Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Quá trình hiện thức hóa quan điểm,tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới,
mong muốn một quốc gia phát triển phồn vinh đứng vững được thì nhà
nước đóng vai trị vô cùng quan trọng. Đối với nhà nước XHCN Việt Nam,
tư tưởng Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhà nước Việt Nam là “ Nhà nước của
dân do dân và vì dân”. Chính vì thế mà suốt cuộc đời Người ln có một
khát khao là làm sao cho dân được ấm no, hạnh phúc,.. Đó là một khát khao
cháy bỏng, một ham muốn tuột cùng “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,ai cũng được học hành”.
Đến nay tư tưởng ấy vẫn là quan điểm chủ đạo, xuyên suốt và là “kim chỉ
nan” trong cả quá trình dựng nước, giữ nước và đến cả trong thời bình ngày
nay.
Đối với thời kì nền kinh tế thị trường Việt Nam, tư tưởng “ Nhà nước
của dân, do dân vì dân” vơ cùng quan trọng vừa là u cầu của cuộc sống,
vừa có tính cấp bách, tính lâu dài, đây là một vấn đề mang tính thời sự sâu
sắc.Tư tưởng ấy như một kim chỉ nan khơng chỉ đối với thời kì cách mạng
mà đến cả ngày nay trong công cuộc phát triển đất nước, tư tưởng ấy vẫn
xuyên suốt được kế thừa, phát triển và trở thành những phương châm để
xây dựng đất nước phát triểnđể nắm vững đường lối tư tưởng của Đảng
cũng như trang bị thêm kiến thức cho bản thân mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trong bối cảnh đất nước đang phát triển, hội nhập,
việc nghiên cứu đề tài có1 vai trị vơ cùng quan trọng, giúp chúng ta hiểu
hơn về những tư tưởng của Bác để từ đó mà học tập, thực hiện góp phần
xây dựng đất nước phát triển. Trong thời đại đứng trước nền kinh tế mở cửa
vừa có những khó khăn vừa có những cơ hội thì tư tưởng xây dựng một nhà


nước “ của dân, do dân và vì dân” như một kim chỉ nam, như một ánh sáng


dẫn lối đưa đất nước phát triển mạnh mẽ. Mục đích cốt lõi cuối cùng của
việc nghiên cứu đề tài này giúp mỗi người hiểu hơn về tư tưởng về Nhà
nước ta- một nhà nước ln gắn bó mật thiết tới lợi ích của nhân dân “ lấy
dân làm gốc”; từ đó mà thế hệ thanh niên học tập, phát huy, kế thừa góp
phần cơng sức của mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng này và
ứng dụng của tư tưởng đó trong thời đại ngày nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: đó là q trình hiện thức hóa quan điểm,
tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Đó là hệ
thống các quan điểm tồn diện và sâu sắc trong công cuộc xây dựng, phát
triển trong xã hội ngày nay.
Phạm vi nghiên cứu: Những quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
Nhà nước của dân, do dân vì dân, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường Đại học, những bài phát biểu của Người qua các Đại hội, Hội
nghị,..
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩ Mác-Lenin, Giáo trình Tương tưởng Hồ Chí Minh
trong trường Đại học,…
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật và các phương pháp: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, khái qt hóa và hệ thống hóa, phương pháp phân tích văn bản kết hợp
2

nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Người.


5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Đề tài đã giải quyết phân tích sáng tỏ được nơi dung của

tư tưởng Nhà nước “ của dân, do dân và vì dân” góp phần nâng cao năng
lực tư duy lí luận. Đồng thơng qua đó cũng trang bị thêm cho chúng ta
những tri thức khoa học, những quan điểm hệ thống toàn diện và sâu sắc về
tư tưởng của Người.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có giá trị thực tiễn to lớn trong việc tư tưởng “ lấy
dân làm gốc” xây dựng một đất nước tất cả vì quyền lợi của nhân dân ta.
Đây là một bài học xuyên suốt để Nhà nước, Đảng vận dụng trong quá trình
phát triển hội nhập thế giới trong thời đại mới ngày nay.

