Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Thực trạng và một số giải pháp giúp HS trường THPT ứng phó với những định kiến và hành vi xâm kích học đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.96 MB, 59 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Một lời nói vơ tình của một em HS có thể dẫn đến một vụ tự tử, một lời bình
luận khiếm nhã trên mạng xã hội có thể dẫn đến một vụ bạo lực học đường. Thậm
chí, chỉ một hành vi ứng xử khơng vừa mắt người khác là có thể dẫn đến mâu
thuẫn, xung đột giữa các nhóm bạn với nhau… Đó chính là thực trạng về định kiến
và hành vi xâm kích đang diễn ra phổ biến trong trường học hiện nay. Đây là hiện
tượng tiêu cực của đời sống và đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Trong đó,
HS THPT là đối tượng chịu nhiều tác động nặng nề nhất bởi theo tiến sĩ tâm lí học
PepPer thì “Định kiến và hành vi xâm kích học đường ở HS THPT là nguyên nhân
hàng đầu dẫn đến trầm cảm. Nó giết người nhanh và nguy hiểm hơn AIDS”. Bên
cạnh đó, với những mặt trái của thời kì cách mạng 4.0 và cơ chế thị trường đã gây
ra những hệ lụy, những ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và học tập của các em
HS. Điều ấy đặt ra một thách thức là chỉ cần những phán xét phiến diện, những
đánh giá mang tính định kiến, những hành vi xâm kích ở trường học sẽ khiến HS
cảm thấy khó khăn, bế tắc, dằn vặt bản thân. Các em chưa có đủ kinh nghiệm để
ứng phó một cách tích cực trước những tác động ấy.
Vậy làm thế nào để có thể ứng phó với những tác động tiêu cực từ định kiến
và hành vi xâm kích học đường? Trước hết, cần khẳng định, nền tảng giáo dục
đóng vai trị vơ cùng quan trọng “Giáo dục đứng ở vị trí trung tâm của sự phát
triển con người và cộng đồng. Giáo dục có sứ mệnh giúp cho mọi người được phát
huy tất cả mọi tài năng và mọi tiềm lực sáng tạo, bao gồm cả tinh thần trách
nhiệm đối với đời sống của bản thân và việc đạt được những mục đích cá nhân”
(Jacques Delors – Chủ tịch Uỷ ban Quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI). Dù ở thời đại
nào, ở bất kì nền giáo dục nào thì những nhu cầu cơ bản của con người cần phải
đặt lên hàng đầu. Đó là nhu cầu được yêu thương, được tôn trọng, được thấu hiểu,
được cảm thông và được khẳng định giá trị bản thân. Chính vì thế, việc rèn những
kỹ năng ứng phó tích cực trước những tác động tiêu cực của định kiến và hành vi
gây hấn, xâm kích là điều vơ cùng cần thiết đối với các em HS. Cục trưởng cục bảo
vệ trẻ em Đặng Hoa Nam cũng khẳng định rằng:“Nâng cao nhận thức và dạy kỹ
năng phịng ngừa, ứng phó trước những định kiến và hành vi xâm kích học đường


cho HS là vấn đề cấp bách của toàn xã hội hiện nay”. Từ những lí do trên, chúng
tơi đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Thực trạng và một số giải pháp giúp HS
Trường THPT .......ứng phó với những định kiến và hành vi xâm kích học
đường”.
Qua đề tài nghiên cứu này, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan về những biểu
hiện, nguyên nhân và tác động tiêu cực của định kiến và hành vi xâm kích đến các
em HS. Từ đó, đề xuất được những giải pháp phù hợp, thiết thực giúp HS THPT
ứng phó với định kiến và hành vi xâm kích học đường, tạo nền tảng tinh thần tốt
đẹp để các em tự tin bước vào cuộc sống xã hội.
1


2.

Đóng góp mới của đề tài

- Về mặt lí luận: Hệ thống hóa một số lí luận và làm sâu sắc cơ sở lí thuyết
khoa học về những định kiến và hành vi xâm kích, đặc biệt là đi sâu khai thác vấn
đề định kiến và xâm kích diễn ra trong học đường.
- Về mặt thực tiễn:
+ Thấy được những tác động tiêu cực của định kiến và hành vi xâm kích
trong phạm vi học đường ở trường THPT Tân Kỳ.
+ Đi sâu vào khảo sát thực trạng, nguyên nhân, hậu quả để làm cơ sở thực
tiễn. Đồng thời, đề xuất được các giải pháp tích cực giúp HS THPT ứng phó với
định kiến và hành vi xâm kích học đường. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng
học tập và cuộc sống, phù hợp với định hướng giáo dục của thời đại mới.
+ Các giải pháp có tính khả thi và sức lan tỏa rộng. Có thể nhân rộng với các
trường trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng quát để có cái nhìn đa chiều về khái

niệm, biểu hiện, thực trạng và nguyên nhân của định kiến và xâm kích học đường,
từ đó đề xuất được những giải pháp tích cực giúp các em HS Trường THPT
.......nói riêng, HS trên cả nước nói chung nâng cao các kỹ năng ứng phó với định
kiến và hành vi xâm kích một cách tích cực. Đồng thời, góp phần đẩy lùi, xố bỏ
những định kiến và hành vi xâm kích học đường, hỗ trợ một cách hiệu quả quá
trình học tập và giao tiếp xã hội cho các em, hướng tới xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, an toàn, thân thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và một số giải pháp giúp HS Trường
THPT .......ứng phó với những định kiến và hành vi xâm kích học đường.
Phạm vi nghiên cứu: Trường THPT
Khách thể nghiên cứu: 276 HS trong đó 134 nam và 142 nữ, độ tuổi từ 15
đến 18 tuổi, số liệu cụ thể như sau:
Nam
Trường
Trường THPT Tân Kỳ

Nữ

Khối

Khối

Khối

Khối

Khối

Khối


10

11

12

10

11

12

45

44

45

47

48

47

134

Tổng
276


142

Bảng 1. Thống kê khách thể nghiên cứu

2


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu, thu thập thơng tin, phân tích, đánh giá, chọn lọc, sử
dụng các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu để làm căn cứ lí luận cho đề
tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát
- Xây dựng phiếu khảo sát cho khách thể nghiên cứu với nội dung đánh giá
thực trạng nhận thức về định kiến và hành vi xâm kích học đường, nhận thức về
nguyên nhân, hậu quả của định kiến và hành vi xâm kích học đường, HS ứng phó
thế nào khi là nạn nhân.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Phỏng vấn là phương thức hỏi đáp trong hội thoại nhằm thu nhận thông tin
trực tiếp từ một đối tượng. Đối tượng phỏng vấn có thể là người am hiểu về chủ đề
cần phỏng vấn hoặc là người liên quan, người làm chứng về sự việc.
- Khách mời phỏng vấn: phỏng vấn 3 GVCN của 3 khối lớp 10,11,12; phỏng
vấn với lãnh đạo nhà trường, Bí thư đồn trường, trưởng cơng an thị trấn và một số
HS. Thời gian phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp, mỗi khách mời phỏng vấn 10 phút.
Nội dung phỏng vấn: thực trạng về định kiến và hành vi xâm kích ở HS trong
trường học, cách xử lí vi phạm, kỉ luật HS.
5.2.3. Phương pháp chuyên gia
- Mục đích: thu thập thêm thông tin từ các chuyên gia tâm lí và giáo dục để

bổ sung cho đề tài.
Đại diện: mời diễn giả Đào Ngọc Cường - một chuyên gia trong giáo dục
đạo đức nhân cách cho HS, để trao đổi kinh nghiệm về các biện pháp giáo dục đạo
đức cho HS phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Mời bà Nguyễn Ngọc Trâm - chuyên gia
tâm lí, phụ trách về vấn đề phòng chống bạo lực ở trẻ em và phụ nữ huyện Tân Kỳ,
tư vấn về tâm lí lứa tuổi HS THPT, các biện pháp phòng chống bạo lực.
-

5.2.4. Phương pháp xử lí số liệu
Thơng kê, phân tích, so sánh, xử lí số liệu và kết quả nghiên cứu.
5.2.5. Phương pháp thực nghiệm
Kiểm chứng kết quả của các giải pháp nâng cao mức độ nhận thức của HS
về định kiến và xâm kích, về cách ứng phó của HS khi là nạn nhân của định kiến
và hành vi xâm kích.

