Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

BÀI TẬP HỌC PHẦN TRIẾT HỌC GÒM 4 CÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.48 KB, 67 trang )

BÀI TẬP HỌC PHẦN TRIẾT HỌC GÒM 4 CÂU

Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam?
1.1. Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại:
* Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích ca:
Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào thế kỷ VI – TCN. Người sáng lập
Phật giáo là Thái tử Tấn Đạt Đa, họ Gôtama. Phật sinh năm 563 trước công nguyên (ngày
8 tháng 4 năm 563), nhưng theo truyền thống phật lịch là ngày rằm tháng 4 (15/4) gọi là
ngày Phật đản. Ông là con vua Tịnh Phạn trị vì một xứ nhỏ ở trung lưu sông Hằng là Ca tỳ
la vệ. Cuộc sống nơi cung đình đã tạo cơ hội cho ơng chăm lo việc học hành, lễ bái, yến
tiệc và giải trí. Vì vậy ơng khơng hay biết những gì đen tối, cực nhọc, nỗi bất hạnh diễn ra
ngoài xã hội. Năm 17 tuổi ông cưới vợ và sinh được một người con trai đặt tên là La Hầu
La. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của kiếp người, ông
quyết noi gương theo các đạo sĩ tu theo lối sống khổi hạnh.
Năm 29 tuổi ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn sĩ. Sau 6 năm tu khổ hạnh, ông chợt
nhận thấy rằng, lối tu đó cũng khơng giải thốt con người khỏi nổi đau sinh, lão, bệnh, tử.
Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như
nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ơng đã phát hiện ra con đường “trung
đạo”, một con đường có thể dẫn con người đến sự giải thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày
chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lý, đã hiểu được bản
chất của sự tồn tại của nhân sinh. Từ đó ơng được gọi là Thích Ca Mâu ni – tức người giác
ngộ chân lý đầu tiên có họ là Thích Ca. Ơng bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu
nạp đệ tử, thành lập các tăng đồn Phật giáo. Vào năm 483 (trước Công nguyên) ông tạ
thế.
Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết lý thăng trầm về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ
của con người. Phật giáo nhanh chóng đã chiếm được tình cảm và niềm tin của đơng đảo
quần chúng lao động. Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền
thống của các dân tộc Châu Á.


Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ bao gồm 3 bộ phận gọi là Tam tạng kinh gồm: Tạng
kinh: ghi lại những lời dạy của phật thích ca; Tạng luật: những điều quy định mà giáo đoàn
1


phật giáo phải tuân theo; Tạng luận: các tác phẩm luận giải về phật giáo của các học giả
cao tăng về sau.
* Quan điểm về thế giới quan:
Quan điểm về thế giới quan của phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của ba
phạm trù là: vô ngã, vơ thường, và dun.
- Quan điểm “vơ ngã” (khơng có cái “ta” cái “tôi” chân thực): Phật giáo cho rằng thế
giới xung quanh ta và cả con người không phải do 1 vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu
thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố vật chất và tinh thần. Vật chất gọi là “sắc”, là cái có thể
cảm giác được, nó bao gồm đất, nước, lửa, khơng khí. Tinh thần gọi là “danh” khơng có
hình chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm thụ (cảm thụ), tưởng (sự suy nghĩ, tư tưởng), hành (ý
muốn thúc đẩy hành động), thức (sự nhận thức). Chính cái “danh” và cái “sắc” đó kết hợp
lại với nhau tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người.
Nhưng sự tồn tại chỉ là tạm thời, thống qua, khơng có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi
mãi. Do đó, khơng có cái “bản ngã” hay cái tôi chân thực.
- Quan điểm “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): Quan điểm này cho rằng
thế giới là dịng biến đổi khơng ngừng, khơng nghỉ theo chu trình bất tận: sinh, trụ, dị ,diệt.
- Quan điểm “Duyên” (Điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả)
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn
nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó, duyên là điều kiện giúp nguyên
nhân thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác. Nhân khác lại
nhờ có duyên mà thành kết quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của
các sự vật.
Vd: Hạt lúa là nguyên nhân, nhờ có duyên (đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, ...) mà có
kết quả là cây lúa.
Trong thực tế q trình nhân - quả là vơ tận. Q trình trước là cơ sở, nguyên nhân

cho quá trình sau. Vd: Tốt nghiệp lớp 12 là kết quả của 12 năm học tập, đồng thời là
nguyên nhân cho vào đại học. Tuy nhiên, tốt nghiệp lớp 12 đồng thời cũng là nguyên nhân
cho việc học cao học ...
Như vậy, thông qua phạm trù vô ngã, vô thường và duyên, triết học phật giáo đã bác
bỏ quan điểm duy tâm cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo
cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật
của thế giới nằm trong q trình biến đổi khơng ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện
chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
* Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh:
2


Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được thể hịên tập trung trong thuyết “Tứ
diệu đế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời của mỗi con người là một bể khổ, ít nhất có
tám nỗi khổ (bát khổ). Đó là: sinh, lão, bệnh, tử , thụ biệt ly, (yêu thương nhau mà phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không
được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng
khổ.
Hai là nhân đế (tập đế): Giải thích nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi
khổ của con nguời là có nguyên nhân, Phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là
thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1. Vô minh: Là không sáng suốt.
2. Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan.
6. Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.

7. Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngồi.
8. Dun ái: Là sự u thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới
bên ngồi.
9. Dun thủ: Do u thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10. Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Dun lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi đau
khổ của nhân loại.
Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt tới
trạng tái Niết bàn.
Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con
đường giải thốt khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc. Phật giáo đưa ra tám con đường chân
chính gọi là (bát chính đạo).
3


1. Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế.
2. Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
3. Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm việc
thiện.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6. Chính tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng.
7. Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thốt.
8. Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về
vô ngã, vơ thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vơ minh, đạt
tới sự giải thoát, nhập vào Niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt
sinh tử liên hồi.

Ngồi tám con đường chính để diệt khổ, Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi
người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là: bất sát
(khơng được sát sinh); bất dâm (không được dâm dục); bất vọng ngữ (không được nói
năng thơ tục, bậy bạ); bất ẩm tửu (khơng được rượu trà); bất đạo (không được chộm
cướp).
Sau khi Buddha mất, Phật giáo đã phân chia thành hai tông phái: Phái Thượng tọa bộ
(Theravada) với chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo thời Đức Phật tại thế và
phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tưởng cải cách giáo lý và hành đạo cho phù hợp
với thực tế.
Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, ở Ấn Độ xuất hiện hai phái Phật giáo mới là
Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivadin) và phái Kinh lượng bộ (Sautrànstika). Về mặt triết học,
quan điểm của phái Nhất thiết hữu bộ cho rằng “tất cả đều tồn tại”, tồn tại vô cùng, vô tận
trong thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai - trong cái này đã có cái kia theo một logíc tất
yếu tác động của luật nhân - quả. Phái Kinh lượng bộ đi sâu vào phạm trù “vô thường” của
Phật giáo sơ kỳ, nhấn mạnh tính khoảnh khắc của sự tồn tại, đưa ra các khái niệm “biến
chuyển thấy được” và “biến chuyển không thấy được”, cho rằng sự biến chuyển mà người
ta có thể nhận thấy là hệ quả và biểu hiện của những biến chuyển không được nhận thấy.
Vào khoảng đầu công nguyên, xuất hiện phái Đại thừa giáo (Mahàyana) với chủ
trương mang tính xã hội rộng mở là: tự giác, giác tha (tự mình giác ngộ cho mình và giúp
đỡ người khác cùng giác ngộ được như mình). Chủ trương này khác với phái đối lập mà
4