3


NỘI DUNG
Chương I. Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
I. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân,
vì dân
1. Do kế thừa những điểm tích cực trong xây dựng nhà nước ở Việt
Nam trước đó
Mặc dù trước đó là nhà nước phong kiến cịn nhiều điểm hạn chế nhưng
chúng ta cũng thể phủ nhận được những tiến bộ nà nhà nước ấy đem lại. Đó
là tư tưởng Nhà nước “ Trọng dân, gần dân, thân dân”. Hồ Chí Minh có sự
kế thừa và phát triển. Với thời nhà Trần, tư tưởng “thân dân” đã trở thành
một hệ tư tưởng mang tính chính thống, chi phối tồn bộ văn hóa chính trị
thời đại, với những biểu hiện rõ nét, độc đáo hơn hẳn so với các triều đại
quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam. Có thể nói ở thời phong kiến mà
hiếm có triều đại nào lại gần gũi, gắn bó với dân như triều nhà Trần vậy.
Hưng Đạo Vương từng uống rượu bên đường với vua. Tiếp thu tinh thần
“dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân), người cầm quyền thời thịnh Trần đã
luôn dành tình cảm u mến, xót thương cho “con dân” của mình. Vua Trần

Minh Tơng đã đặt mình trong quan hệ ruột thịt với cộng đồng dân tộc để
xác định trách nhiệm trước đồng bào: Sinh dân nhất thị ngã đồng bào/ Tứ
hải hà tâm sử khốn cùng? (Ta cùng với dân cùng một bọc mà ra, Cớ sao lại
làm cho bốn biển phải khổ?). Từ đó, nhà vua coi việc lo cho dân là trách
nhiệm như cha mẹ lo cho con, là sự lựa chọn khơng hề toan tính thiệt hơn
và sẵn sàng quên đi sự an nguy của bản thân mình: “Trẫm là cha mẹ dân,
nếu dân sinh mắc vào cảnh lầm than thì phải cứu gấp, chả lẽ đi so đo khó
dễ, lợi hại hay sao?”
Đó cịn là sự kế thừa và tiếp thu qua tưởng tưởng “thân dân” của Nguyễn
Trãi. Với Nguyễn Trãi ông cũng hướng tới một chế độ nhà nước vì quyền
lợi của nhân dân. Chẳng thế trong “ Bình Ngơ đại cáo” ơng đã tuyên bố “
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Sau khi
chiến thắng quân xâm lược triều đình nhà Lê được thành lập, trên chiến
thắng, vậy còn ai quan tâm đến “dân” nữa. Lúc ấy Nguyễn Trãi đã không
ngừng băn khoăn, nhắc nhở:” Thánh tâm dục dữ dân hưu tức/ Văn trị chung
tu trí thái bình (Lịng bậc4thánh nhân muốn để dân n nghỉ/ Rốt cuộc phải
xây dựng thái bình bằng văn trị - Quan duyệt thủy trận); Quyền mưu bản thị
dụng trừ gian/ Nhân nghĩa duy trì quốc thế an (Hạ qui Lam Sơn, I). Trong
bài biểu dâng lên Lê Thái Tông về vấn đề soạn nhã nhạc cung đình, ơng
viết: “Kể ra thì thời loạn trọng võ, thời bình trọng văn. Nay quả rất đúng lúc
phải chế ra các loại lễ nhạc. Nhưng nhạc phải có gốc mới đứng, phải có văn


mới hành. Hịa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc, dám đâu
không dốc hết sức ra mà làm, nhưng vì học thuật thì nơng cạn, chỉ sợ thanh
luật chẳng được hài hòa. Cúi xin bệ hạ thương u mà ni nấng dân, khiến
cho mọi xóm thơn khơng cịn tiếng ốn hờn buồn khổ, như thế mới giữ
được gốc của nhạc”.
Sử dụng Pháp luật để quản lý đất nước : Bộ luật Hồng Đức
Bộ luật Hồng Đức được ban hành xuất phát từ những nhu cầu nội tại của xã