3


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về định kiến cũng như hành
vi xâm kích, gây hấn. Cơng trình nghiên cứu “Định kiến, những ghi chú về việc
vận hành của những đặc tính bị xói mịn” của Goffman năm 1963 – một nhà Xã
hội học người Canada được xem là sự khởi nguồn cho các bài nghiên cứu sau này
về bản chất, căn nguyên và hệ quả của định kiến. Theo Goffman, “Định kiến là
những nhận thức sai lệch về mặt xã hội đối với một nhóm cộng đồng cụ thể nào
đó, là thuộc tính làm tổn hại một cách sâu sắc đến cộng đồng chịu định kiến khiến
họ bị chuyển dịch từ một nhóm bình thường sang nhóm kém vị thế và ít đáng tin

hơn”. Cịn trong sách chuyên khảo “Bắt nạt trong trường học, chúng ta biết gì và
chúng ta có thể làm gì” của Dan Olweus và bài nghiên cứu về “Định kiến xã hội”
của hai học giả Link và Phelan năm 2001 đã đưa ra khái niệm về định kiến, về
hành vi gây hấn, bắt nạt trong trường học và các giai đoạn của quá trình phân biệt,
kì thị của một nhóm xã hội đối với những người sở hữu các thuộc tính khơng giống
với họ. Theo Dan Olweus, “Hành vi bắt nạt trong trường học là một hành động
tiêu cực, lặp đi lặp lại nhằm cố ý làm tổn thương về tinh thần hoặc thể xác cho
người khác”.
Đồng thời, trong bài nghiên cứu của Link và Phelan cịn phân tích cụ thể về 5 giai
đoạn của quá trình kì thị, phân biệt đối xử là: dán nhãn, mặc định nhóm bị định
kiến với một hệ giá trị, cộng đồng hóa bằng việc tạo ra một đường ranh giới riêng
biệt giữa “chúng ta” và “họ”, phân biệt đối xử và phân chia vị thế xã hội, tạo ra
cán cân quyền lực khơng cơng bằng. Có thể thấy rằng, nghiên cứu về các vấn đề
tâm lí xã hội, về định kiến và hành vi xâm kích đã được nhiều tác giả trên thế giới
quan tâm. Tuy nhiên, các cơng trình, dự án, các cuốn sách nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở hình thành khái niệm, thực trạng, hậu quả của vấn đề mà chưa đề xuất
những giải pháp cụ thể, đặc biệt là các giải pháp thiết thực đối với đối tượng là HS
THPT để ứng phó khi là nạn nhân của định kiến và hành vi xâm kích học đường.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề định kiến và sự xâm kích cũng được nhiều tác giả
nghiên cứu. Trong giáo trình“Tâm lí học xã hội” của nhóm tác giả Trần Quốc
Thành và Nguyễn Đức Sơn, cuốn giáo trình “Tâm lí học” của tác giả Phạm Văn
Tư, sách chuyên khảo “Hành vi gây hấn - phân tích từ góc độ tâm lí xã hội” của
tác giả Trần Thị Minh Đức, kỷ yếu hội thảo “Thực hành hành vi gây hấn ở HS
THCS” của Trần Văn Công, Nguyễn Thị Hồng và bài nghiên cứu về “Thực trạng
gây hấn của học sinh trong trường THPT” của Trần Thị Minh Đức, Hoàng Xuân
Dung - Trung tâm hỗ trợ Nghiên cứu Châu Á và Quỹ Giáo dục, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã chỉ ra khái niệm, nguồn gốc, bản chất, nguyên nhân và vài nét về thực
4



trạng của định kiến và hành vi xâm kích ở HS THPT. Tuy nhiên, các cơng trình
nghiên cứu này chỉ nghiên cứu lý thuyết chuyên sâu và nêu thực trạng một cách
tổng quát mà chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể về thực trạng của định
kiến và hành vi xâm kích học đường, về hậu quả nghiêm trọng của nó đối với HS
THPT. Đặc biệt chưa chỉ ra sự tác động qua lại giữa hai yếu tố này và cần có giải
pháp cụ thể nào để ứng phó với định kiến và hành vi xâm kích học đường ở HS
THPT. Vì thế, nghiên cứu về thực trạng và các giải pháp giúp HS THPT ứng phó
với định kiến và hành vi xâm kích học đường là việc làm vô cùng cần thiết.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Định kiến
Định kiến là những ý kiến, quan điểm, thái độ đánh giá tiêu cực được nảy
sinh trên cơ sở của những cảm nhận khơng có cơ sở chắc chắn, những đặc điểm bề
ngoài, những ấn tượng xấu...về một cá nhân, về một nhóm người hay một cộng
đồng người nào đó. Từ đó, dẫn đến việc phân biệt đối xử. (Nguồn: Trang
111-“Tâm lí học xã hội” của Trần Quốc Thành và Nguyễn Đức Sơn”).
1.2.2. Xâm kích
Xâm kích là hành vi tấn công người khác hoặc những tài sản thuộc quyền
người khác với mục đích sỉ nhục, gây đau đớn hoặc tổn hại họ. Người có hành vi
xâm kích có thể tấn cơng trực tiếp hoặc có thể gián tiếp người khác, có thể dùng lời
lẽ hoặc hành động để làm hại người khác. Hành vi xâm kích có thể mang lại lợi ích
cho chủ thể hành vi, hoặc để thỏa mãn một nhu cầu, động cơ nào đó. (Nguồn:
Trang 111“Tâm lí học xã hội” của Trần Quốc Thành và Nguyễn Đức Sơn”).
1.2.3. Ứng phó
Ứng phó là sự đối phó nhanh nhạy kịp thời với những tình huống mới, bất
ngờ. (Nguồn: Từ điển tiếng Việt). Trong phạm vi dự án này, chúng tơi nghiên cứu
khái niệm “ứng phó” với ý nghĩa là tìm ra những giải pháp tích cực để ứng xử
trước việc bị phán xét, đánh giá mang tính định kiến hoặc khi là nạn nhân của hành
vi xâm kích.
2. Cơ sở thực tiễn

2.1. Những biểu hiện của định kiến và hành vi xâm kích học đường ở
học sinh Trường THPT Tân Kỳ
2.1.1. Biểu hiện của định kiến
- Nhận thức thiếu căn cứ, phiến diện của chủ thể mang định kiến đối với
người khác. Đó là thái độ tiêu cực, những ấn tượng xấu về một bạn hoặc một nhóm
người nào đó.
- Dùng những lời nói chê bai hoặc thái độ xa lánh, khơng chơi với những
bạn HS có hồn cảnh đặc biệt như bố đi tù, nghiện ngập hay trêu chọc, chê bai bạn
có ngoại hình khiếm khuyết hoặc thành tích học tập yếu, cá biệt trong lớp.
5