họ gọi là Tiểu thừa (Hinàyana) đã xuất hiện trước đó, phái này chỉ nhấn mạnh tới con
đường giải thốt cá nhân.
Về mặt triết học, phái Đại thừa giáo có hai trường phái tư tưởng lớn có ảnh hưởng
sâu sắc trong giới trí thức mãi về sau; đó là phái Yogacara với thuyết Duy thức và phái
Madkyamika với thuyết Tính không. Thuyết Duy thức lập luận rằng: vạn vât, vạn tượng
đều sinh ra từ thức. Thức được quan niệm là bản thể vĩnh hằng của thế giới. Trái với
thuyết Duy thức, thuyết Tính khơng lại chủ trương bản thể của vũ trụ và nhân sinh vốn là

tính khơng. Cái hiện ra chỉ là ảo, giả, là Vô minh. Phá vỡ vơ minh thì trở về với khơng, khi
đó con người trở về với sự giác ngộ của mình.
Như vậy, Phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ấn Độ cổ, trung đại. Ở giai đoạn
đầu học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng về thế
giới. Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán
sự bất cơng, địi tự do bình đẳng xã hội. Đồng thời nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát
con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác
ái góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh của Phật giáo
vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
* Liên hệ vai trò phật giáo Việt Nam:
Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Với bản chất từ bi,
bác ái, hỷ xả, Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên
mảnh đất này. Phật giáo truyền vào nước ta bằng 2 con đường: từ Trung Hoa và từ phía
Nam. Do phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam nên Phật giáo thâm nhập
vào Việt Nam một cách tự nhiên.
Từ khi vào Việt Nam đến nay, Phật giáo tồn tại và phát triển phù hợp với truyền
thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp
phần kiến lập và bảo vệ chế độ phong kiến vững mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Trước đây Phật giáo có cơng trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong
đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư có đức độ và tài năng giúp nước an dân như: Ngô Chân
Lưu, Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu, Không Lộ… Bản chất từ bi hỷ xả ngày càng
thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và tầng lớp vua quan vào con
đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước.
Vào thời cực thịnh, Phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, văn học, giáo dục, khoa học, kiến trúc, hội họa… Nhiều tác phẩm văn học có giá
trị, nhiều cơng trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc có tầm cỡ quốc tế của Việt
Nam được xây dựng vào thời kỳ này. Từ cuối thế kỷ XIII cho đến nay, Phật giáo không
5



còn là ”quốc giáo” nữa nhưng những giá trị tư tưởng tích cực của nó vẫn cịn là nhu cầu,
sức mạnh tinh thần của nhân dân ta./.

Câu 2: Phân tích nội dung cơ bản của Triết học Nho giáo thông qua Khổng Tử
và Mạnh Tử.
Là trường phái triết học lớn phát triển mạnh vào khoảng thế kỷ V – TCN. Thời kỳ
này có 2 triết gia nổi tiếng là Khổng Tử , Mạnh Tử :
* Khổng Tử (551-479 trước Công Nguyên)
Khổng Tử là người mở đầu khai sinh trường phái Nho gia. Ông họ Khổng, tên Khâu,
tự Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhưng đã sa sút. Cha Khổng Tử
đã từng làm quan võ của nước Lỗ, có lúc làm quan đại phu của nước Lỗ. Nhưng khi
Khổng Tử ra đời, cha về hưu (Cha có 03 vợ, : vợ đầu có 09 con gái, vợ 2 có 01 con trai
nhưng lại bị bệnh teo chân. Năm 70 tuổi cha cưới vợ 3 sinh ra Khổng Tử, đến năm 73 tuổi
thì mất). Khổng Tử nói: “Ta lớn lên trong cảnh nghèo hèn nên biết nhiều nghề mọn”
Ơng là người thơng minh, ơn hồ, nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu học. Với ông “học
không biết chán, dạy không biết mỏi”, là người đầu tiên tự mở trường dạy học. Học trị
của ơng khơng phân biệt giai cấp nhưng việc đào tạo có mục đích.
Khổng Tử từng làm quan (trông coi ruộng đất, sổ sách) nhưng không được trọng
dụng. Cuộc đời không thành đạt trong quan trường nhưng lại rực rỡ trong lĩnh vực triết
học nhân sinh. Khổng Tử mất năm 73 tuổi.
Khổng Tử là tác giả của nhiều tác phẩm gồm Ngũ Kinh: Kinh Dịch (giải thích bản
chất của thế giới theo quan điểm âm dương ngũ hành), Kinh Thư (trình bày các hoạt động
của các triều đại trong lịch sử), Kinh Thi (tác phẩm sưu tầm truyền thuyết, ca dao, dân ca),
Kinh Lễ (tác phẩm trình bày tổ chức hành chính và trật tự đời nhà Chu), Kinh Xuân Thu;
Luận Ngữ (bàn về đường lối chính trị, lấy dân là gốc); Đại học (tác phẩm bàn về sự học
của người quân tử); Trung dung (dạy cách ứng xử của người quân tử)
- Quan niệm triết học của Khổng Tử về chính trị xã hội:
Khổng Tử sống trong thời đại nhà Chu suy tàn, trật từ xã hội bị đảo lộn. Trước tình hình
đó, Ơng chủ trương lập lại lễ giáo nhà Chu, lập ra học thuyết, mở trường dạy học và đi khắp
nơi để truyền bá tư tưởng của mình. Để thực hiện điều đó, ơng đã xây dựng nên học thuyết về

chính trị xã hội mà cốt lõi là 3 phạm trù nhân - lễ - chính danh.
+ Quan niệm về đức nhân:
6


Theo Khổng Tử, đức nhân có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa chính là thương người, là
nhân đạo đối với con người. Nhân cũng là đức hạnh của người quân tử.
Theo Khổng Tử đức nhân dựa trên 2 nguyên tắc:
1. Cái gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác được chứng minh trong câu:
“kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.
2. Mình muốn đứng vững thì giúp người khác đứng vững, mình muốn lập thân thì
giúp người khác lập thân được chứng minh trong câu: “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt
nhi đạt nhân”.
Trên cơ sở 2 nguyên tắc này ơng cụ thể hố thành các tiêu chuẩn đạo đức đối với các
tầng lớp xã hội. Đặc biệt là đối với tầng lớp Quân tử. Ông cho rằng, đối với người làm
chính trị quản lý xã hội, muốn có đức nhân phải có 5 điều:
Một là kính trọng dân
Hai là khoan dung độ lượng với dân
Ba là giữ lòng tin với dân
Bốn là mẫn cán (tận tụy trong cơng việc)
Năm là đem lịng nhân ái đối với dân
Như vậy, quan niệm về đức nhân của Khổng Tử là 1 đóng góp lớn trong việc giáo dục
đào tạo con người giúp con người phát triển tồn diện, vừa có đức có tài. Tuy nhiên do hạn
chế về lập trường giai cấp nên quan niệm về đức nhân của Khổng Tử cũng có nội dung
giai cấp rõ ràng khi ơng cho rằng chỉ có người quân tử mới có được đức nhân; nghĩa là đạo
nhân chỉ là đạo của người quân tử tức là của giai cấp thống trị.
+ Quan niệm về lễ:
Khổng Tử cho rằng để đạt được đức nhân phải chủ trương dùng lễ để duy trì xã hội.
Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng, tế, lễ, lễ là lễ cương, trật tự xã hội, là những
quy định có tính pháp luật địi hỏi mọi người phải chấp hành. Ai làm trái với những điều

quy định đó là trái với đạo đức. Như vậy, lễ là biện pháp để đạt đến đức nhân.
+ Quan niệm về chính danh: Quy định rõ danh phận của mỗi người trong xã hội.
Khổng Tử cũng như các nhà nho khác đều có hồi bão về một xã hội có kỷ cương.
Thời đại Khổng Tử là thời đại xã hội rối loạn vì vậy điều căn bản của việc làm chính trị là
xây dựng xã hội chính danh để mỗi người, mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của mình
mà thực hiện.
7