hội nhà Lê sơ thế kỷ XV và khát vọng xây dựng một đất nước hịa bình
thịnh trị nên tính thực tiễn và khả thi trong các điều luật rất cao. Nhìn
chung, với việc kế thừa thành tựu PL của các triều đại Lý, Trần và sự hội
nhập môi trường PL khu vực trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu thực tiễn
nên trong BL đã thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa yếu tối nội sinh và yếu tố
ngoại sinh, giữa luật tục cổ truyền và luật hướng Nho.
2. Kế thừa, khảo sát các kiểu nhà nước trên thế giới
Người có sự kế thừa, học hỏi từ các kiểu nhà nước trên thế giới cả về
phương Tây lẫn phương Đông. Người thấy rõ được nhà nước tư sản là nhà
nước tiến bộ nhưng nó khơng thực hiện quyền dân chủ một cách triệt để.
Người tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng về dân chủ tiến bộ của các nước
Pháp, cả thời kì văn hóa Phục hưng, thời kì ánh sáng. Với phương Tây, Hồ
Chí Minh tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Đại tư sản Pháp, tư
tưởng dân chủ,…Bởi lẽ Người có 30 năm bơn ba khắp năm châu bốn bể cả
phương Tây và phương Đơng để tìm ra con đường, tìm ra hệ tư tưởng để
giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, xây dựng nhà nước tiến bộ phù
hợp với hồn cảnh thực tiến của Việt Nam.
Người cũng có sự nghiên cứu học hỏi từ Nhà nước Xô Viết, Nhà nước vơ
sản. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu hiểu được hoàn cảnh thực tiễn lúc bấy
giờ và Người thấy rằng Nhà nước vô sản là nhà nước tiến bộ nhất, triệt để
nhất. Một nhà nước mà vì giai cấp của vơ sản, hướng đến những quyền lợi
tích cực của tồn nhân nhân. Do đó nhà nước vơ sản là cơ sở hình thành nên
5

tư tưởng về “nhà nước của dân, do dân” của Hồ Chí Minh
3. Chủ nghĩ Mác-Lenin
Chủ nghĩ Mac-Lenin là bộ phận tinh túy nhất, hệ thống quan điểm cách


mạnh triệt để nhất, là gốc lý luận để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh

“Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. "Khơng có chủ nghĩa MácLênin thì cũng khơng có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và
giải quyết được những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam"

4. Do bản thân Hồ Chí Minh
4.1. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Do suốt 30 năm bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người đã vừa học hỏi, vừa
thực hành, vừa tham gia các hội thảo, hội nghị chính vì vậy nó hình thành
nên tư tưởng tiến bộ về nhà nước của dân, do dân và vì dân của Người. Và
Mao Trạch Đơng đã từng khẳng định "Thực hành sinh ra hiểu biết; Hiểu
biết tiến lên lý luận; Lý luận lãnh đạo thực hành"1. Đó là con đường của quá
trình nhận thức các sự vật, hiện tượng; con đường hướng đến chân lý của
nhận thức.
4.2. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Là người có kiến thức uyên thâm cả về mặt chính trị, tư tưởng, tri thức tinh
xảo cả về mặt kinh nghiệm thực tiễn vững vàng. Và đối với Người, sự
6
nghiệp Cách mạng ln hướng
tới dân, do dân và vì nhân dân. Đây luôn là

tư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong mọi suy nghĩ và hành động của mình.
Hồ Chí Minh ln đặt lợi ích và quyền lợi của nhân dân lên hàng đầu, luôn
1 Mao Trạch Đông (1937, Thực tiễn luận)


gần gũi lắng nghe những ý kiến của nhân dân, mọi mục đích điều hướng tới
quyền lợi của nhân dân.
II. Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
“Dễ mười lần khơng dân cũng chịu

Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Là một nhà chính trị, cách mạng hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người hiểu rõ
nhất, sâu sắc nhất vai trò và tầm quan trọng của nhân dân. Chảng thế mà
Người đã từng cho rằng“Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới
bền.”2Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là
quan điểm đúng đắn xuyên suốt bao trùm trong tồn bộ q trình phát triển
của dân tộc ta.
1. Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả
quyền lợi đều hướng vào nhân dân. Quan điểm nhất quán của thành phố Hồ
Chí Minh là xác lập toàn bộ mọi quyền lực trong tay Nhà nước và trong
cuộc sống đều thuộc sở hữu quần chúng. Chẳng thế mà trong Hiến pháp
năm 1946 nêu rõ: toàn bộ quyền hành nội địa đều là của toàn thể quần
chúng Việt Nam, khơng nhận biết giống nịi, gái trai, giàu nghèo, kẻ thống
trị, tôn bảng giáo: những việc gắn kết đến vận mệnh vương quốc sẽ đặt
ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền quản lý về chính trị, kinh tế tài
chính, kiến thức-cộng đồng, bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực vô
thượng quốc gia đỉnh cao bộc lộ quyền vô thượng của quần chúng. Nhân
dân cần lao quản lý Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là quần chúng có
quyền kiểm sốt điều hành Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy
quyền cho những đại biểu đó bàn và quyết định những chủ đề quốc kế dân
sinh. Đây là thuộc sở hữu chính sách dân chủ đại diện thay mặt ngay bên
cạnh chính sách dân chủ thẳng trực tiếp. Quyền quản lý và song song cũng
chính là quyền kiểm sốt điều hành của quần chúng bộc lộ ở chỗ quần
chúng có quyền bãi miễn
những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
7
đồng quần chúng nào nếu những đại biểu đó tỏ ra khơng xứng đáng cùng
với tin tưởng của quần chúng. Theo thành phố Hồ Chí Minh, muốn đảm
bảo được thuộc tính quần chúng của Nhà nước phải được quy định được

và chấp hành được trách nát nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra.
2 Hồ Chí Minh (1967, nói chuyện với lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện)


Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra cần có mối gắn kết ngặt nghèo với nhau
do thực chất của chế độ này quy định. Và khi không làm việc nghĩa
vụ với nhân cách thuộc người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi
miễn nhân cách đại biểu. Dân chủ là khảt vọng muôn thuở của lồi
người. thành phố Hồ Chí Minh ý kiến dân chủ có đồng nghĩa với việc "dân
là chủ". Khi được quy định như vậy, có những lúc thành phố Hồ Chí
Minh đem ý kiến "dân là chủ" đối nghịch với ý kiến “quan chủ". Đây là ý
kiến được Hồ Chi Minh điền đạt ngắn, gọn, rõ, đi thẳng vào thực
chất của định nghĩa trong kết cấu quyền lực vô thượng của cộng đồng. Mở
rộng theo ý đó, thành phố Hồ Chí Minh còn cho rằng: "Nước ta là nước dân
chủ, đồng nghĩa với việc nước do quần chúng quản lý"3. "Chế độ ta là chính
sách dân chủ. có nghĩa là quần chúng quản lý"4. "Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao đặc biệt là dân, vì dân là chủ"5
Quyền lực nhà nước là " thừa ủy quyền " của nhân dân quyền lực của nhà
nước là do nhân dân ủy thác do . Do vậy , các cơ quan quyền lực nhà nước
cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều là “ công bộc " của nhân dân , nghĩa là
" gánh vác việc chung cho dân , chứ khơng phải để đè đầu dân " Chính vì
vậy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ và kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước
thối hóa , biến chất , từ chỗ là công bộc của dân đã trở thành " quan cách
mạng ” , đứng trên nhân dân , coi khinh nhân dân , " cậy thế " với dân , “
quên rằng dẫn bầu minh ra là để làm việc cho dân.6
2. Nhà nước do dân:
Nhà nước do dân chọn lựa, bầu ra những đại biểu của tớ. Nhà nước đó do
dân ủng hộ, giúp sức, đóng thuế để nhà nước đầu tư, làm việc. Nhà nước
do dân phê bình, thành lập, giúp sức. Hồ Chí Minh u cầu: Tất cả
những cơ quan quốc gia là phải nhờ vào quần chúng, liên lạc ngặt

