền đề, điều kiện để xây dựng đất nước XHCN và CNXH là cơ sở, nền tảng bảo đảm
vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia…
Sự phát triển của đất nước trong điều kiện hiện nay hơn lúc nào hết địi hỏi
phải có một mơ hình CNXH của riêng Việt Nam, vừa phản ánh những giá trị phổ quát
của CNXH, vừa phản ánh những đặc điểm đặc thù của Việt Nam được thể hiện bằng
những đặc trưng bản chất của xã hội XHCN của Việt Nam, các phương hướng cơ bản
để hiện thực hóa đặc trưng, các giải pháp, cách thức tiến hành mang ý nghĩa đột
phá… Phát triển đất nước theo định hướng XHCN phải được phản ánh trong các mục
tiêu chiến lược: Mục tiêu chung của công cuộc xây dựng CNXH và mục tiêu đặc thù
khi kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH gắn với mục tiêu của từng chặng đường, của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Việc xác định rõ các tiêu chí
bằng định tính, định lượng cho CNXH ở Việt Nam cũng đòi hỏi phải phân tích đầy
đủ, sâu sắc các mối quan hệ, bối cảnh quốc tế và trong nước, dự báo khoa học các xu
thế, triển vọng, những thời cơ, thách thức đang đặt ra…



Thực tiễn của công cuộc đổi mới đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu, song cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề mới đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo
những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và
xây dựng CNXH. Với tinh thần vận dụng sáng tạo đó, nhiều vấn đề lý luận mới, chưa
từng có đã được tổng kết từ thực tiễn và đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại
những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như: khốn trong nơng nghiệp, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, đảng viên làm kinh tế, kinh tế hàng hóa đa thành phần đến
kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN… Sự đúc kết nên
8 đặc trưng, 8 phương hướng và 8 mối quan hệ lớn để xây dựng CNXH ở Việt Nam
cũng chính là kết quả của sự sáng tạo lý luận của Đảng ta trong công cuộc đổi mới,
bắt đầu từ thực tiễn đổi mới tư duy. Tất cả các vấn đề đó đều là kết quả vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin về CNXH, việc tổng kết những bài học kinh nghiệm của
công cuộc xây dựng CNXH trên thế giới và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ở
Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Tác giả quyết định lựa chọn nội dung: “Vận
dụng nguyên tắc thống nhất và đấu tranh giữa lý luận và thực tiễn lý giải về sự lựa
chọn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của
mình


B. NỘI DUNG

1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác –
Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Đây là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn là cơ sở, động lực,

mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý. Chính trong hoạt động thực tiễn,
hoạt động cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và
phát triển. Thực tiễn cung cấp những cơ sở dữ liệu giúp nhận thức, lý luận hình thành
và phát triển. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hơm nay hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã viết:
“Chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư
duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học
cải biến tự nhiên . Đồng thời, lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi được vận dụng vào
thực tiễn, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn, lấy thực tiễn để kiểm nghiệm lý
luận đó là chân lý hay sai lầm. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý”
Thực tiễn có vai trị quan trọng đối với việc hình thành và phát triển lý luận của
con người, nhưng lý luận cũng có vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn, lý luận là
“kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn; định hướng, dự
báo cho hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn chủ động hơn, tích cực
hơn. Lý luận có thể dự báo được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương
hướng giúp hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả nhất. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn lao
của lý luận, Lênin viết: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong
trào cách mạng”


Tóm lại, q trình nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn, đi sâu đi
sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đơi với hành. Cịn hoạt động thực tiễn cần phải có lý luận dẫn đường,
chỉ đạo thì mới có thể đi đến thành cơng. Vì vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
được đánh giá là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo nguyên tắc “Thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn” vào thực tiễn cách mạng về sự lựa chọn về con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được
hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo,
định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm. Làm cách mạng cũng vậy, cách
mạng phải có lý luận dẫn đường mới có thể đi tới thành cơng. Cịn lý luận phải dựa
trên cơ sở thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn, ln được bổ sung, hồn thiện, phát
triển thông qua tổng kết thực tiễn, nếu không lý luận sẽ mắc bệnh giáo điều. Do đó,
theo Hồ Chí Minh để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc cần phải nghiên cứu
thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, tìm ra lý luận dẫn đường phù hợp với cách
mạng nước ta.
Ngay những năm tháng sống trong nước, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh mất
nước nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, các phong trào đấu tranh của
những vị tiền bối đi trước như cụ Pham Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh,.. đều rơi vào
thất bại. Và khi bơn ba tìm đường cứu nước, đi khắp các châu lục, nhất là đến những
trung tâm văn minh đương thời, tham gia vào những cuộc sinh hoạt luận bàn trong
các hội thảo, các câu lạc bộ chính trị, văn hóa,... Người đã đúc kết được vốn kinh
nghiệm thực tiễn phong phú, làm cơ sở để Người chắc lọc, lựa chọn và đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin - học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc và giải phóng con người. Người tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một hệ
thống lý luận rất cần thiết cho ''con đường” giải phóng dân tộc Việt Nam, “ngọn hải
đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng''. Người cũng chỉ ra
rằng: học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải học thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà


học tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tức là học thế giới quan và phương pháp
luận duy vật, biện chứng, khoa học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của
cách mạng Việt Nam một cách phù hợp. Điều đó thể hiện rõ trong hệ thống tư tưởng
của Người về con đường cách mạng Việt Nam, thể hiện nổi bật ở một số luận điểm
sau:
Thứ nhất, luận điểm về vấn đề thực hiện cách mạng vô sản ở các nước thuộc

địa. Chúng ta biết rằng, C.Mác nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong điều kiện tự do
cạnh tranh và cho rằng: Cách mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi ở những nước
tư bản phát triển. Vào thời V.I.Lênin, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, mở rộng việc xâm chiếm thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ và trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản,
cho nên Lênin đã có sự kết thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác, Lênin cho
rằng: Cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Còn cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa chỉ có thể đi đến thành công sau khi cách mạng vô sản ở
chính quốc giành thắng lợi và giúp đỡ các nước thuộc địa đấu tranh giải phóng dân
tộc. Về điều này, ngay từ đầu năm 1924, Hồ Chí Minh đã thấy được vai trị to lớn của
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Người khẳng định: Cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc như "hai
cánh của một con chim", trong đó “Cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước” và “trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em của mình ở phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hồn tồn” . Đây là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cách
mạng Việt Nam một cách tài tình, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Lý luận đó đã được
chứng minh hồn tồn đúng đắn thơng qua lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân ta.


Thứ hai, luận điểm về quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo
nguyên lý chung của học thuyết Mác-Lênin, quy luật hình thành đảng cộng sản là sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Lênin cũng chỉ rõ: sự ra
đời của các đảng cộng sản có quy luật chung, nhưng tùy vào đặc điểm của mỗi nước
địi hỏi phải có những cách thức riêng biệt. Do đó, khi vận dụng luận điểm này vào
Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy tình hình nước ta hoàn toàn khác với nước Nga và
các nước châu Âu. Ở nước ta, phong trào công nhân trong những năm 1920 hết sức

nhỏ lẻ, yếu ớt, không thể chờ cho giai cấp công nhân phát triển đảm bảo số lượng và
chất lượng nhất định mới hình thành Đảng cộng sản, trong khi đó phong trào yêu
nước phát triển mạnh mẽ, là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử Việt Nam và là
nhân tố chủ đạo quyết định thắng lợi của sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của dân tộc
ta, phong trào u nước khơng bài xích mà kết hợp được ngay với phong trào cơng
nhân. Vì thế Hồ Chí Minh xác định: quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Cho nên Đảng ta là đảng của giai cấp cơng nhân và của cả dân tộc Việt Nam.
Ngồi hai luận điểm nêu trên, trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh cịn rất
nhiều luận điểm thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa, chẳng hạn như: về nhà
nước của dân, do dân, vì dân; về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta; vấn đề về đại đoàn kết; giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp,... Vì vậy, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục
khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Tóm lại, cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh với những hoạt động trải nghiệm
thực tiễn phong phú, đã trở thành vốn kiến thức to lớn, góp phần hình thành nên hệ
thống quan điểm của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành là sự phản ánh
chân thực về việc vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
trở thành tài sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân


loại nói chung. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền
tảng tư tưởng, “kim chỉ nam” cho hành động của Đảng, dẫn đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
3.Vận dụng nguyên tắc thống nhất và đấu tranh giữa lý luận và thực tiễn