Chính danh gồm có 2 bộ phận danh và thực: danh là tên gọi, là địa vị, là thứ bậc của
con người. Thực là quyền lợi mà con người được hưởng phù hợp với danh. Khổng Tử cho
rằng danh và thực phải thống nhất với nhau. Từ đó ơng chia xã hội thành năm mối quan hệ
gọi là ngũ luân.
Vua - tôi (quân thần): vua nhân - tôi trung
Chồng - vợ (phu phụ): chồng biết điều - vợ nghe lẽ phải
Cha - con (phụ tử): cha hiền - con thảo
Anh - em (huynh đệ): anh tốt - em ngoan
Bạn - bè (bằng hữu): chung thuỷ
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người, mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận của mình
thì xã hội có chính danh và xã hội có chính danh là xã hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái
bình thịnh trị.
- Quan điểm triết học của Khổng Tử về thế giới:
Trong quan điểm về giới thì Khổng Tử có sự dao động giữa lập trường duy vật và lập
trường duy tâm. Bởi vì khi thì ơng tin có mệnh trời, ơng cho rằng “tử sinh có mệnh” (sống
chết tại trời, khơng cãi được mệnh trời). Ơng cho rằng người quân tử có 3 điều sợ trong đó
sợ nhất là mệnh trời, 2 là sợ bậc đại nhân, 3 là sợ lời thánh nhân. Nhưng có khi Khổng Tử
lại khơng tin có mệnh trời: ơng cho rằng trời là lực lượng tự nhiên khơng có ý chí, khơng
can thiệp vào cơng việc của con người. Ơng cho rằng “Trời có nói gì đâu mà 4 mùa cứ vận
hành thay đổi, trăm vật trong vũ trụ cứ sinh sơi”.
Khổng Tử cho rằng ý chí của Trời là thiên mệnh. Người Quân tử có ba điều sợ: sợ

mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh nhân. Trong đó, sợ nhất là sợ mệnh trời. Nhưng có
khi Khổng Tử lại khơng tin có mệnh trời, ơng cho rằng: trời chỉ là lực lượng tự nhiên
khơng có ý trí, khơng can thiệp vào cơng việc của con người, do đó ông cho rằng con
người bằng nỗ lực chủ quan của mình cũng có thể thay đổi được “Thiên tính” ban đầu.
Theo ơng, con người lúc sinh ra, cái “tính” Trời phú cho là giống nhau nhưng trong quá
trình tiếp xúc, học tập làm cho con người khác nhau. Khổng Tử coi việc hiểu biết Mệnh
trời là một điều kiện để trở thành người hồn thiện.
Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ơng có tính lễ giáo hơn là
tơn giáo. Ơng cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành. Tuy nhìn mà
không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm mọi vật mà khơng bỏ sót, nhưng mọi người
đều cung kính, trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần cả ở bên tả, bên hữu mình. Mặc khác, ơng
cho rằng, quỷ thần khơng có tác dụng chi phối cuộc sống con người, ông phê phán sự mê tín
quỷ thần.
8


Tóm lại: Khổng Tử nói về tự nhiên khơng nhiều, ông thừa nhận có “Thiên mệnh”,
nhưng đối với quỷ thần lại xa lánh, kính trọng, vấn đề này rất mâu thuẫn. Tuy nhiên, mặc
dù đứng trên lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ nhằm bảo vệ trật tự xã hội nhà Chu
suy tàn, nhưng triết học của Khổng Tử có nhiều yếu tố tiến bộ ở chỗ đề cao vai trò đạo
đức, kỷ cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục đào tạo con người, trọng hiền tài, nhân
đạo đối với con người và những quan điểm tiến bộ của ơng nhằm xây dựng xã hội thái
bình thịnh trị.
* Mạnh Tử (327 - 289 trước Công Nguyên):
Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đơng,
Trung Quốc. Ơng là người thừa kế thừa và phát triển tư tương của trường phái Nho Gia.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở ba nội dung:
- Quan điểm của Mạnh Tử về thế giới:
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng khơng có việc gì xảy ra mà khơng do mệnh

trời, mình nên tuỳ thuận mà nhận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử
đưa ra học thuyết “vạn vật đều có đủ trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất
cả” nghĩa là khơng cần tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là
biết được tất cả, chuyển từ quan điểm duy tâm khách quan sang quan điểm duy tâm chủ
quan.
- Quan điểm về bản chất con người
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên phú chứ
không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện
ngày càng mạnh thêm, nếu khơng biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con
người càng thêm nhỏ nhen, ti tiện khơng khác gì lồi cầm thú.
Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có
thể là ác. Đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên để thiết lập quốc
gia thái bình, thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy
nhân làm gốc.

- Quan điểm về chính trị xã hội
Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tương
của ông về “dân quyền”, tức là đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Ơng cho rằng
trong một quốc gia q nhất là dân rồi mới tới vua, đến của cải xã tắc “dân vi quí, quân vi
9


khinh, xã tắc thứ chi”. Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ bảo
dân, dưỡng dân, tức là phải chăm lo, bảo vệ nhân dân mà ơng u cầu người trị vì đất nước
phải quan tâm đến dân, phải tạo cho dân có nhà cửa, ruộng vườn, tài sản bởi vì họ “hằng
sản mới hằng tâm”. Ơng là người chủ trương khơi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho
dân. Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó
là những quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào
đường lối chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh thần
nhân bản theo con đường lấy dân làm gốc.


Câu 3: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Democrite và quan
điểm triết học duy tâm của Platon trong triết học Hy Lạp cổ đại.
* Đêmôcrit (460 – 370 tr. CN)
Đêmôcrit là một trong những nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại. Ông
sinh ra ở Apđe, một thành phố thương mại lớn nhất vùng Tơ-ra-xơ trong một gia đình giàu
có, có điều kiện để học tập và đi du lịch nhiều nơi, do vậy ơng có tầm hiểu biết rộng, nắm
được hầu hết những kiến thức đương thời như: triết học, logic học, toán học, vũ trụ học,
vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, giáo dục học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học. Vì
vậy, ơng được coi là người có bộ óc bách khoa đầu tiên trong người Hy Lạp, quan điểm
duy vật của ông được thể hiện ở những nội dung sau.
- Quan điểm về thế giới: Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi sự vật
là nguyên tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được nửa, khơng nhìn
thấy được, khơng âm thanh, không màu sắc, không mùi vị và tồn tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Đêmôcrit, sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo
nên. Tính đa dạng của các nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên
tử tự vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới vận
động không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên khái niệm không gian,
theo ông không gian là khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với
nhau. Ông là người đã thấy được mối liên hệ giữa vật chất, vận động và không gian. Ở đây
Đêmôcrit đã thể hiện lập trường duy vật về tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của ông là tư tưởng quyết định luận, nghĩa là ơng
giả thích mọi hiện tượng biến đổi theo quy luật nhân quả. Theo ông vũ trụ do vô số thế
giới tạo nên, do những sự kết hợp khác nhau (tập trung và phân tán) của những nguyên tử
luôn vận động trong không gian và tuân theo quy luật của tự nhiên đã tạo nên sự xuất hiện
và diệt vong của vô số thế giới, hợp thành vũ trụ. Ông cho rằng sự sống là kết quả của quá
10


trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi

trường nước là bùn, dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước, sau đó dần
dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn, cuối cùng là con người trên quả đất.
Sự thừa nhận tính quy luật, tính nhân quả trong triết học của Đêmơcrit là thành quả
có giá trị của triết học duy vật cổ đại Hy Lạp. Song, ơng lại phủ nhận tính ngẫu nhiên và
cho rằng trong cụôc sống nếu chỉ dựa vào ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm lười
biếng mà thơi. Ơng bác bỏ quan điểm duy tâm xem linh hồn là bản nguyên của thế giới.
Ông cho rằng linh hồn cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu nó cũng chết cùng với
cái chết của cơ thể.
- Về lý luận nhận thức: Đêmơcrit là người có cơng đặt nền móng cho sự hình thành
lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người
về thế giới. Ông chia nhận thức ra làm 2 dạng: nhận thức cảm tính do các giác quan đem
lại gọi là nhận thức mờ tối, thực chất là trực quan sinh động; và dạng nhận thức chân
lý thơng qua phán đốn logic, thực chất là giai đoạn tư duy trừu tượng. Ơng cho rằng
trong đó dạng nhận thức chân lý phản ánh được bản chất của sự vật và 2 dạng nhận thức
này có liên hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trị quan trọng nhưng dạng nhận thức chân
lý đáng tin cậy hơn vì nó có khả năng phản ánh được bản chất của sự vật.
Đêmơcrit cịn là người đặt nền móng cho sự ra đời của logic học với tư cách là khoa
học của tư duy. Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “Bàn về logic học” ông
coi logic học là một công cụ để nhận thức các hiện tượng của tự nhiên.
Vd: Từ những đặc điểm riêng - đặc điểm chung – khái niệm.
- Cây lúa có đặc điểm: lá hình mác, thân thảo, rễ chùm. Cây xồi có đặc điểm: lá
hình bầu dục, thân thẳng, rễ cọc. Cây đu đủ có đặc điểm: lá hình chân vịt, thân mọc, rễ
chùm. Cây mít có đặc điểm: lá hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Các cây này đều có đặc
điểm chung là đều có thân, lá, rễ - khái niệm “cái cây”.
- Từ các đặc điểm: động vật biết chế tạo công cụ lao động và có ý thức – khái niệm
“con người” vừa là thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội.
- Từ các đặc điểm chung và các dạng vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ, vật chất xã hội
là đều tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người - khái niệm vật
chất.
- Trong lĩnh vực chính trị - xã hội: Đêmơcrit phê phán mạnh mẽ tơn giáo. Ơng cho

rằng những thần thánh của tơn giáo Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của
tự nhiên hay thuộc tính của con người.

11


Đêmocrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn
chủ nô quý tộc.
Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Theo ơng, phẩm chất con
người khơng phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có đạo đức, còn hạnh
phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói chung và đỉnh cao của
hạnh phúc là trở thành nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Những quan điểm, tư tưởng triết học của Đêmơcrit cịn mang tính chất phát, mộc
mạc, trực quan, song đã đưa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại lên bước tiến mới, đóng góp
cho kho tàng triết học của nhân loại những thành quả vô giá.
* Platon (427 – 347 trước CN)
Platon sinh ra trong một gia đình quý tộc. Ngay từ khi 18 tuổi ơng đã theo tập đồn
q tộc phản động do Xôcrat đứng đầu hoạt động chống lại chế độ dân chủ Aten.
Platon là học trò và là người kế thừa, phát triển qua điểm triết học của Xôcrát thành
một hệ thống triết học duy tâm khách quan đối lập với triết học duy vật của Đêmôcrit.
- Quan điểm về thế giới: Platon coi ý niệm là nguồn gốc của thế giới, sinh ra mọi sự
vật, ý niệm tồn tại bên ngoài con người, ngoài cảm giác con người. Ý niệm tồn tại vĩnh
viễn, bất biến, bất động. Còn các sự vật cụ thể có thể cảm thụ được bằng cảm giác chỉ là
bản sao của ý niệm.
Từ học thuyết ý niệm của Platon thừa nhận có hai thế giới tồn tại: Đó là thế giới các
sự vật cảm biết và thế giới ý niệm.
Theo ông, thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự
vật khơng ngừng sinh ra và mất đi, khơng ngừng vận động biến đổi, do đó trong chúng
khơng có cái gì ổn định, bền vững hồn thiện. Cịn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính,
phi vật thể là thế giới đúng đắn chân thật.

Từ quan niệm trên, Platon đưa ra khái niêm “tồn tại” và “không tồn tại”. “Tồn tại”
theo ông là cái phi vật chất, cái được nhận biết bằng trí tuệ siêu nhiên, là cái có tính thứ
nhất. Cịn “khơng tồn tại” là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất.
Như vậy, khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học Platon đã đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Palton chú ý nhiều đến vấn đề con người. Theo ông, con người bao gồm thể xác và
linh hồn tồn tại độc lập với nhau. Thể xác của con người được tạo thành từ đất, nước, lửa
và khơng khí. Đó là những vật thể hữu hình nên khơng tồn tại vĩnh viễn, nó có sinh và có
tử. Cịn linh hồn của con người là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do thượng đế sinh ra,
do đó nó là bất tử tồn tại vĩnh hằng. Khi con người chết, linh hồn thoát ra khỏi thể xác bay
12


lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh hồn bay xuống nhập vào thể xác đó
và tạo ra con người hồn chỉnh gồm cả thể xác và linh hồn.
- Về lý luận nhận thức của Platon cũng có tính chất duy tâm. Theo ơng, nhận thức
của con người không phải là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là quá
trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn về thế giới ý niệm, về những điều mà linh hồn đã
bắt gặp khi còn ở thế giới ý niệm, khi chưa trú ngụ vào thể xác con người.
Trên cơ sở đó, Platon phân hai loại tri thức: tri thức hồn toàn đúng đắn tin cậy và tri
thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào thể
xác và có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, là tri thức nhận được nhờ vào
nhận thức cảm tính, ở đó khơng có chân lý.
- Quan điểm về chính trị xã hội:
Tập trung trong quan niệm của ông về nhà nước gọi là “nhà nước lý tưởng”.
Quan điểm về Nhà nước được hình thành trên cơ sở phê phán 3 hình thức nhà nước
trong lịch sử:
+ Nhà nước của bọn vua chúa: xây dựng trên khát vọng giàu có và ham danh vọng
đưa tới sự cướp đoạt.
+ Nhà nước quân phiệt (nhà nước độc tài) là nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức số

đơng dẫn tới sự đối lập giàu nghèo và đưa tới tội ác.
+ Nhà nước dân chủ là Nhà nước quyền lực thuộc về số đông nhưng sự đối lập giàu –
nghèo trong Nhà nước vẫn diễn ra gay gắt.
Platon chủ trương cần phải duy trì các hạng người trong xã hội, cũng có nghĩa là duy
trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Theo ông nhà nước ra đời cũng là để đáp ứng những
nhu cầu đó. Cơng lý là sự thực hiện hoàn toàn nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi hạng
người, là người biết sống đúng với vị trí xã hội của mình. Theo ơng hình thức cộng hồ là
“nhà nước lý tưởng”.
Trên cơ sở phê phán các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử Platon đưa ra mơ
hình nhà nước lý tưởng dựa trên cơ sở phân chia xã hội thành ba đẳng cấp dựa vào đặc
trưng đạo đức.
Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thơng thái giữ vị trí lãnh đạo xã hội.
Đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ nhà nước lý tưởng. Đẳng cấp thứ ba
là dân lao động tự do, thợ thủ cơng có nhiệm vụ sản xuất ra của cải vật chất để đảm bảo
cuộc sống cho nhà nước.

13


Sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật
chất, sự phân công các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội. Sự
vinh quang của nhà nước phụ thuộc vào các phẩm chất: Sự thông thái, sự dũng cảm, sự
chính nghĩa và phong độ duy trì chuẩn mực xã hội. Trong đó sự thơng thái là tri thức cao
nhất và là niềm vinh quang của riêng nhà triết học.
Tóm lại: Platon là nhà triết học duy tâm khách quan đã đề cập một cách có hệ thống
nhiều vấn đề của triết học. Tuy còn nhiều hạn chế, song Platon đã đóng góp cơng lao to
lớn vào việc nghiên cứu những vấn đề về hình thái ý thức xã hội, về tư duy lý luận.

Câu 4: Phân tích nội dung cơ bản của triết học Hêghen trong triết học cổ điển
Đức và liên hệ ảnh hưởng của nó đối với sự ra đời của triết học Mác-Lênin.