- Thái độ không mấy thiện cảm và phân biệt đối xử của HS trong lớp và
trong trường với những bạn HS cơng khai giới tính thứ ba. Những bạn ấy thường
bị trêu chọc, trở thành đề tài đùa cợt một cách ác ý.
2.1.2. Biểu hiện của hành vi xâm kích
Biểu hiện của hành vi xâm kích rất đa dạng. Có thể là sự xâm kích trực tiếp,
tức là chủ thể hành vi sử dụng lời nói, cú đấm đá hay vũ khí gây tổn thương trực
tiếp cho người bị xâm kích. Có thể là xâm kích một cách gián tiếp khi chủ thể xâm
kích gián tiếp gây tổn thương cho người bị xâm kích bằng các cách như tung tin
đồn, nói xấu sau lưng… khiến cho nạn nhân chịu tổn thương về mặt tinh thần. Dựa
vào hậu quả của hành vi, có thể thấy các loại biểu hiện của hành vi xâm kích là:
xâm kích tinh thần, xâm kích thể chất, xâm kích kinh tế và xâm kích tình dục.
- Xâm kích tinh thần biểu hiện như: chửi mắng, nói xấu, lăng mạ, la hét dọa
nạt, tạo áp lực, xúc phạm hay hạ thấp bạn trước mặt mọi người, khủng bố hay tạo
tâm lí căng thẳng, gây lo sợ cho đối phương, gọi tên bạn bằng những biệt hiệu xấu,
gán ghép, xa lánh, cô lập, tẩy chay, chụp lén, chế ảnh bạn đưa lên mạng xã hội, cố
tình khiêu khích khiến người khác phải tức giận hoặc sử dụng ngơn từ khiếm
nhã…
- Xâm kích thể chất là những hành vi sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công

cụ, vũ khí gây tổn hại thể chất như: tát, đấm, đá người khác, ném vật gì đó (thước,
bút, sách, đá), đẩy hoặc xơ thứ gì đó (bàn, ghế, cánh cửa…) vào người khác, dẫm
đạp, kéo lê bạn; giật tóc, cào cấu bạn; gài bẫy làm bạn ngã… Có khi, chủ thể của
những hành vi này chỉ xem đây là những trò đùa vô hại mà chưa ý thức được hậu
quả của nó.
- Xâm kích về kinh tế như trộm cắp, phá hoại tài sản hoặc kiểm soát tài sản
của bạn: cất giấu đồ dùng học tập, xé rách hoặc ném những đồ dùng học tập của
bạn, trộm tiền, điện thoại…; làm bẩn, làm hỏng những thành quả học tập của bạn
như giấy khen, bài kiểm tra, bài tập…
- Xâm kích tình dục như: cố tình động chạm đến những vùng nhạy cảm trên
cơ thể bạn; cố tình cho bạn xem ảnh hoặc phim ảnh đồi trụy; giật giây áo, tốc váy,
kéo quần, bật cúc áo của bạn…
2.2. Thực trạng nhận thức về định kiến và hành vi xâm kích ở học sinh
Trường THPT Tân Kỳ
- Với câu hỏi “Bạn hiểu như thế nào về định kiến?”, kết quả thu được: có
70/276 em (chiếm 25,2%) cho rằng định kiến là “suy nghĩ thiên lệch một chiều”;
có tới 96/276 em (chiếm 35%) cho rằng“là ý kiến được định ra từ trước”; chỉ có
110/276 em (chiếm tỷ lệ 39,8%) cho rằng“là những ý kiến, quan điểm, thái độ
đánh giá tiêu cực mang tính chủ quan thiếu suy xét về con người, sự việc”. Vậy với
kết quả trên, ta thấy có 110/276 HS, chiếm tỷ lệ thấp 39,8% nhận thức đúng về
định kiến; có tới 166/276 HS, chiếm 60,2% nhận thức sai về định kiến.
6


Với câu hỏi “Bạn hiểu như thế nào là hành vi xâm kích”, kết quả thu
được: có 84/276 em (chiếm 30,4%) cho rằng là “hành vi cố tình xâm hại người
khác”; còn 101/276 em chiếm 36,5% cho rằng“là hành vi cố ý gây kích động
người khác”; chỉ có 91/276 em chiếm 33,1% cho rằng “là hành vi tấn công người
khác với mục đích sỉ nhục, gây đau đớn hoặc tổn hại họ”.Vậy với kết quả trên, ta
thấy HS có nhận thức đúng về xâm kích là 91/276 em (33.1%); có tới 185/276 HS

(69,9%) nhận thức sai về xâm kích.
-

Kết luận: Như vậy, mức độ hiểu biết về định kiến và hành vi xâm kích ở HS
cịn thấp.
Để giúp HS nhận thức được sự tác động qua lại giữa định kiến và hành vi
xâm kích bởi định kiến dễ dẫn đến hành vi xâm kích và ngược lại xâm kích càng
khiến cho suy nghĩ mang tính định kiến trở nên nặng nề, chúng tôi đã sử dụng câu
hỏi nghiên cứu sau:
- Với câu hỏi “Theo bạn, định kiến và hành vi xâm kích có tác động qua lại
lẫn nhau khơng?”, kết quả thu được: có 37/276 em (13,2%) cho rằng “khơng liên
quan”; có đến 166/276 em chiếm 60,3% cho rằng “tác động một chiều, suy nghĩ
định kiến dễ gây ra hành vi xâm kích”; chỉ có 73/276 em (26,5%) cho rằng “tác
động qua lại, những phán xét định kiến dễ dẫn đến xâm kích và hành vi xâm kích
khiến suy nghĩ mang tính định kiến càng nặng nề”. Với kết quả trên ta thấy, có tới
203/276 HS (73,5%) nhận thức sai về sự tác động qua lại giữa định kiến và xâm
kích; chỉ có 73/276 HS (26,5%) nhận thức đúng.

7


Kết luận: Mức độ nhận thức về sự tác động qua lại giữa định kiến và hành
vi xâm kích cịn thấp.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến định kiến và hành vi xâm kích ở học sinh
Trường THPT Tân Kỳ
Với câu hỏi “Bạn thường bị phán xét, xâm kích vì những lí do nào?”, kết
quả thu được: có tới 19/66 em (7,2%) bị định kiến, xâm kích là do sự khác biệt về
tính cách, giới tính; có 14/66 em (5,1%) bị định kiến, xâm kích là do học yếu, cá
biệt; có 11/66 em (4%) bị định kiến, xâm kích là do ngoại hình khiếm khuyết; 9/66
em (3,1%) bị định kiến và xâm kích do mâu thuẫn trong chuyện tình cảm; 4/66 em

(1,5%) bị định kiến, xâm kích do hồn cảnh gia đình và 9/66 em (3,1%) bị định
kiến, xâm kích là do những nguyên nhân khác. Kết quả khảo sát cho thấy lí do dẫn
đến định kiến và hành vi xâm kích rất đa dạng. HS thường có định kiến và hành vi
xâm kích do xuất pháp từ sự khác biệt nào đó, nhưng tập trung nhiều nhất là sự
khác biệt về tính cách, giới tính.
-

- Với câu hỏi “Bạn từng là nạn nhân của những định kiến và hành vi xâm
kích chưa?”, kết quả thu được: có 16/276 HS thường xuyên là nạn nhân, chiếm
5,8%; có đến 50/276 em thỉnh thoảng là nạn nhân, chiếm 18,2%; 210/276 chưa
từng là nạn nhân, chiếm 76%. Với kết quả trên ta thấy, có 66/276 HS từng là nạn
nhân của định kiến và xâm kích (chiếm 24%). Đây là một con số lớn bởi nó tác
động tiêu cực đến tâm lí, sức khỏe và học tập cuả các em HS.
8


Kết luận: Như vậy, những đánh giá, phán xét phiến diện và hành vi tiêu
cực diễn ra thường xuyên và phức tạp ở HS THPT.
2.4. Hậu quả của định kiến và hành vi xâm kích đối với học sinh THPT
- Với câu hỏi “Theo bạn, những định kiến và hành vi xâm kích học đường
có ảnh hưởng như thế nào đến tâm lí, sức khỏe, học tập và cuộc sống?”, kết quả
thu được như sau: có 124/276 em (45%) cho rằng “ảnh hưởng nghiêm trọng”; có
đến
113/276 em (40,8%) cho rằng “bình thường vì đó là một phần của cuộc sống”; cịn
39/276 em chiếm 14,2% cho rằng “khơng ảnh hưởng”.