lý giải về sự lựa chọn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta có thể rút ra kết
luận rằng, chừng nào mà sự thống giữa giữa lý luận và thực tiễn được nhận thức và
tuân thủ nghiêm ngặt thì chừng đó sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta sẽ giành
được những thắng lợi to lớn, chủ nghĩa xã hội có được sức sống và lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin có cơ sở vững chắc để tồn tại và phát triển; ngược lại, khi sự
thống nhất giữa giữa lý luận và thực bị vi phạm, bị “lệch pha” thì lúc đó, sự nghiệp
cách mạng sẽ gặp khó khăn, chủ nghĩa xã hội hiện thực có nguy cơ bị khủng hoảng,
lý luận chính trị bị xơ cứng, nghèo nàn, không phản ánh được và không phù hợp với
thực tiễn và do đó, ít có giá trị hiện thực.
Gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và Cương lĩnh của Đảng, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, không ngừng cải thiện đời sống, mức sống
và chất lượng cuộc sống của nhân dân. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và
vị thế như ngày nay”
Cần phải nhấn mạnh một thành tựu về phát triển tư duy lý luận. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Trước hết, sáng tỏ về mơ hình, mục tiêu của CNXH Việt Nam. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) đã xác định 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng hàng đầu là xây dựng xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng về vai trò làm chủ của
nhân dân, về nền kinh tế phát triển cao, về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, về xã hội và con người, về đoàn kết các dân tộc, về nhà nước pháp quyền và về
hợp tác, hữu nghị trong quan hệ quốc tế, đã làm rõ bản chất tốt đẹp và tính hiện thực
của CNXH ở Việt Nam.


Sáng tỏ hơn về những nội dung phát triển trong thời kỳ q độ lên CNXH. Đó
là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều

loại hình sở hữu theo định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hóa, xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bảo đảm
vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh
Thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH cũng làm rõ hơn khả năng bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên CNXH. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”
Cơng cuộc đổi mới, xây dựng CNXH địi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư
duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, nâng cao năng lực dự báo, xử lý có hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh
trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát
triển. “Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(13).


Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện

Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), nhiều vấn đề được tổng
kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu bức thiết do thực tiễn đặt ra,
nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo; vấn đề xây dựng văn hóa, con
người trong xã hội văn minh, tiến bộ; vấn đề chống suy thoái, tham nhũng, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam XHCN hùng
cường, sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khi kết thúc thời kỳ
quá độ, xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp. Đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Đó là mục tiêu, định
hướng phát triển với tầm nhìn chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và
100 năm Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2045)
Lịch sử hiện nay đã có nhiều biến đổi, xu hướng tồn cầu hóa kinh tế và mạng
lưới hóa thơng tin đang ngày càng phát triển, lan tỏa đến từng lĩnh vực trên khắp thế
giới, tác động mạnh mẽ đến quan điểm nhân sinh, quan điểm giá trị của con người.
Điều đó làm cho lồi người có thể cần phải trải qua một quá trình gian khổ để “định
hướng lại triết học và văn hóa”. Sự định hướng ấy, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến nhiều
lĩnh vực tư tưởng, chính trị, xã hội và tác động trực tiếp đến việc xây dựng các giá trị
con người, trong đó có con người XHCN.
Cơng cuộc đổi mới của đất nước ta cũng đang có nhiều thay đổi, địi hỏi cần có
câu trả lời khiến cho mọi người tin phục về các giá trị của CNXH và những con
người XHCN, tạo nên những trụ cột nâng đỡ tinh thần và khát vọng của đại đa số
nhân dân. Trên thực tế, được thực tiễn soi rọi, Đảng ta đã từng bước làm sáng tỏ các
yêu cầu đó.
Trước hết, về CNXH và con đường đi lên CNXH. Thông qua sáng tạo lý luận,
thúc đẩy sáng tạo trên mọi phương diện, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về
quy luật và tính quy luật phát triển của xã hội. Nếu như trước đây, nhận thức về
CNXH chỉ đơn giản là “một xã hội tốt đẹp, nằm ở nấc thang phát triển cao hơn
CNTB” với 3 thuộc tính cơ bản: Một là, xóa bỏ tư hữu, thiết lập chế độ cơng hữu