* Nội dung cơ bản của triết học Hêghen trong triết học cổ điển Đức.
- Một vài nét về tiểu sử và tác phẩm.
Hêghen (1770 – 1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở Đức. Thời trẻ
ông học khoa khoa học triết học và thần học ở Trường Đại học Tubingen. Sau khi tốt
nghiệp đại học, Heghen làm giáo sư dạy tư trong các gia đình, về sau ông được bổ nhiệm
làm giáo sư hiệu trưởng trường trung học và sau đó làm giáo sư ở Trường Đại học
Hayđenbéc; cuối đời ông là giáo sư ở Trường Đại học Béclin.
Heghen là nhà triết học duy tâm khách quan, là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học của
ông là “tập đại thành” của triết học cổ điển Đức. Đúng như Ph.Ăngghen đã từng đánh giá “
Hêghen không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri thức bách
khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại”, Như vậy, đủ
biết Hêghen giữ vai trò như thế nào trong lịch sử phương Tây nói chung và lịch sử triết
học cổ điển Đức nói riêng.
Các tác phẩm lớn của Hêghen gồm:
+ Hiện tượng học tinh thần (1807) trình bày quá trình phát sinh phát triển của nhận thức
cá thể và nhận thức loài.
+ Khoa học logic học(1812 – 1814) trình bày những quy luật và phạm trù của phép
biện chứng.
+ Bách khoa toàn thư các khoa học triết học (1817) là các bài giảng về lịch sử triết
học, triết học pháp quyền, triết học mỹ học, tơn giáo do học trị của Hêghen tập hợp lại
xuất bản.
- Phân tích nội dung quan điểm triết học của Hêghen.
14


+ Triết học của Hêghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan.
Trong hệ thống triết học của mình, Hêghen coi ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là
nền tảng. Theo ông, ý niệm tuyệt đối là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối
cao sáng tạo ra giới tự nhiên và xã hội. Mọi sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là
sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, con người là sản

phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải
tạo thế giới của con người chính là cơng cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân
mình và trở về chính bản thân mình.
Như vậy, Hêghen đã biến khái niệm chung, biến ý niệm do con người phản ánh hiện
thực thành một bản chất độc lập, tách rời con người, tách rời thực thể khách quan thành
một thực thể tinh thần bí ẩn và gọi nó là ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối và cho rằng
tinh thần ấy sinh ra các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Triết học duy tâm khách quan của Hêghen được thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết
học của ông. Hệ thống triết học của Hêghen gồm ba phần chủ yếu:
Phần thứ nhất: Hêghen trình bày ở cuốn “logic học” ơng hình dung “ý niệm tuyệt
đối” cịn họat động trong dạng nguyên chất của tư duy thuần túy, ở dạng sơ khai đúng như
nó tồn tại. Theo ơng, “ý niệm tuyệt đối” này biểu hiện ra là một hệ thống các quy luật phổ
biến của vận động, và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi cái
đang tồn tại.
Phần thứ hai: Là học thuyết duy tâm về tự nhiên được Hêghen trình bày trong “triết
học tự nhiên”. Ở đây giới tự nhiên được hiểu là “sự tồn tại khác” của tinh thần hay ý niệm
đã trở thành kẻ sáng tạo ra giới tự nhiên. Vấn đề này Ph.Ăngghen nhận xét: “trong khi chủ
nghĩa duy vật coi tự nhiên là hiện thực duy nhất, thì trong hệ thống Hêghen, tự nhiên chỉ là
“sự tha hóa” của ý niệm tuyệt đối, có thể nói là sự hạ mình xuống của ý niệm tuyệt đối”.
Như vậy, về thực chất triết học tự nhiên của Hêghen đã đem lại sự phát triển của giới
tự nhiên dưới hình thức duy tâm.
Phần thứ ba: Là lý luận duy tâm về đời sống xã hội, phần này được Hêghen trình bày
chủ yếu trong “Triết học tinh thần”. Trong triết học này, dưới hình thức là lịch sử của tinh
thần, Hêghen trình bày lịch sử của con người và sự tự nhận thức của con người. Ở đây
Hêghen thừa nhận con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên và khi con người phản
ánh được đầy đủ giới tự nhiên cũng có nghĩa là ý thức của con người đã quay trở về điểm
khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối. Như vậy, điểm khởi đầu là ở tinh thần và điểm kết
thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, chỉ có khác điểm khởi đầu là “tinh thần thế giới”,
còn điểm kết thúc là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi cá nhân con người.
15



Như vậy, xét tồn bộ thì hệ thống triết học của Hêghen là chủ nghĩa duy tâm khách
quan mang nặng tính chất thần bí phục vụ đắc lực cho tơn giáo. Tuy nhiên nếu nghiên cứu
kỹ toàn bộ hệ thống triết học này, đặc biệt là logic học của Hêghen ta có thể tìm thấy
những “hạt nhân hợp lý”, những tư tưởng thiên tài về phép biện chứng đó chính là chỗ mà
ơng vượt xa các tiền bối của mình.
+ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển
Đức.
Hêghen là nhà biện chứng duy tâm. Ơng là người có cơng trong việc phê phán tư duy
siêu hình và cũng là người đầu tiên trình bày tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới
dạng một quá trình. Nghĩa là, trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng. Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, Hêghen khơng chỉ trình bày
các phạm trù như: chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ơng cịn là người diễn đạt được các
quy luật của phép biện chứng như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của
phủ định” với tư cách là sự phát triển diễn ra theo hình “xốy ốc” và quy luật mâu thuẫn với
tư cách là nguồn gốc của động lực của sự phát triển.
Như vậy, những vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng đã được Hêghen đề cập một
cách bao quát nhất. Nhưng khi trình bày các quy luật của phép biện chứng Hêghen lại cho
rằng, tất cả những quy luật đó chỉ là sản phẩm của sự vận động và sáng tạo của ý niệm
tuyệt đối. Do đó, phép biện chứng của Heghen là phép biện chứng duy tâm, hệ thống triết
học của ông là hệ thống triết học duy tâm. Nét đặc trưng của hệ thống là không phải ý thức
tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội mà ngược
lại tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.
+ Quan điểm về xã hội của Heghen.
Trong các quan điểm về xã hội, Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sôvanh đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh
thần “vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao
của sự phát triển của nhà nước và pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hêghen đã nêu ra nhiều tư tưởng
biện chứng quý báo về sự phát triển của đời sống xã hội. Trong đó, ơng đặc biệt quan tâm

nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hêghen tìm nguồn gốc nhà
nước từ mâu thuẫn xã hội, ơng cịn cho rằng: “nhà nước khơng chỉ là cơ quan hành pháp,
mà còn là tổng thể các quy chế kỷ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp
quyền, chính trị, văn hóa…của xã hội, nhờ đó mà xã hội được phát triển bình thường.
Tóm lại: Tuy cịn có nhiều nhược điểm là mâu thuẫn giữa phép biện chứng có tính
cách mạng với hệ thống duy tâm có tính chất bảo thủ, nhưng triết học của Heghen thật sự
16


là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sử trước Mác nói chung và trong lịch sử cổ
điển Đức nói riêng.
* Liên hệ ảnh hưởng của triết học Heghen đối với sự ra đời của triết học Mác.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là trào lưu biệt phái.
Sự ra đời của nó khơng chỉ là sự kế thừa những tinh hoa của nền văn minh nhân loại, trực
tiếp là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở Châu Âu thế kỷ XIX như triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị Anh, xã hội chủ nghĩa khơng tưởng Pháp, mà cịn phát triển những
tinh hoa đó và đưa chúng lên một tầm cao mới về chất. Trong đó triết học cổ điển Đức, đặc
biệt là triết học của Hêghen đã có ảnh hưởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen. Hai ơng tiếp thu có phê
phán triết học của Hêghen. Công lao của Hêghen, theo đánh giá của Mác và Ăngghen là
đã phê phán phương pháp siêu hình diễn đạt một cách hệ thống rõ ràng những quy luật và
phạm trù của phép biện chứng.
Mác và Ăngghen đã vận dụng những tư tưởng cách mạng trong phép biện chứng của
Hêghen để luận giải cho những khát vọng dân chủ cách mạng của mình. Đồng thời, Mác
và Ăngghen cũng đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen biểu hiện trong học thuyết
về “Ý niệm tuyệt đối” trong quan niệm về nhà nước và pháp quyền. Để sửa chữa những
hạn chế trên của Heghen, Mác đã kết hợp những ưu điểm của triết học Hêghen để tạo ra
triết học của mình, đó là triết học duy vật biện chứng.
Như thế, triết học duy vật biện chứng không những khắc phục được hạn chế của triết
học duy tâm biện chứng mà còn nâng chúng, tức phép biện chứng lên một tầm cao mới vĩ

đại. Từ thời điểm đó, phép biện chứng đã trở thành phép biện chứng duy vật - hình thức
cao nhất của phép biện chứng.