Như vậy, tỷ lệ HS chưa nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của định kiến
và hành vi xâm kích cịn cao chiếm 55%.
- Với câu hỏi “Nếu là nạn nhân của những định kiến và hành vi xâm kích,
bạn sẽ phản ứng lại như thế nào?”, kết quả thu được như sau: có đến 95/276 em

(34,4%) “thu mình, tự tách biệt với tập thể”; có 45/276 em (16,2%) “trốn tránh,
muốn bỏ học”; 56/276 em (20,5%) cảm thấy “dằn vặt, tự gây thương tích cho
chính mình”; 63/276 em (22,7%) “hung hăng, đánh trả lại”; có 13/276 em (4,6%)
“suy nghĩ tích cực, ứng xử văn minh, lịch sự” và chỉ có 4/276 em (1,6%) “cố gắng
khẳng định giá trị bản thân để chứng minh những suy nghĩ định kiến là sai lệch”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, những định kiến và hành vi xâm kích đã dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng:
Trước hết, nạn nhân bị xa lánh, bị phân biệt đối xử trong nhóm bạn, trong
tập thể, gây tổn thương về tinh thần, thậm chí cịn rối nhiễu hành vi, ảnh hưởng đến
sức khỏe, học tập, cuộc sống của bản thân. Hầu hết, các em luôn cảm thấy thua
kém, tự ti hoặc ngại giao tiếp, tự tách biệt mình khỏi tập thể, tìm cách chạy trốn
bằng việc chuyển trường hoặc bỏ học.
Ở mức độ phức tạp hơn, những em này sẽ bị rối loạn cảm xúc, dằn vặt bản
thân thậm chí rơi vào trầm cảm, ngại giao tiếp, không muốn xuất hiện trước bất kì
ai. Nguy hiểm hơn, những mặc cảm tự ti ấy sẽ dẫn đến nhiều HS tự gây thương
tích cho chính mình bởi nạn nhân nhận thức lệch lạc và chưa đủ khả năng xử lí vấn
đề.
9


Bên cạnh đó, những hành vi xâm kích cịn gây tổn hại về thể chất. Nạn nhân
có thể bị những chấn thương trên cơ thể hoặc nạn nhân hung hăng đánh trả gây tổn
thương cho người khác và gây thiệt hại về mặt kinh tế cho chính HS.

Kết luận: Đa số HS phản ứng tiêu cực (93,8%) khi là nạn nhân của định
kiến và xâm kích. Điều này đã dẫn đến những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng lớn đến
học tập và cuộc sống đối với HS.
Với câu hỏi “Nếu bị phán xét định kiến, bị xâm kích, bạn sẽ tìm đến sự trợ
giúp nào?” kết quả thu được như sau: có đến 139/276 em (50,5%) tìm trợ giúp từ
“nhóm bạn chơi chung”; cịn 57/276 (20,5%) em tìm đến sự trợ giúp từ “GVCN

hoặc các GV khác” và 57/276 em (20,5%) chọn tư vấn từ “bố mẹ”; chỉ có 23/276
(8,5%) em tìm đến “tổ tư vấn tâm lí học đường”.
-

Từ số liệu trên cho thấy, đa phần HS tìm kiếm sự trợ giúp từ nhóm bạn chơi
chung. Tuy nhiên, sự trợ giúp này chưa đáng tin cậy vì nhóm bạn ở lứa tuổi THPT
chưa đủ khả năng và kinh nghiệm để phân tích và xử lí các tình huống một cách
thấu đáo. Số liệu trên cũng cho thấy, chỉ có 8.5% HS chọn trợ giúp từ tổ tư vấn tâm
lí học đường vì có thể các em chưa cảm nhận được sự “an toàn và tin tưởng”. Đây
là một thực trạng đáng buồn. Vì thế, chúng ta cần có biện pháp tun truyền hợp lí
và có hiệu quả.
10


Kết luận chung
Như vậy, từ việc nghiên cứu thực trạng, ta thấy mức độ nhận thức về định
kiến và hành vi xâm kích ở HS Trường THPT .......cịn thấp, đa số các em chưa
nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của nó. Đáng lo ngại là các em HS thường
chọn cách phản ứng tiêu cực khi là nạn nhân và chưa được trang bị nhiều kỹ năng
ứng phó cần thiết. Bên cạnh đó, tổ tư vấn tâm lí học đường trong nhà trường chưa
phát huy hết hiệu quả. Đây là thực trạng báo động khơng chỉ ở HS Trường .......mà
cịn ở các trường học khác trên cả nước nói chung. Vì thế, việc nâng cao nhận thức,
rèn các kỹ năng và các giải pháp tích cực để ứng phó với định kiến và hành
vi xâm kích học đường là điều cần thiết đối với các em HS.
Một số giải pháp giúp HS Trường THPT .......ứng phó với những định
kiến và hành vi xâm kích học đường
3.

3.1. Rèn luyện một số kỹ năng cơ bản giúp học sinh ứng phó tích cực với
định kiến và hành vi xâm kích học đường

3.1.1. Mục đích
Giúp HS đưa ra cách ứng xử phù hợp với hồn cảnh giao tiếp mà mình gặp
phải, giúp các em trở nên bình tĩnh, kiên cường và bản lĩnh hơn khi đối mặt với
định kiến và hành vi xâm kích.
3.1.2. Rèn luyện một số kỹ năng cơ bản
* Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức, hiểu biết của mình để giải
quyết một vấn đề nào đó.
* Một số kỹ năng cơ bản cần rèn luyện:
- Kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi tiêu cực
- Kỹ năng phân tích và xử lí tình huống
- Kỹ năng ứng phó với nguy hiểm.
3.1.3. Cách thực hiện
Có nhiều kỹ năng cần rèn luyện cho HS, tuy nhiên trong phạm vi đề tài
nghiên cứu, chúng tôi chỉ hướng dẫn cách rèn luyện ba kỹ năng cơ bản nêu trên.
Để rèn luyện các kỹ năng trên, chúng tôi tiến hành như sau:
* Rèn luyện kỹ năng kiềm chế cảm xúc và hành vi tiêu cực:
Cảm xúc tiêu cực là kẻ thù của sự thành công. Các hành vi tiêu cực tự làm
tổn thương bản thân một phần là do các em HS khơng kiểm sốt được cảm xúc tiêu
cực của mình. Chính sự tức giận, sự bồng bột của tuổi trẻ và thiếu kinh nghiệm
sống của bản thân mà các em đã để cảm xúc tiêu cực điều khiển hành vi. Vì thế, để
kiềm chế được cảm xúc và hành vi tiêu cực khi là nạn nhân của định kiến hoặc
xâm kích, trước hết các em cần chia sẻ cảm xúc thật của mình với người mà em tin
tưởng hoặc viết nhật kí hằng ngày. Đồng thời, các em cần tích cực tham gia sinh
11