nghèo với quần chúng, lắng tai quan điểm và sự kiểm soát điều
hành của quần chúng. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những
người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng
cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo
xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc
chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần".
Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Người xác định rõ : “ Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước do dân làm
chủ”7. Tư tưởng “ Dân làm chủ ” bên cạnh nhấn mạnh ích lợi và quyền lợi
của nhân dân đồng thời cũng là trách nhiệm của quần chúng với nhà nước.
8
Theo quan niệm của thành
phố Hồ Chí Minh quần chúng có ích lợi quản
lý , thì cần có trách nhiệm làm trịn nghĩa vụ công dân , giữ đúng đạo đức
3 Điều 1, Hiến pháp 1946
4 Hiến pháp 1946
5 Hiến pháp 1946
6 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
7 Hồ Chí Minh ( 1949, báo Dân vận)


cơng dân. Nhân dân quản lý thì phải làm theo luật pháp của Nhà nước , làm
theo kỷ luật cao , gìn giữ thứ tự chung qun góp ( nộp thuế ) đúng kỳ ,
đúng số để thành lập xây dựng những cơng trình cơng cộng chung , tích
cực tham dự công tác chung, bảo quản của cải công cộng, bảo quản Tổ
quốc, vv .. Trong quốc gia do quần chúng quản lý , quốc gia phải khởi
tạo mọi điều kiện để quần chúng được tiến hành những quyền mà Hiến
pháp và luật pháp đang quy định, hưởng dụng đa số ích lợi và làm
trịn trách nhiệm quản lý của tớ . Người yêu cầu cán bộ, Đảng viên phải thật
sự tôn trọng quyền quản lý của quần chúng

Trong nhà nước do dân làm chủ, Nhà nước phải tạo đủ mọi điều kiện để
thực thi Pháp luật, tham gia quản lý nhà nước. Chả thế mà Người Người
nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý
là ở chỗ:
- Tồn bộ cơng dân bầu ra Quốc hội.. - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
- Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ nay gọi là Chính phủ).
- Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực
hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật
- Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực
hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra).8
Đi kèm với quyền lợi đó là trách nhiệm của nhân dân. Nhân dân phải có
trách nhiệm thực thi Pháp luật, Hiến pháp, tham gia đóng góp thuế, các
cơng trình cơng cộng chung. Bên cạnh đó, nhân dân phải góp phần xây
dựng, đóng góp ý kiến tham gia bầu đại biểu quốc hội, tích cực góp phần
xây dựng phát triển đất nước đi đôi sánh ngang với càng cường quốc năm
châu. Đây cũng là ước muốn “ cháy bỏng”. “canh cánh” thường trực trong
lịng Hồ Chí Minh khi Người vẫn cịn sống.
3. Nhà nước vì dân
Một nhà nước muốn được mọi người ủng hộ phải là nhà nước phực vụ lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân, lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của dân. Chính vì vậy mag Người đã u cầu
rằng: “ Các cơng việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy
nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân
bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân
thì làm . Việc gì có hại cho dân thì phải tránh ”9 . Trên tinh thần đó, Hồ Chí
8 Quốc dân tại Đại hội Tân Trào (8-1945)
9 Hồ Chí Minh “Chính phủ là công bộc của dân” đăng trên Báo Cứu Quốc số 46