17


Câu 5: Phân tích nội dung cơ bản của triết học PhơBách và liên hệ ảnh hưởng
của nó đối với sự ra đời của triết học Mác - Lê nin.
* Tóm tắt tiểu sử và tác phẩm của Phơ-Bách
Phơ-Bách (1804-1872): Sinh ra trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Thời trẻ
ông theo học trường Đại học Béclinh, tham gia phái Hêghen trẻ. Về sau ông tách khỏi phái
này, phê phán hệ thống triết học của Hêghen, và xây dựng hệ thống triết học riêng của
mình, gọi là CNDV Phơ-Bách.
Công lao của Phơ-Bách là đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII và
làm phong phú một cách sáng tạo thế giới quan duy vật.
Ông viết khá nhiều tác phẩm:
- Luận văn tiến sĩ (1828) với đề tài: “Về lý tính vơ hạn duy nhất và phổ quát.
- Những ý nghĩ về cái chết và sự bất tử (1830). Trong đó ơng khẳng định: Chỉ có
những hành động vĩ đại của lý tính con người mới bất tử cịn cá nhân con người thì khơng
bất tử.
- Góp phần phê phán triết học Hêghen (1839). Đây là tác phẩm giải quyết một cách
duy vật vấn đề cơ bản của triết học.
- Bản chất đạo thiên chúa (1841), tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm nói chúng và
trực tiếp là chủ nghĩa duy tâm Hêghen.
- Những quan điểm cơ bản của triết học tương lai (1842) đây là lời nhắn nhủ các nhà
triết học tương lai.
* Một số tư tưởng triết học duy vật của Phơ-Bách
- Quan điểm về thế giới của Phơ-Bách (bản thể luận):
Phơ-Bách là người có cơng trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật. Ông thừa nhận
giới tự nhiên (bao gồm cả con người) tồn tại khách quan. Cơ sở tồn tại của giới tự nhiên

nằm ngay trong lòng giới tự nhiên, chứ không phải giới tự nhiên là “sự tồn tại khác”của
tinh thần, chống lại quan điểm duy tâm của Hêghen. Ông cho rằng, ý thức của con người
là sản phẩm của bộ óc người, một dạng vật chất đặc biệt có khả năng phản ánh thế giới vật
chất. Từ đó cho phép khẳng định mối quan hệ khắng khít giữa vật chất và ý thức. Quan
niệm nói trên đã khắc phục được quan điểm nhị nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần
và thể xác của chủ nghĩa duy tâm về con người.
18


Phơ-Bách khẳng định: không gian và thời gian tồn tại khách quan, khơng có vật chất
tồn tại bên ngồi khơng gian và thời gian. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các
quy luật tự nhiên, tính khách quan của quan hệ nhân quả, thừa nhận sự vận động và phát
triển của giới tự nhiên, diễn ra một cách khách quan, trong những điều kiện nhất định dẫn
tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ và xuất hiện con người.
- Quan điểm về lý luận nhận thức ( nhận thức luận)
Phơ-Bách đứng trên lập trường duy vật, ông khẳng định đối tượng của nhận
thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người.
Phơ-Bách phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen coi đối tượng của tư
duy khơng có gì khác với bản chất của tư duy và do đó mà hệ thống duy tâm khách quan
khơng thốt khỏi giới hạn của tư duy và vẫn xa lạ với hiện thực. Phơ-Bách khẳng định đối
tượng của nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người.
Phơ-Bách thừa nhận con người có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, khả năng
đó đối với mỗi người là có hạn, nhưng đối với tồn bộ lồi người là vô hạn. Phơ-Bách là
người thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa trực quan cảm tính và tư duy lý tính. Ơng cho
rằng, chúng ta đọc cuốn sách tự nhiên bằng giác quan nhưng chúng ta không dùng giác
quan để hiểu nó được. Có thể nói, đặc điểm của thế giới quan duy vật của Phơ-Bách là
lòng tin vào sức mạnh của lý trí con người.
Hạn chế trong lý luận nhận thức của Phơ-Bách là chưa thấy được vai trò của thực
tiễn, cho nên chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách về tồn bộ vẫn nằm trong khn khổ của
phương pháp suy nghĩ siêu hình.

- Về chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơ-Bách (con người)
Phơ-Bách là người đi sâu nghiên cứu con người, ông coi con người là đối tượng cao
nhất của triết học vì vậy chủ nghĩa duy vật của ông được gọi là chủ nghĩa duy vật nhân
bản.
Trong quá trình đi sâu nghiên cứu con người ông cho rằng con người có 2 nguồn gốc:
con người vừa có nguồn gốc tự nhiên vừa có nguồn gốc xã hội.
Phơ-bách khẳng định con người có nguồn gốc xã hội, đó là tình u thương lẫn nhau
giữa con người với con người, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Bởi gì con người là
sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của sinh vật, con người là thực thể tự nhiên. Đồng
thời con người sống thành cộng đồng do đó con người có bản chất xã hội là tình u
thương. Ơng lấy tình u thương nam và nữ làm kiểu mẫu của bản chất yêu thương của
con người.
19


Tuy nhiên, ông đã không thấy được phương diện xã hội của con người. Con người mà
ông quan niệm là con người trừu tượng, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế-xã hội và lịch
sử của con người. Bởi vậy, khi Phơ-Bách nghiên cứu những vấn đề về đời sống xã hội,
ông đã rơi vào quan điểm duy tâm.
- Quan điểm về xã hội và tôn giáo
Phơ-Bách là người phê phán mạnh mẽ tôn giáo, theo ông tôn giáo là sản phẩm của
tâm lý cá nhân và bản chất con người dưới hình thức thần bí, tơn giáo thể hiện sự mềm
yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề về tự nhiên và xã hội.
Những quan niệm nói trên của Phơ-Bách về cơ bản đã vạch ra được nguồn gốc tâm lý
con người đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung nhân bản trong các quan niệm
thần thánh. Tuy nhiên do chưa hiểu được vai trị của thực tiển, nên ơng chưa đề cập đến
những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề. Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng
trước Mác trong việc lý giải nguồn gốc và bản chất tơn giáo.
Mặt khác, tuy địi hỏi xóa bỏ tơn giáo cũ, nhưng ông đã tuyên bố một thứ tôn giáo
mới “ khơng có chúa”, tơn giáo tình u. Vì theo ơng chỉ có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi

được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người.
Phơ-Bách là nhà duy vật trong tự nhiên, nhưng ông lại là nhà duy tâm trong những
vấn đề xã hội. Ông khẳng định rằng, những thời kỳ lịch sử của loài người sở dĩ khác nhau
chỉ là do những thay đổi các hình thức tơn giáo. Như vậy, ông đã rơi vào thuyết duy tâm
và không tưởng trong các quan niệm về xã hội. Ơng khơng thấy được vai trò của thực tiễn,
của sản xuất vật chất quyết định sự vận động và phát triển của xã hội lồi người.
Tuy cịn những hạn chế nhất định như đã phân tích trên, nhưng với những thành tựu
to lớn và tồn diện của mình, chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách cùng với phép biện chứng
của Hêghen được coi là một nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
* Liên hệ ảnh hưởng triết học Phơ Bách đến sự ra đời của triết học Mác
Phơ-Bách là một trong những đại biểu trong trường phái triết học cổ điển Đức có ảnh
hưởng đến sự hình thành các quan điểm triết học của Mác và Ăngghen. Những tư tưởng
duy vật vô thần của Phơ Bách là tiền đề lý luận quan trọng cho bước chuyển của Mác và
Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng
sang lập trường cộng sản. Phơ Bách là người đã phê phán gay gắt triết học duy tâm của
Hêghen, phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Phơ Bách khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất,
tồn tại vĩnh viễn khơng phụ thuộc vào ý thức con người. con người là sản phẩm của giới
tự nhiên. Không phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà con người sáng tạo ra thần
thánh (những tư tưởng duy vật của Phơ Bách được trình bày chủ yếu trong tác phẩm triết
20


học “Bản chất đạo cơ đốc”). Tuy chịu ảnh hưởng của tiết học Phơ Bách, nhưng Mác và
Ặngghen đã tiếp thu triết học đó một cách có phê phán. Hai ông đã vạch ra những hạn chế
trong triết học của Phơ Bách là khi phê phán Hêghen, Phơ Bách đã vứt bỏ hồn tồn triết
học của Hêghen mà khơng thấy hạt nhân hợp lý của nó là phép biện chứng. Khơng hiểu
được vai trị của hoạt động thực tiễn, khơng hiểu đúng bản chất và ý nghĩa lịch sử của cuộc
đấu tranh chính trị - xã hội của quần chúng nhân dân. Do đó, chủ nghĩa duy vật của PhơBách vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình và trong quan niệm về xã hội vẫn chưa thoát khỏi
chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách, Mác và Ăngghen đồng thời nhấn mạnh vai trị to lớn của
nó trong cuộc đấu tranh với tôn giáo, với chủ nghĩa duy tâm và trong việc hình thành thế

giới quan duy vật biện chứng của mình.

Câu 6: Phân tích nội dung những tiền đề ra đời của triết học Mác. Từ đó liên
hệ vai trị của triết học Mác - Lênin trong tình hình hiện nay ở nước ta.
* Những tiền đề ra đời của triết học Mác:
Triết học Mác ra đời là một tất yếu lịch sử, hợp qui luật, nó là kết tinh tất cả
những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học, khoa học và lịch sử nhân loại, dựa trên
cơ sở những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định cùng với những tiền đề lý luận và khoa
học sau đây:
1. Tiền đề kinh tế - xã hội của triết học Mác
Chủ nghĩa Mác xuất hiện vào những năm 40 thế kỷ XIX ở Tây Âu, do Karx Marx
(1818 - 1883) và Engels (1820 – 1895) xây dựng và đánh dấu bằng tác phẩm “Tuyên ngôn
Đảng cọng sản” viết 1848.
Vào thời kỳ này, ở Anh, Pháp, Đức; CNTB phát triển mạnh mẽ trên cơ sở nền sản
xuất bằng cơ giới do cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra. Sự phát triển của CNTB làm cho
những mâu thuẫn vốn có của nó bộc lộ ra và ngày càng gay gắt, đó là mâu thuẫn giữa một
bên là tính chất xã hội hóa và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
(LLSX) với một bên là quan hệ sản xuất (QHSX) Tư Bản chủ nghĩa (TBCN). Mâu thuẫn
này được biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vơ sản (GCVS) và giai
cấp tư sản (GCTS.
Đặc biệt khi GCTS đã xác lập được sự thống trị chính trị của mình thì họ trở thành
lực lượng bảo thủ làm cho mâu thuẫn giai cấp giữa GCVS và GCTS ngày càng gay gắt
hơn. Do vậy ở thời kỳ này phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh
mẽ và đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa như: cuộc khởi nghĩa của của thợ dệt ở Li-ông
(Pháp) nổ ra năm 1831-1834, cuộc nổi dậy của công nhân Pari năm 1832, cuộc khởi nghĩa
21


của những người thợ dệt Xi-Lê-Di (Đức) năm 1844, ở Anh đã ra đời phong trào quần
chúng đầu tiên của công nhân và được gọi là “Phong trào hiến chương” năm 1830-1840.

- Trong hồn cảnh lịch sử đó, GCTS khơng cịn đóng vai trị là giai cấp cách mạng.
Trên vũ đài lịch sử đã xuất hiện một lực lượng chính trị xã hội mới, mặc dù cịn mang tính
tự phát, nhưng ngày càng mạnh mẽ và trở thành nhân tố quan trọng của đời sống chính trị
- xã hội, đó là giai cấp vô sản cách mạng.
- Các học thuyết XHCN khơng tưởng phê phán của Xanh-Xi-Mơng, Phu-ri-ê, ƠOen… khơng đáp ứng được yêu cầu của phong trào vô sản, khơng thể hiện được những lợi
ích cơ bản của giai cấp vơ sản trong sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ
Tư bản chủ nghĩa.
- Phong trào đấu tranh của GCVS cịn mang tính tự phát và thiếu tổ chức, do
đó cần phải có một lý luận tiên phong hướng dẫn và giác ngộ cho GCCN về vai trị sứ
mệnh lịch sử của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận trước kia và trực tiếp tham gia vào phong trào
đấu tranh của GCCN, Mác và Ăng Ghen đã khái quát kinh nghiệm đấu tranh của GCCN,
sáng tạo ra lý luận khoa học và cách mạng của phong trào vô sản; dẫn đến sự ra đời của
triết học Mác
- Có thể nói GCVS đã tìm thấy ở triết học Mác một sức mạnh và vũ khí tinh thần của
mình, cũng giống như triết học Mác đã tìm thấy GCVS như là vũ khí vật chất của mình.
2. Tiền đề lý luận của triết học Mác
- Triết học Mác ra đời là sản phẩm tất yếu của những điều kiện KT-XH của xã hội
TBCN giữa thế kỷ XIX; đồng thời là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân
loại.
- Với tư cách là một khoa học, triết học Mác đã kế thừa tất cả những tinh hoa di sản
lý luận quý báu mà loài người đã đạt được. Đặc biệt Mác-Ăng Ghen đã kế thừa chủ nghĩa
duy vật (CNDV) của Phơ-Bách và phép biện chứng của Hê-Ghen trong triết học cổ điển
Đức. Đây là nguồn gốc lý luận trực tiếp của Triết học Mác.
- Công lao của Hê-Ghen là ở chỗ ông là người đã phê phán mạnh mẽ phương pháp tư
duy siêu hình, và ơng là người đầu tiên đã diễn đạt được những quy luật của phép biện
chứng với tư cách là hệ thống lý luận. Nghĩa là ơng coi tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và
tinh thần nằm trong quá trình liên hệ, vận động, phát triển tuân theo quy luật. (Quy luật
mâu thuẫn, QL lượng – chất, QL phủ định của phủ định). Nhưng khi trình bày các quy luật
của phép biện chứng, Hê-Ghen lại cho rằng: các quy luật ấy cũng chỉ là sản phẩm của sự