hoạt nhóm hoặc câu lạc bộ trong và ngồi nhà trường sẽ giúp bản thân hịa đồng,
gắn bó, cởi mở hơn với mọi người, tự tin hơn về bản thân và khẳng định giá trị bản
thân theo hướng tích cực. Ngoài ra, các em nên đọc các câu chuyện đẹp trong cuộc
sống như:“Cô Vân ở Nghệ An lấy chồng ngoại quốc”, câu chuyện “Cậu bé được

bạn cõng đi học 12 năm vừa đỗ đại học” để biết trân quý và nhận ra giá trị của bản
thân, tìm đến nguồn sách về kĩ năng sống như “Mặc kệ thiên hạ sống như người
Nhật” của Mari Tamagawa, “Chiến thắng con quỷ trong bạn” và “Đánh thức sức
mạnh phi thường trong bạn” của Napoleon Hill, “Dám mơ lớn” của Lư Tư Hạo…
để biết làm chủ cảm xúc, hình thành quan điểm sống, lối sống lành mạnh, tích cực.
Nếu q khó khăn trong việc kiềm chế cảm xúc, các em hãy sử dụng bảng
dưới đây và lựa chọn cách giải quyết vấn đề một cách tích cực:
Bạn đã phản ứng
Thứ

Cái gì làm bạn
tức giận?

với việc đó như thế
nào?

Nó có chính đáng
khơng?

2
3
….
* Rèn luyện kỹ năng phân tích và xử lí tình huống, kỹ năng ứng phó với
nguy hiểm:
- Đây là hai kỹ năng rất quan trọng giúp các em có thể phân tích và đưa ra
cách ứng xử phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp mình gặp phải. Để rèn luyện hai kĩ
năng này, chúng tơi tiến hành như sau:
- Hình thức tổ chức: Tổ chức một tiết sinh hoạt lớp dưới hình thức sân khấu
tương tác với chủ đề “Đừng ân hận muộn màng” để các em biết cách phân tích và
xử lí tình huống khi gặp phải.

- Thời gian, địa điểm: tiết 5, thứ 7 ngày 27/03/2021 tại phòng học lớp 10C9
- Thành phần tham gia: GVCN lớp 10C9, nhóm tác giả và các em HS lớp
10C9
- Nội dung: thể hiện qua giáo án minh họa sau:
GIÁO ÁN SINH HOẠT LỚP 10C9
Người dạy: GV Trần Thị Quyên
Chủ đề: “Đừng ân hận muộn màng”.
I. MỤC ĐÍCH, U CẦU
1. Mục đích
- Nhận xét, đánh giá về tình hình học tập, nề nếp, tình hình hoạt động của lớp
12


trong tuần qua.
- Triển khai kế hoạch hoạt động của nhà trường, Đoàn thanh niên trong tuần tới.
- Giáo dục các kỹ năng sống cho HS.
- Hình thành các năng lực và phẩm chất cho HS:
+ Về năng lực: HS được phát triển các năng lực:
Năng lực điều chỉnh hành vi: Tự giác thực hiện một số cách phòng bị
đúng đắn trước những tình huống bản thân có thể gặp phải trong học tập và
cuộc sống.
Năng lực phát triển bản thân: Nâng cao ý thức cảnh giác, đề phòng trước
những biểu hiện của các tình huống nguy hiểm. Thực hành được cách ứng phó
trước một số tình huống gặp phải để đảm bảo an toàn cho bản thân.
Tư duy phê phán: Đánh giá, phê phán những hành vi chưa chuẩn mực, vi
phạm đạo đức, hành vi sai trái, gây nguy hiểm cho mọi người; lên án những
hành vi lệch lạc đe dọa sự an toàn của người khác, đặc biệt là những người yếu
thế.
Hợp tác, giải quyết vần đề: Hợp tác với các bạn trong lớp ứng phó trong
các tình huống nguy hiểm, cùng bạn bè tham gia các hoạt động trải nghiệm, các

hoạt động về kỹ năng sống để có khả năng xử lí và ứng phó khi gặp sự cố thật
trong cuộc sống.
+ Về phẩm chất:
Bình tĩnh: Ln rèn luyện và nhắc nhở bản thân cần bình tĩnh trước
những tình huống để có thể đưa ra cách ứng biến phù hợp.
Can đảm, linh hoạt, nhạy bén: Luôn can đảm chia sẻ với những người
xung quanh, tìm sự trợ giúp kịp thời nếu rơi vào tình huống nguy hiểm, không
được sợ hãi để kẻ xấu khống chế; cần linh hoạt nhạy bén để bảo vệ bản thân
trước mọi tình huống.
Trách nhiệm: Thực hiện đúng nội quy nơi công cộng; chấp hành tốt pháp
luật, không tiếp tay cho kẻ xấu.
Nhân ái: Yêu thương, chia sẻ, đồng cảm, giúp đỡ những người gặp phải
các tình huống nguy hiểm trong cuộc sống.
2. Yêu cầu
- Tổng kết đánh giá trên tất cả các mặt một cách đầy đủ, chi tiết.
- Chỉ rõ những nội dung đã đạt được, những mặt tồn tại, đồng thời tìm ra
nguyên nhân và biện pháp khắc phục những nội dung chưa đạt được, tiếp tục
phát huy những thành tích đã đạt được.
- HS tham gia hoạt động sinh hoạt chủ đề: tích cực, chủ động và hiệu quả.
13


II. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
1. Đối với GVCN
- Tổng kết tình hình lớp thơng qua sổ đầu bài, sổ theo dõi cá nhân của ban cán
sự lớp, ban chấp hành Đoàn trên các mặt: chuyên cần, kỉ luật, học tập, vệ sinh
… và đề ra biện pháp xử lí vi phạm.
- Thảo luận với HS và giao nhiệm vụ chuẩn bị cho nội dung sinh hoạt chủ đề
của tuần.
- Xem bảng thông báo kế hoạch hoạt động của nhà trường đề phổ biến kế hoạch

tuần tới cho lớp.
2. Đối với HS
- Ban cán sự lớp tổng kết hoạt động trong tuần qua.
- Ban chấp hành chi đoàn tổng kết, đánh giá các hoạt động của chi đoàn và triển
khai kế hoạch của Đoàn trường trong tuần tới.
- Các thành viên trong lớp tự giác đánh giá cá nhân và đưa ra ý kiến nhằm xây
dựng tập thể lớp.
- Chuẩn bị dụng cụ và nội dung sinh hoạt chủ đề.
III. PHƯƠNG PHÁP
1. Phát vấn
2. Đóng vai
3. Phiếu học tập
4. Thảo luận nhóm
IV. TIẾN TRÌNH SINH HOẠT
1. Ổn định lớp: 1 phút
- GV giới thiệu đại biểu tham gia dự giờ tiết sinh hoạt của lớp.
- Lớp trưởng báo cáo sĩ số.
2. Nội dung sinh hoạt: 44 phút
Thời
gian
3

Hoạt động của GV- HS
Hoạt động 1: Mở đầu

phút - Giới thiệu nội dung tiết sinh
hoạt:

Nội dung cần đạt
- Lớp trưởng điều hành: giới thiệu

người dẫn chương trình và thư kí.

1. Tổng kết, đánh giá hoạt
động tuần qua.
14


2. Triển khai kế hoạch tuần
tới.
3. Sinh hoạt chủ đề “Đừng ân
hận muộn màng”.
- Mời lớp trưởng lên điều
hành SH.
5
phút

Hoạt động 2: Tổng kết,
đánh giá hoạt động tuần
- Quan sát việc báo cáo của
các tổ và ghi nhận lại kết quả.
- Lắng nghe ý kiến của ban
cán sự lớp.
- GVCN: đánh giá chung, yêu
cầu các HS vi phạm viết kiểm
điểm cá nhân nhận lỗi và cam
kết khắc phục (có ý kiến xác
nhận của phụ huynh). Đồng
thời, phạt trực nhật các HS vi
phạm.