Minh đã nhấn mạnh nhà nước Việt Nam là nhà nước vì dân, tất cả phục vụ
cho lợi ích của nhân, chính vì vậy mà mọi chính sach, quyền lợi đều một
mục đích cuối cùng là hướng vào nhân dân.
Do vậy, một nhà nước do dân là một nhà nước mà “làm đầy tớ cho dân”
chứ không phải “làm quan cách mạng” để đè đầu cưỡi cổ dân. Nhà nước,
các quan phải là “phụ mẫu” của dân chứ không phải hành sách, yêu cầu ức
hiếp dân đủ kiểu. Nhà nước ra đời và hoạt động là vì quyền và lợi ích của
thể dân tộc Việt Nam, không làm được điều đó thì khơng cịn lý do để nhà
nước tồn tại.
Đây cũng là câu hỏi băn khoăn của Người bấy lâu nay “ làm sao cho được
lòng dân , dân tin , dân mến , dân yêu ” , đồng thời Người chỉ rõ : “ muốn
được dân yêu , muốn được lòng dân , trước hết phải yêu dân , phải đặt
quyền lợi của dân trên hết thảy , phải có một tinh thần chí cơng vơ tư ”.
Trước hết, phải đặt quyền lợi của nhan dân lên hàng đầu, tất cả hướng đến
lợi ích của nhân, mọi lịng vì dân phục vụ. Có như thế nhà nước mới tồn tại
và phát triển được. Cũng từ căn cốt sâu xa đó, sau này, nhiều lần Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải biết dựa vào dân,
lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì
chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân
dân khơng đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương
quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”.10

10

10 Tổng

Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, H, 2019, tr. 116-117..



CHƯƠNG II. GIÁ TRỊ VÀ VẬN DỤNG CỦA TTHCM VỀ VẤN ĐỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN TRONG GIAO ĐOẠN
XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
I.Giá trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước của dân, nhà nước do dân và
nhà vì dân đến hơm nay vẫn là “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” cho quá trình xây
dựng và phát triển đất nước
1.Giá trị lý luận :
Giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Nhà nước của dân , do
dân và vì dân đã được bổ sung và phát triển sáng tạo từ Chủ nghĩa MacLenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong cả cuộc đấu tranh giành
giải phóng dân tộc thoát khỏi những cường quốc lớn đến tring cả thời bình
khi mà nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ như ngày hôm nay. Từ trước
đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn nhẩ quán khẳng định chủ nghĩa MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng lý luận, là kim chỉ nan xuyên
suốt hành trình xây dựng phát triển đất nước. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân là vấn đề mang tính lý
luận sâu sắc, là nguyên tắc căn bản để đảm bảo cho nhà nước luôn luôn giữ
được bản chất cách mạng của mình; giúp chúng ta tránh được những sai
lầm, thiếu sót và xây dựng thành cơng nhà nước pháp quyền mang những
đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, truyền thống và bản
sắc văn hóa dân tộc.
2.Giá trị thực tiễn :
Tư tưởng ấy được được vận dụng triệt để nhất trong cả thời kì chiến tranh
và thời bình hiện nay. Nhà nước Việt Nam ln đảm bảo được quyền dân
chủ của nhân dân, vì mục đích cuối cùng là nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ khi có Đảng, tư tưởng lấy dân làm gốc
là mục tiêu cao đẹp, đó cũng chính là bản chất của chế độ xã hội, là những
giá trị đích thực, là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
ta và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Trong hội nghị thượng đỉnh giữa Đảng
Cộng sản Trung Quốc và các chính đảng trên thế giới với chủ đề “Vì hạnh

phúc của nhân dân, trách nhiệm của chính Đảng”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã cho rằng: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên
phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ
và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và
bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ
lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh
bất công, Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng
phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.11
Từ đó, vận dụng vào thực tiễn xã hội Việt Nam về thực hiện các nguyên tắc
11 Nguyễn Phú Trọng, hội nghị thượng đỉnh giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và các chính đảng trên thế giới


quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Đồng thời, Cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa.
Và đặc biệt tư tưởng ấy còn dược vận dụng vào ngay thời điểm dịch bệnh
Covid-19 diễn biến phức tạp. Tư tưởng do dân và vì dân được vận dựng
một cách triệt để khi nhà nước hỗ trợ tiêm vacxin phòng ngừa Covid miễn
phí cho tồn thể người dân. Cách ứng phó của Nhà nước và Đảng ta lúc bấy
giờ ln ln coi trọng sức khỏe và sinh mạng của tồn dân là trên hết, cho
thực hiện giãn cách xã hội để đảm bảo được nguy cơ lây nhiễm. Nhưng nhà
nước cũng đồng cảm và thấu hiểu được nếu như đóng cửa thì thu nhập của
người dân sẽ khơng có, chính vì vậy cịn có các gói hỗ trợ , các phần quà
gửi đến những lao động thất nghiệp trong hoàn cảnh này. Nó đem lại được
những thành tựu tích cực khi đến thời điểm hiện tại số ca nhiễm đã giảm
mạnh rõ riệt.


Nhờ những tư tưởng ấy, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tưu to lớn.
Cái to lớn nhất không thể không kể đến là là một chế độ nhà nước được
lòng dân, được dân tin yêu và ủng hộ hết mình. Bên cạnh đó là nền kinh tế
mặc dù bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 những vẫn có sự tăng trưởng,
đẩy lùi được đỉnh dịch và bây giờ đang mở cửa lại hàng quán, nền kinh tế
tiếp tục phát triển đi lên.
II.Liên hệ bản thân:
Là một sinh viên của Học viện ngân hàng, được học tập và trau dồi những
quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh , được rèn luyện và học tập trong môi
trường đại học, bản thân mỗi chúng ta đượctrau dồi những tư tưởng quan
điểm của Hồ Chí Minh 12
chính vì vậy chúng ta phải học tập và vận dụng
những tư tưởng ấy, lấy tư tưởng ấy là chủ đạo xuyên suốt trong quá trình
lãnh đạo cảu Đảng.
Đặc biệt sinh viên chúng ta tích cực phấn đấu học tập tri thức khoa học, có


kỹ năng tốt, phẩm chất tốt, vừa có tài vừa có đức để chung tay góp cơng sức
vào cơng cuộc xây dựng Đảng cách mạng, xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Tích cực tham gia, phấn đấu trở thành đảng viên của Đảng cộng sản
Việt Nam, thực hiện bồi đắp cho mình những tư tưởng chính trị của Người
thơng qua mơn học này,… hay các hoạt động do đồn trường tổ chức nhằm
giáo dục tuyên truyền những tư tưởng của Đảng ta. Tích cực tìm hiểu,
nghiên cứu tư tưởng của Người không chỉ riêng về tư tưởng dất nước của
dân, do dân và vì dân mà về tất cả mọi lĩnh vực, và vận dụng sáng tạo trong
cuộc sống phù hợp với từng vị trí, nhiệm vụ cụ thể.
Liên hệ bản thân
Về tư tưởng, bản thân em cần hiểu đúng và sâu sắc những tư tưởng mà
Hồ Chí Minh đã đúc kết qua các thời kì. Khơng dao động, mất niềm tin

trước những luận điệu xuyên tạc về Đảng, về nhà nước, trung thành với chủ
nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản thân cần phải tích cực rèn
luyện bồi dưỡng các lớp chính trị , tích cực tìm hiểu hoặc nghiên cứu tài
liệu, chủ động tích cực tham gia các lớp học, cuộc tập huấn do nhà trường
tổ chức bồi dưỡng để không ngừng nâng cao tư tưởng học hỏi những quan
điểm về nhà nước của Người. Tích cực tham gia các hoạt động đồn thể
trong nhà trường: Đồn thanh niên, hội sinh viên, các đội tình nguyện, …
Lên án những suy nghĩ và hành vi lệch lạc, sai trái, bơi nhọ danh dự và
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Về học tập, là một sinh viên của trường kinh tế, em luôn phấn đấu chăm
chỉ học tập, bồi đắp tri thức nhất là trong nền kinh tế tri thức hội nhập như
hiện nay, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sinh viên chúng em không ngừng cố gắng, kiên trì, bền bỉ, năng động, sáng
13

tạo và kiên định lý tưởng Đảng. Đó là những bài học vơ cùng sâu sắc đối
với việc rèn luyện bản thân. Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong
mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với
bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Không ngừng nâng cao


trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để
và linh hoạt các Nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập
trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong
cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.
Về phẩm chất, đạo đức, lối sống : Bản thân cần phải luôn giữ được
phẩm chất, tư cách, tính tiên phong, gương mẫu trong mọi cơng việc, mọi
hồn cảnh. Noi gương phẩm chất đạo đức của Hồ Chí Minh để học hỏi và
noi theo. Thực hiện tốt lời khuyên của Người “ cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư”. Có tinh thần trách nhiệm cao với nhân dân, sống gần gũi chan

hòa biết giúp đỡ những người xung quanh mình. Cá nhân cần phải rèn
luyện phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, sống sống đoàn kết
tập thể, hoà nhã, gần gũi với bạn bè trong trường, trong lớp nói riêng và tất
cả mọi người trong tập thể nói chung. Đồng thời bên cạnh đó, phải tích cực
đấu tranh với những luận điệu sai trái, tham ô tham nhung của những Đảng
viên, không hướng tới quyền lợi của nhân dân mà chỉ cốt “làm đầy túi” của
mình.

14


KẾT LUẬN
Như vậy, Nhà nước của dân do dân và vì dân theo quan điểm của Hồ Chí
Minh là một nhà nước do nhân dân lập lên tất cả đều vì quyền lợi của nhân
dân. Đề tài tập trung vào làm rõ hai vấn đề lớn: đó chính là những nội dung
cơ bản của nhà nước của dân do dân và vì dân và những vận dụng về cả lý
luận và thực tiễn trong việc vận dụng tư tưởng ấy.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, quan điểm
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng
tính pháp quyền, và thực chất chính là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền.
Điều có giá trị to lớn và ý nghĩa sâu sắc là mơ hình nhà nước đó không phải
tồn tại ở dạng lý thuyết, quan điểm, mà nó đã trở thành hiện thực sinh động;
nhà nước ấy đã tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta giành được những
thắng lợi hết sức to lớn. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân, vì dân có những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Chúng ta cần kế thừa, vận dụng và phát triển những giá trị
đó để xây dựng thành cơng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu

Trang

1. Mao Trạch Đông (1937, Thực tiễn luận)

6

3.Hồ Chí Minh (1967, nói chuyện với lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh 6
đạo cấp huyện)
4.Điều 1, Hiến pháp 1946
7
5.Hiến pháp 1946

7

6.Hiến pháp 1946

7

7.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

7

8.Hồ Chí Minh ( 1949, báo Dân vận)

8


9. Quốc dân tại Đại hội Tân Trào (8-1945)

8

10. Hồ Chí Minh “Chính phủ là cơng bộc của dân” đăng trên 9
Báo Cứu Quốc số 46
11. Nguyễn Phú Trọng, hội nghị thượng đỉnh giữa Đảng Cộng 9
sản Trung Quốc và các chính đảng trên thế giới

16


Tài liệu tham khảo online
/> />Ảnh : Nguồn Internet
Một số cụm từ viết tắt
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

17


MỤC LỤC
Tiêu đề
LỜI MỞ ĐẦU

Trang
1

1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
NỘI DUNG
Chương I. Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
I. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân
1.Do kế thừa những điểm tích cực trong xây dựng nhà nước ở
Việt Nam trước đó
2.Sử dụng Pháp luật để quản lý đất nước : Bộ luật Hồng Đức
3.Kế thừa, khảo sát các kiểu nhà nước trên thế giới
4.Chủ nghĩa Mác-Lenin
II.Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng
nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
1.Nhà nước của nhân dân
2.Nhà nước do dân
2. Nhà nước vì dân
CHƯƠNG II. GIÁ TRỊ VÀ VẬN DỤNG CỦA TTHCM VỀ
VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
TRONG GIAO ĐOẠN XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
I. Giá trị
1. Giá trị lý luận

18

2. Giá trị thực tiễn
II. Vận dụng, liên hệ bản thân




×