22


sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Do đó phép biện chứng của Hê-Ghen là phép biện chứng
duy tâm. Hệ thống triết học của Hê-Ghen là hệ thống triết học duy tâm.
Vì vậy để xây dựng nên phép biện chứng duy vật Mác, Ăng-Ghen đã phê phán tính
chất duy tâm trong phép biện chứng của Hê-Ghen, các ông đã kế thừa, tiếp thu những mặt
tiến bộ trong phép biện chứng ấy để hình thành phép biện chứng duy vật.
- Như vậy: Phép biện chứng của Mác khơng những là hình thức phát triển cao nhất
của phép biện chứng mà còn đối lập với phép biện chứng của Hê-Ghen.
+ Chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành thế giới
quan khoa học của Mác, Ăng-Ghen. Các ông đã đánh giá cao Phơ-Bách trong việc phê
phán tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt là khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
Phơ-Bách đã khôi phục lại vị trí xứng đáng cho triết học duy vật. Nhưng chủ nghĩa duy vật
của Phơ-Bách vẫn mang tính trực quan siêu hình và duy tâm về xã hội. Vì vậy, để xây
dựng hệ thống triết học duy vật biện chứng; Mác, Ăng-Ghen đã trực tiếp kế thừa những
quan điểm duy vật tiến bộ của triết học Phơ-Bách; đồng thời các ơng cũng khắc phục tính
trực quan, siêu hình và duy tâm về lịch sử của nó, thay vào đó những kết luận có tính khoa
học trên cơ sở khái quát những thành tựu của khoa học đương thời.
Như vậy, Triết học cổ điển Đức trước hết là phép biện chứng của Hê-Ghen và chủ
nghĩa duy vật của Phơ-Bách là nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
* Ngồi sự chín muồi của điều kiện kinh tế - xã hội, của tiền đề lý luận; để triết học
duy vật biện chứng ra đời cịn phải nói đến vai trị của Mác, Ăng-Ghen, những vĩ nhân có
bộ óc thiên tài. Các ơng vừa là những nhà khoa học có tri thức khoa học sâu sắc, có lý
tưởng cách mạng nồng cháy mà cịn là những người có tài năng về tổ chức thực tiễn.
Chính nhờ tham gia trực tiếp vào vào hoạt động thực tiễn, tổ chức và lãnh đạo phong trào
đấu tranh của giai cấp cơng nhân; Mác, Ăng-Ghen đã có bước chuyển biến quyết định từ
chủ nghĩa duy tâm triết học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Từ lập trường dân chủ
cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Đó cũng là điều kiện để triết học Mác ra
đời.

3. Tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác
Cùng với những thành tựu lý luận, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trị
quan trọng khơng thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Sự phát triển của khoa
học tự nhiên đòi hỏi phải xây dựng phép biện chứng duy vật như một khoa học làm cơ sở
phương pháp luận cho nhận thức khoa học. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên
làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong
việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy
biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
23


- Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại, đóng vai trị quan trọng cho sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Ba phát minh đó là: Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng
lượng, học thuyết về cấu tạo tế bào của cơ thể sống, thuyết Tiến hóa của Đác-Uyn.
+ Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng: Do nhà vật lý học người Đức là Rô-Béc
May-e phát minh năm (1842 - 1845). Sự phát minh ra định luật bảo tồn và chuyển hóa năng
lượng đã chứng minh rằng: các hình thức vận động khác nhau của vật chất không tách rời nhau,
mà giữa chúng có sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Nghĩa là
khơng có sự mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển biến khơng ngừng của năng lượng từ
dạng này sang dạng khác. Định luật này là cơ sở khoa học cho quan điểm biện chứng về thế
giới.
+ Thuyết tế bào: chủ yếu do hai nhà bác học người Đức là: Slây-Đen và T. Sa-VanNơ xây dựng năm (1838 - 1839), đã xác định rằng: cơ thể thực vật và động vật đều do tế
bào tạo thành. Học thuyết này chỉ rõ sự thống nhất bên trong của sinh vật, chỉ ra con
đường phát triển, tiến hóa phổ biến của cơ thể sống. Vì vậy, nó góp phần quan trọng vào
sự khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất của sự sống trong những
biểu hiện phong phú, đa dạng, muôn vẻ của nó.
+ Thuyết Tiến hóa (do Đác-Uyn, nhà bác học người Anh xây dựng vào năm 1859):
thuyết này đã chứng minh một cách khoa học rằng thế giới thực vật và động vật là kết quả
tất yếu của một q trình tiến hóa lâu dài, trong đó các sinh vật phức tạp bậc cao đã hình
thành từ các sinh vật giản đơn, bậc thấp; không phải theo ý định của thượng đế mà là do áp

lực của quy luật chọn lọc tự nhiên. Học thuyết này không những khẳng định mối liên hệ
vận động, phát triển của các dạng vật chất sống mà còn đập tan luận điểm cho rằng: chúa
sáng tạo ra mn lồi, thượng đế sáng tạo ra con người cũng góp phần khẳng định quan
điểm DVBC về thế giới.
Như vậy: các phát minh khoa học nói trên đã đặt cơ sở vững chắc cho quan điểm biện
chứng về thế giới. Đồng thời sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng địi hỏi phải có
những khái quát mới về lý luận triết học, phải xây dựng phép biện chứng duy vật với tính
cách là một khoa học thật sự, giúp cho khoa học tự nhiên phát triển.
Tóm lại: Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng là một tất
yếu khách quan, nó bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát triển của tư
tưởng nhân loại trước đó. Khái qt kinh nghiệm của phong trào cơng nhân và những thành
tựu của khoa học tự nhiên, kế thừa có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và
Ăng-Ghen đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong triết học, dẫn đến sự ra đời của triết
học Mác

24


* Vai trò của triết học Mác - Lênin trong tình hình hiện nay ở nước ta:
Lịch sử phát triển của khoa học chỉ ra rằng, vai trò của lý luận khoa học ngày càng
tăng lên. Đối với sự phát triển xã hội, xu hướng đó thể hiện trong quá trình phát triển từ tri
thức tiền khoa học đến tri thức khoa học; từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận; từ
khoa học thực nghiệm đến khoa học lý thuyết; từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội.
Đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, từ thập kỷ 80 với những biến đổi
sâu sắc làm thay đổi bộ mặt của thế giới, với cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc đang diễn
ra gay go, phức tạp, với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa
học và cơng nghệ hiện đại, vai trò lý luận khoa học càng trở nên quan trọng. Chỉ có bằng
tư duy lý luận khoa học mới có thể lý giải được tính chất hết sức đa dạng, phức tạp và đầy
mâu thuẫn với những biến động to lớn của thời đại ngày nay.
Vừa qua do quá trình cải cách, cải tổ ở một số nước XHCN không được soi sáng bởi

lý luận đúng đắn, nên đã đưa lại những hậu quả hết sức nặng nề. Chế độ XHCN không
những không được tăng cường mà trái lại còn bị suy yếu thêm và đi đến bị sụp đổ một loạt
các nước XHCN như ở Liên xô, ở Đông Âu.
Sự khủng hoảng của CNXH làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lê nin càng
trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ những thành quả mà CNXH đã giành
được, nhất là công cuộc đấu tranh bảo vệ để đưa sự nghiệp xây dựng CNXH vượt qua
thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục tiến lên đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý
luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Trước hết phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng khoa học của nó. Cả những thành cơng cũng như thất bại trong
q trình đổi mới, “Cải tạo” CNXH chứng tỏ sự cần thiết phải kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa xét lại, đồng thời phải khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận của
Chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội do Đảng ta khởi xướng đã thu được
những thành tựu rất quan trọng. Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập
trường của chủ nghĩa Mác – Lê nin, rơi vào chủ nghĩa xét lại. Tính chất khó khăn và phức
tạp của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu và tầm cỡ của nó đang đặt ra rất nhiều vấn
đề lý luận lớn lao và gay cấn, địi hỏi phải được giải quyết. Cho nên có thể nói rằng, chưa
bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng lớn như hiện nay. Lý luận trở nên thiết
thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng và đối với tồn bộ vận mệnh của CNXH nói
chung. Muốn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, Đảng ta cần phải tự đổi mới
và tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng ”Chỉ
Đảng có được một lý luận tiên phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm trịn vai trị
chiến sỹ tiên phong ”.
25


×