- Lớp trưởng nhận xét:
+ Ưu điểm
+ Nhược điểm
- Bí thư nhận xét:
+ Các hoạt động chính trong tuần
+ Ưu điểm.
+ Nhược điểm.
- Lớp trưởng mời ý kiến đánh giá
của GVCN.
- Tuyên dương, khen thưởng, phê
bình, nhắc nhở.

- GV trao quà thưởng.
4

Hoạt động 3: Triển khai

phút

kế hoạch tuần tới

- Lớp trưởng mời GVCN phổ biến kế
hoạch tuần tới.

- GV phổ biến kế hoạch tuần:
+ Khắc phục các lỗi vi phạm
về nề nếp

- Bí thư (Phó bí thư) phổ biến kế
hoạch đoàn.


+ Học tập theo TKB.

- Lớp trưởng động viên cả lớp cố
gắng chấp hành tốt nội quy, hoàn
thành các nhiệm vụ được giao.

+ Vệ sinh sạch sẽ, kịp thời.

1
5


28
phút

Hoạt động 4: Sinh hoạt chủ
đề “Đừng ân hận muộn
màng”
- GV hướng dẫn cho HS tổ
chức các hoạt động.
GV trình chiếu phóng sự
“Phía sau một bản án”

(Hình ảnh: Tiết SHL với chủ đề
“Đừng ân hận muộn màng”)

1. Phóng sự “Phía sau một bản án”
Nội dung của phóng sự nói về hình
thức xâm kích kiểu mới xảy ra gần

đây như xúc phạm, thoá mạ nhau trên
mạng xã hội của các em HS dẫn đến
các vụ đánh nhau trong trường học.
Sau đó, các cơ quan chức năng phải
vào cuộc để xử lí các vụ việc.
-

Hình ảnh trong đoạn phóng sự
- HS nhận thức được nguyên nhân
“Phía sau một bản án”
dẫn đến hành vi xâm kích là do cách
- Yêu cầu HS nhận diện vấn ứng xử tiêu cực của các bạn HS khi
đề được đề cập đến trong đoạn sử dụng mạng xã hội. Chính cách ứng
phóng sự trên.
xử ấy đã dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng trong môi trường học đường.
- HS chia sẻ kết quả làm việc cá nhân
trước lớp và dựa vào đó để dẫn dắt
vào bài học:

- Sau đó, GV nêu vấn đề bằng
cách sử dụng câu hỏi phát vấn:
“Em hãy chia sẻ về một tình
huống nguy hiểm mà em đã
từng gặp hoặc chứng kiến.
Tình huống đó diễn ra khi

“Như vậy, trong học tập và cuộc sống
đôi khi chúng ta phải đối mặt với
nhiều tình huống. Tuy nhiên, để giải

quyết nó một cách tích cực, hợp lí,
đúng đắn khơng phải là điều dễ dàng.
Vì thế, mỗi chúng ta cần phải rèn
luyện và trang bị cho mình những kỹ
năng cần thiết, trong đó một trong
những kỹ năng cơ bản và quan trọng
nhất là phân tích, xử lí với các tình
huống mình gặp phải. Bởi nếu chúng
16


nào? Em đã làm gì khi gặp
tình huống đó?”
Trị chơi đóng vai
- GV giao nhiệm vụ cho HS
- GV chia lớp thành 4 nhóm:

ta khơng biết phân tích và xử lí các
tình huống một cách đúng đắn, tích
cực thì có thể dẫn đến những hậu họa
khơn lường”.
2. Trị chơi đóng vai
- Nội dung :

+ Nhóm 1:
+ Nhóm 1: Đóng phân cảnh về
một HS thuộc giới tính thứ 3 Cảnh 1: Tuấn là một HS thuộc giới
bị định kiến, xâm kích dẫn đến tính thứ 3. Tuấn thường xuyên bị các
hậu quả nặng nề về tinh thần. bạn trong lớp trêu chọc, dùng lời lẽ
cay nghiệt và cịn lén chụp hình, chế

+ 3 nhóm cịn lại đóng các ảnh Tuấn đăng lên mạng xã hội. Sau
phân cảnh về các hướng phát đó, các bạn trong lớp, trong trường
triển của tính cách, số phận vào bình luận với những lời lẽ khiếm
của nhân vật. Gợi ý: nhóm 2 - nhã, thóa mạ…
HS đó bị định kiến, xâm kích
hạnh hạ cho đến mức tự tử; Cảnh 2: Ở lớp học, Tuấn rất tự ti,
nhóm 3 - HS đó trả thù bằng ngồi học thường ngồi một mình ở bàn
hành vi xâm kích; nhóm 3 - cuối, không chơi với ai và thường cúi
hướng giải quyết tích cực, tươi mặt xuống bàn.
sáng.
Cảnh 3: Kết thúc tình huống: chia lớp
thành 3 nhóm diễn:
+ Nhóm 2: Tuấn trốn tránh, cúp tiết,
cuối cùng đã bỏ học, không chịu được
áp lực, Tuấn cắt tay tự tử.
+ Nhóm 3: Tuấn rất tức giận khi bị
bạn bè trêu chọc, Tuấn hung hăng
đánh trả, chửi bới và lơi kéo các bạn
ngồi trường vào đánh bạn.
+ Nhóm 4: Tuấn vui vẻ, tự khẳng
định giá trị của bản thân mình, tích
cực tham gia các hoạt động tập thể và
tham gia các câu lạc bộ. Dần dần,
khơng ai cịn có định kiến, thiếu thiện
cảm về Tuấn nữa, mọi người nhận ra
tài năng, giá trị của Tuấn.
Đánh giá tình huống

3. Đánh giá tình huống


- Sau khi xem xong phần đóng - Nhận diện tình huống: Đây là tình
huống HS bị định kiến về giới tính.
vai, GV hướng dẫn HS cùng
17


thảo luận để phân tích và đánh - Đánh giá cách xử lý tình huống:
giá cách xử lí tình huống của Nhóm 2: Nạn nhân phản ứng và hành
các nhóm.
động tiêu cực dẫn đến hậu quả đau
lòng.
- HS cùng thảo luận và trình
bày ý kiến đánh giá vào phiếu Nhóm 3: Tuấn từ nạn nhân của định
học tập với hai nội dung:
kiến trở thành chủ thể của hành vi
xâm kích, giải quyết vấn đề bằng bạo
+ Nhận diện tình huống?
lực học đường gây tổn hại đến người
+ Đánh giá cách xử lí
khác.
tình huống?
Nhóm 4: sử dụng giải pháp tích cực
- Ghi nhận, tuyên dương sự
để ứng phó với định kiến, đây là giải
sáng tạo, khả năng đóng vai
pháp đúng đắn nhất để khẳng định giá
của HS ở tất cả 4 nhóm.
trị bản thân.
- GV chốt phần thảo luận của
=> GV đánh giá cách xử lí tình huống