(toàn dân và tập thể) đối với tư liệu sản xuất (tư bản, đất đai). Hai là, nguồn lực kinh
tế được quản lý, phân phối theo kế hoạch của Nhà nước, sản xuất và phân phối theo
chỉ tiêu pháp lệnh, không theo cơ chế thị trường. Ba là, làm theo năng lực và hưởng
theo lao động, nhưng thường thì lao động chỉ được đánh giá trên thời gian mà ít quan
tâm trên chất lượng,... Thì đến nay, Đảng ta đã định hình rõ nét và cụ thể hơn bằng
một hệ thống quan điểm lý luận về CNXH. Trong đó, đã khái quát thành 8 đặc trưng:
“Xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, đó là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Cùng với việc khái quát thành 8 đặc trưng nêu trên, Đảng ta đã xác định cụ thể
hơn 8 phương hướng xây dựng CNXH và 8 mối quan hệ lớn về đổi mới phát triển
XHCN(9). Nếu 8 đặc trưng là những nội dung định hướng XHCN, thì 8 phương
hướng, chính là con đường đi lên CNXH, là mơ hình xây dựng CNXH trong thực tiễn
của nước ta; 8 mối quan hệ có ý nghĩa là những quy luật, những tính quy luật mà
công cuộc đổi mới, phát triển ở Việt Nam tất yếu phải tuân thủ.
Việc Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường bắt đầu từ chủ trương
phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường; xác định rõ về vị trí, vai trị các thành phần kinh tế, coi
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế;... là những bước đột
phá lớn về lý luận, hướng cách mạng XHCN ở nước ta đi đúng với quy luật phát triển
của lịch sử xã hội. Điều đó, đã làm thay đổi quan trọng cách nhìn, cách đánh giá, ứng
xử đối với kinh tế thị trường và nhất là với kinh tế tư nhân, những thành tựu của tư
duy nhân loại mà CNTB làm, CNXH cũng phải làm.

Hệ thống các quan điểm nêu trên là những thành tựu nổi bật của đổi mới tư
duy, phát triển lý luận của Đảng ta, khắc phục hồn tồn tư tưởng “duy ý chí” về
CNXH như trước đây. Bằng các quan điểm khoa học, sáng tạo, Đảng ta đã trả lời trực


tiếp các câu hỏi: CNXH là gì? Xây dựng CNXH ở Việt Nam như thế nào trong điều
kiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN)? Mơ hình, con
đường, phương hướng đi lên CNXH như thế nào?
Thứ hai, về con người XHCN, Đảng ta luôn xác định: Con người là chủ thể
sáng tạo văn hóa, đồng thời là chủ thể sáng tạo lịch sử, là mục tiêu và động lực của
đổi mới của CNXH. Vì thế, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ln chủ
trương xây dựng hệ giá trị con người mới XHCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các định hướng
giá trị con người Việt Nam XHCN được quán triệt trong xây dựng nền tảng văn hóa
của thời kỳ đổi mới là: Con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Cụ thể hóa các đặc tính cơ bản đó với tính cách là những chuẩn mực, thành
những giá trị để giáo dục, thực hành, rèn luyện trong đời sống hằng ngày của cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta, chính là xây dựng con người XHCN. Trong đó, đặc biệt
chú trọng xây dựng các giá trị biểu hiện lòng u nước; nhân ái, đạo đức, lối sống có
nghĩa tình; lòng trung thực - thước đo phẩm chất cốt lõi của đạo đức, nhân cách, lối
sống; tình đồn kết, đồng thuận, hợp tác, cộng đồng chia sẻ trách nhiệm của con
người trong hoạt động và ứng xử; phẩm chất mới cần rèn luyện trong đức tính cần cù
trong xã hội hiện đại, trong nền sản xuất công nghiệp và trong xu hướng phát triển
kinh tế tri thức; sự sáng tạo để phát triển - một năng lực nổi bật, một giá trị ưu trội
của con người và nhân cách trong hoàn cảnh đổi mới phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế; tính kế thừa thế hệ trong giáo dục giá trị; trong chiến lược phát triển
con người, trong giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội... Đó chính là những điểm
mới nổi bật trong phát triển tư duy lý luận của Đảng về con người Việt Nam XHCN
thời kỳ đổi mới.

Đổi mới theo định hướng XHCN là một quá trình cách mạng hết sức sâu sắc,
triệt để, thường xuyên diễn ra cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ “bần cùng lạc hậu”
và cái mới “tốt tươi”, để nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Do đó, phải trải qua thời kỳ quá độ rất lâu dài và phải tuân thủ các
bước đi như một tất yếu khách quan. Trong điều kiện bỏ qua chế độ TBCN như một
loại hình “phát triển rút ngắn” với phương thức “quá độ gián tiếp” lên CNXH, đòi hỏi


phải có những con người XHCN có trình độ, năng lực vượt trội, hay ít nhất cũng
tương xứng với loại hình và phương thức phát triển đó.
Hiện tại, con đường đi lên CNXH ở nước ta tuy vẫn còn những khuyết điểm,
chưa thực sự đáp ứng với kỳ vọng lớn lao của nhân dân, nhưng nhìn tổng thể, những
thành tựu đạt được là rất to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó tạo
tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong
những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên CNXH ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn cố tình bỏ qua những nỗ lực và
thành tựu đã đạt được của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, tiếp tục thực hiện nhiều
biện pháp âm mưu “diễn biến hịa bình” đối với nước ta. Một mặt, chúng ra sức tuyên
truyền về “thế giới tự do” về sự “vĩnh hằng” của CNTB và sự sụp đổ của chế độ
XHCN; mặt khác, khai thác triệt để những khuyết điểm của CNXH hiện thực, xuyên
tạc về CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng; núp dưới các chiêu bài đòi dân chủ đa
nguyên chính trị và nhân quyền, kích động các lực lượng chống đối, can thiệp vào
công việc nội bộ của Đảng và Nhà nước ta hòng khiến nhân dân ta xa rời con đường
đi lên CNXH. Rõ ràng, chủ nghĩa đế quốc khơng bao giờ thay đổi mục tiêu xố bỏ
CNXH, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “đế quốc, chết thì chết,
nết khơng chừa”(11). Có khác chăng là trong tình hình mới, chúng sử dụng những
sách lược, thủ đoạn mới tinh vi, hiểm độc hơn mà thôi.
Hơn bao giờ hết và hơn ai hết, hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ

lãnh đạo các cấp phải tiếp tục giác ngộ lập trường, tư tưởng, nâng cao năng lực, phẩm
chất cách mạng, kiên quyết vạch trần những âm mưu xảo quyệt của các thế lực thù
địch, cùng nhau phối hợp hành động, đẩy lùi và làm thất bại những thủ đoạn đen tối
của chúng. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của quần chúng nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ về bản chất tốt
đẹp của xã hội XHCN, của công cuộc đổi mới, từ đó, xây dựng hồi bão, lý tưởng
cao đẹp của con người mới XHCN. Con người mới Việt Nam XHCN nhất định không
thể yếu kém về năng lực, phẩm chất, càng không thể dao động, “a dua” với một số
phần tử bất mãn, cực đoan. Cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên phải được tôi luyện


như thế hệ cha ông đã từng tôi luyện trong chiến tranh: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Với ý chí kiên cường, sáng tạo và lịng tự tơn dân tộc, chắc chắn, công cuộc đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, dân tộc ta sẽ trường tồn phát triển, nhân
dân ta sẽ được giải phóng hồn toàn khỏi bần cùng lạc hậu, khỏi tụt hậu và không bị
chệch hướng XHCN. Xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng nhất định sẽ đi
đến bến bờ
Tóm lại, khái quát thực tiễn để phát triển lý luận và đến lượt nó, nghiên cứu,
phát triển lý luận để soi đường, định hướng cho thực tiễn là một tất yếu, một đòi hỏi
nội sinh của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn lý giải về sự lựa chọn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.


C. KẾT LUẬN
Qua mỗi bước ngoặt, mỗi chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”, thể hiện rõ ràng và dứt khoát mục tiêu con đường cách mạng Việt Nam được
nêu trong Cương lĩnh đầu tiên. Cùng với tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập

quốc tế (1986-2020), nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con
đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ, hoàn thiện hơn về mục tiêu và mơ hình xây
dựng CNXH; về các chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt
Nam. Sự nghiệp đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi Đảng ta phải
nắm vững và quán triệt mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải đáp những
vấn đề mới, phức tạp do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ động hội nhập quốc tế và phát
triển bền vững. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với đặc điểm của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
“đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998, tr.2, 94.
(3) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.315.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Tồn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.89.
(5), (6), (7) Hồ Chí Minh Tồn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.390, 391, 391.
(8) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.92.
(9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr.363, 390.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.20.

(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84.
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.17-18
(144) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8,
tr.496
(15) C.Mác và Ph.Ăngnghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994, t.20, tr. 270.



×