HS.
của nhóm 4 là đúng đắn và tích cực.
Thực hành
4. Thực hành
- GV tổ chức cho HS hoạt
Các nhóm trình bày kết quả:
động nhóm thơng qua các
- Nhóm 1, 2:
mẫu chuyện mà GV đưa ra.
- HS theo dõi các tình huống, a) Những chi tiết trong câu chuyện
phân tích, thảo luận và đưa ra cho thấy H là nạn nhân của sự bắt nạt:
cách giải quyết các tình H mới bắt đầu vào lớp 10 và thường
xuyên bị bạn bè trêu chọc về giọng
huống.
nói vùng miền, cũng như bị chê bai
Nhóm 1, 2: Tình huống 1
cả cách ăn mặc và vẻ ngoài “hơi
“Chỉ mấy tuần sau khi H cùng lúa” của cậu. Nếu H phản đối thì
gia đình chuyển đến sống ở ngay lập tức H bị dọạ đánh và H đã
tỉnh mới thì H bắt đầu bị bắt bị đánh mấy lần.
nạt. Khi ấy, H mới bắt đầu
b) Khi bị bắt nạt, H cảm thấy sợ hãi,
vào lớp 10 và thường xuyên bị
chán nản, cơ độc, khơng cịn u bản
bạn bè trêu chọc về giọng nói
thân mình nữa "Tơi cảm thấy chẳng
vùng miền, cũng như bị chê
ai ưa tơi cả. Vì vậy tơi cũng không ưa
bai cả cách ăn mặc và vẻ
bản thân mình”.

ngồi “hơi lúa” của cậu. Nếu
H phản đối thì ngay lập tức H c) Nếu em là H, em sẽ tự tin, bình
bị dọạ đánh. H đã bị đánh tĩnh đối mặt, sau đó em sẽ tìm sự trợ
máy lần nên cậu cảm thầy sợ giúp từ GVCN để giải quyết vấn đề.
hãi, cô độc, chán nản và d) Theo em, các tình huống nguy
chểnh mảng học hành.
hiểm đến từ con người đó là những
“Tơi cảm thấy chẳng ai ưa tơi tình huống gây ra bởi các hành vi của
con người như trộm cắp, cướp giật,
18


cả. Vì vậy, tơi cũng khơng ưa bắt nạt, xâm hại người khác,...làm tổn
bản thân mình” - H kể lại. hại đến tính mạng, của cải vật chất,
Trải nghiệm của H cho thấy tinh thần của cá nhân và xã hội.
một sự thật đau lịng chỉ vì cái
nhìn định kiến mà H trở thành
nạn nhân của hành vi xâm
kích. Hành vi của những
người bắt nạt có thể rất nhẫn
tâm, đề lại nỗi ám ảnh cho
nạn nhân trong cuộc sống”.
a) Những chi tiết nào trong
câu chuyện cho thấy H là nạn
nhân của những kẻ bắt nạt?
b) Khi bị bắt nạt, H đã cảm
thấy như thế nào?

(Hình ảnh: HS thảo luận nhóm
về các tình huống)


c) Nếu em là H, em sẽ chọn
cách giải quyết vấn đề như
thế nào?
d) Theo em các tình huống
nguy hiểm đến từ con người là
gì?
- Nhóm 3, 4:
Nhóm 3, 4: Tình huống 2
a) Những chi tiết trong câu chuyện
“Chiến, HS lớp 10C13 hay cho thấy Dương là nạn nhân của sự
bắt nạt các bạn yếu thế hơn bắt nạt: “Dương phải làm bài và chép
mình, trong đó có Dương. bài tập cho Chiến, trong giờ kiểm tra
Gần đây, Dương phải thức Dương phải tìm cách cho Chiến nhìn
khuya hơn để vừa làm hết bài bài vì bị Chiến đe dọa. Vì thế, Dương
tập của mình, vừa chép bài cảm thấy lo lắng và sợ hãi”.
tập về nhà vào vở cho Chiến. b) Theo em, Dương không nên im
Trong các giờ kiểm tra, lặng và làm theo yêu cầu của Chiến.
Dương phải tìm cách cho Vì: nếu cứ thực hiện theo yêu cầu của
Chiến nhìn bài của mình. Cứ Chiến thì Dương càng bị bắt nạt hơn.
nghĩ đến sự đe dọa của Chiến, Bản thân Dương sẽ càng rơi vào trạng
Dương cảm thấy sợ hãi và lo thái căng thẳng, mệt mỏi và áp lực
lắng”.
ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và
a) Những chi tiết nào trong cuộc sống.
câu chuyện cho thấy Dương là c) Nếu là Dương em sẽ bình tĩnh đối
nạn nhân của sự bắt nạt?
đầu, phản đối và khơng làm theo u
b) Theo em, Dương có nên im cầu của Chiến. Nếu Chiến tiếp tục đe
lặng và làm theo yêu cầu của

19


Chiến khơng? vì sao?
c) Nếu là Dương em sẽ xử lí
tình huống này như thế nào?

dọa sẽ trình bày sự việc với GVCN để
giải quyết.

d) Thông điệp: rút ra thông điệp có ý
d) Hãy trình bày thơng điệp nghĩa.
để xây dựng“trường học an
toàn, lành mạnh”?

Sau khi tổ chức các hoạt động
(Hình ảnh: HS trình bày kết quả
để rèn các kĩ năng ứng phó với
định kiến và xâm kích, GV tổ
thảo luận nhóm)
chức HS tổng hợp lại những
bài học quan trong khi là nạn 5. Bài học
nhân của định kiến và xâm * Nhận thức được hậu quả nghiêm
kích.
trọng của những tình huống nguy
hiểm mà mình gặp phải trong học tập
- GV phát vấn bằng các câu
và cuộc sống, đặc biệt khi là nạn nhân
hỏi:
của những định kiến và hành vi xâm

+ Quan điểm của em về hậu kích học đường.
quả của định kiến, xâm kích
* Cách xử lí, ứng phó với các tình
học đường?
huống của định kiến và xâm kích:
+ Trình bày ngắn gọn các
- Nhận diện tình huống.
bước xử lí, ứng phó khi đối
mặt với định kiến và xâm kích - Bình tĩnh suy nghĩ.
học đường?
- Liệt kê các cách ứng phó.
+ Nêu trách nhiệm của bản - Chọn phương án ứng phó tích cực,
thân trong việc hạn chế và xóa hiệu quả.
bỏ hiện tượng định kiến và
* Trách nhiệm của bản thân trong
xâm kích trong trường học?
việc chung tay xóa bỏ định kiến, ngăn
- Sau khi HS trả lời, GV chốt chặn hành vi xâm kích vì một trường
lại vấn đề
học an toàn, lành mạnh.
20


4
Hoạt động 5: GV dặn dò và
phút kết thúc buổi sinh hoạt:
- Kết thúc buổi sinh hoạt bằng
một tiết mục văn nghệ.
- Dặn dò


- Cả lớp lắng nghe ca khúc “Niềm tin
chiến thắng”.
- Dặn dò:
+ Các em hãy viết những thơng điệp
trong buổi SH hơm nay vào nơi nào
đó các em thường xun nhìn thấy:
góc học tập, giường ngủ, nhật kí… để
làm hành trang cho mình.

3.1.4. Dự kiến kết quả
- HS biết cách phân tích và xử lý tình huống một cách thấu đáo, tích cực,
hợp lí giúp chiến thắng trước định kiến và đẩy lùi hành vi xâm kích.
3.2. Phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của tổ tư vấn tâm lí học
đường bằng hai mơ hình tham vấn mới
3.2.1. Mục đích
Giúp các thành viên trong tổ tư vấn tâm lí trường THPT .......hoạt động
hiệu quả hơn trong việc phát hiện sớm, giải đáp kịp thời những khó khăn về tâm lí
trong học tập và cuộc sống của các em HS.
-

3.2.2. Cách tiến hành
Theo Thông tư số 31/2017/TT- Bộ GD&ĐT ngày 18 tháng 12 năm 2017 về
hướng dẫn thực hiện cơng tác tư vấn tâm lí cho HS trong trường phổ thông, năm 2018
trường THPT .......đã thành lập tổ tư vấn để hỗ trợ HS gồm: Lãnh đạo nhà trường làm
tổ trưởng; thành viên là cán bộ, GV kiêm nhiệm công tác tư vấn tâm lý, HS, nhân viên
y tế trường học, cán bộ, GV phụ trách công tác Đoàn, Hội, đại diện cha mẹ HS. Cán
bộ, GV kiêm nhiệm công tác tư vấn cho HS của nhà trường là người có kinh nghiệm
và được tập huấn, bồi dưỡng về chun mơn, nghiệp vụ tư vấn tâm lí do Bộ Giáo dục
và Đào tạo tổ chức. Trong thành phần tổ tư vấn nhà trường, chúng tôi đã vinh dự được
nhà trường lựa chọn. Chúng tôi đã chủ động đăng kí tham vấn theo từng lĩnh vực phù

hợp với khả năng của từng thành viên. Cụ thể như sau:
*

TT

Họ và tên
Lê Khắc Thục (Hiệu trưởng)

1

Lương Văn Việt (PHT, tổ trưởng)
SĐT: 0943570054
Trần Thị Quyên (GV môn Văn)

Tham vấn lĩnh vực
Tham vấn giáo dục kỹ năng, biện
pháp ứng xử văn hóa, chống bạo
lực, xâm hại và xây dựng môi
trường giáo dục an toàn, lành
mạnh, thân thiện.

SĐT: 0911145113
Phạm Thị Thúy Vinh (PHT)

Tham vấn kỹ năng, phương pháp
21


2


Phạm Công Thành (GV: GDCD)
SĐT. 094337976
Nguyến Thị Thanh Tĩnh (PHT)

3

SĐT: 0949384666
Nguyễn Thùy Linh (HS lớp 11C1)
SĐT: 0857166547
Nguyễn Cảnh Hiếu (Bí thư đồn)

4

SDT: 0918184666
Lê Đình Hồng (Hội trưởng HPH)
SĐT: 0942798459
Hồng Thị Thảo (GV môn Văn)

học tập hiệu quả và định hướng
nghề nghiệp
Tham vấn tăng cường khả năng
ứng phó vấn đề phát sinh trong
mối quan hệ gia đình, thầy cơ, bạn
bè và các mối quan hệ xã hội
khác.
TVTL đối với HS gặp khó khăn
cần hỗ trợ, đưa HS đến các cơ sở,
chuyên gia điều trị tâm lý đối với
các trường hợp HS bị rối loạn tâm
lý nằm ngoài khả năng tư vấn của

nhà trường.

SĐT: 0399514345
Hoàng Thị Thảo (Nhân viên y tế)
5

SĐT: 0832150887
Hồ Thị Thanh Hương (Phó bí thư)

Tham vấn giới tính, hơn nhân, gia
đình, sức khỏe sinh sản vị thành
niên phù hợp với lứa tuổi.

SĐT: 0943879400
Bảng 2. Phân công nhiệm vụ thành viên tổ tham vấn tâm lí
Nguyên tắc làm việc của tổ tư vấn: Ân cần, nhẹ nhàng, thân thiện, cởi mở và
giữ gìn thơng tin bí mật cá nhân cho người được tham vấn.
* Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của tổ tư vấn tâm lý
học đường, ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã thử nghiệm hai mơ hình tham vấn
mới như sau:
- Mơ hình tham vấn qua phiếu đề nghị hoặc qua hịm phiếu “Điều em muốn
nói”:
Trước hết, chúng tơi tiến hành thiết kế mẫu phiếu đề nghị được tham vấn.
HS khi cần tham vấn có thể gián tiếp đề nghị tham vấn bằng cách điền các thông
tin vào phiếu đề nghị (Nội dung mẫu phiếu đề nghị được tham vấn ở phụ lục 2).
Bên cạnh đó, với những em HS có tâm lý e ngại, chúng tơi thiết kế hịm
phiếu “Điều em muốn nói”. Hàng tuần, thành viên trong tổ tư vấn sẽ lấy phiếu đề
nghị được tham vấn tại hộp thư. Sau đó, chúng tơi tiến hành đếm phiếu, phân loại
lĩnh vực tham vấn và mỗi thành viên trong tổ tư vấn sẽ chịu trách nhiệm tham vấn
lĩnh vực mà mình được phân cơng. Trong q trình tham vấn, chúng tơi khơng chỉ

làm việc độc lập mà cịn hỗ trợ nhau khi cần thiết. Song song với việc gặp riêng
HS hàng tuần, chúng tơi cùng với các thành viên khác cịn phối hợp với GVCN,
22


GV bộ môn và phụ huynh HS để thống nhất về cách thức, biện pháp hỗ trợ các em.
Việc hỗ trợ chỉ dừng lại khi kết quả lượng giá cho thấy HS đã tiến bộ. Ngay cả khi
đã kết thúc hỗ trợ, thành viên tổ tư vấn tâm lý vẫn giữ mối liên hệ với những HS
này để có thể hỗ trợ bất cứ lúc nào HS cần.

(Hình ảnh: Thành viên tổ tư vấn thu phiếu tại hộp thư và tham vấn cho HS)
- Mơ hình tham vấn online qua mạng xã hội facebook, zalo, messenger,
email…
Để kịp thời tham vấn cho các em khi gặp khó khăn về tâm lý mà các em cịn
e ngại hoặc chưa có điều kiện gặp trực tiếp thành viên tổ tư vấn, chúng tôi đã thành
lập các nhóm facebook, zalo hoặc email, nhóm chát. HS có thể gọi điện, nhắn tin,
email cho chúng tơi. Chúng tơi sẽ lắng nghe, giải thích những vướng mắc và đưa ra
cách giải quyết phù hợp cho các em. Hơn nữa, khi các em like, chia sẻ và tham gia
vào các diễn đàn trên mạng thì các thành viên trong tổ tư vấn sẽ nắm bắt được tâm
lý các em dễ dàng hơn. Và nếu em nào trong nhóm có những hình ảnh, status hoặc
bình luận tiêu cực thì chúng tơi sẽ kịp thời phân tích, chia sẻ, góp ý, hướng dẫn
cách giải quyết phù hợp để các em vượt qua những khó khăn trong học tập và cuộc
sống. Từ đó, giảm thiểu được các hành vi tiêu cực cũng như những hậu quả có thể
xảy ra đối với các em.
3.2.3. Hiệu quả dự kiến
Các thành viên tổ tư vấn và HS có thể tham gia vào hoạt động tham vấn mọi
lúc, mọi nơi mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, đồng thời tiết kiệm
được nhiều chi phí. Bên cạnh đó, những ý kiến góp ý hay, thiết thực sẽ được các
em chia sẻ cho các thành viên khác nên hiệu quả tham vấn qua các mơ hình này rất
cao.

3.3. Tổ chức Chương trình “Sống ước mơ và khát vọng”
3.3.1. Mục đích
Thơng qua câu chuyện cuộc đời của một diễn giả nổi tiếng sẽ là một nhân
chứng sống có sức thuyết phục nhất về bài học, cách ứng phó, vượt qua những
23


định kiến, xâm kích trong cuộc đời để thành cơng, sống ý nghĩa và cịn là để lan
tỏa những thơng điệp nhân văn tới mọi người. Giúp HS nhận thức được sống là
phải có ước mơ, khát vọng của chính mình để có được chí hướng phấn đấu. Đồng
thời, giúp các em nhận ra điều căn cốt để biến những khát vọng trở thành hiện thực
là phải biết nỗ lực, chăm chỉ, vượt khó, chiến thắng những nghịch cảnh của cuộc
đời và cả những định kiến, xâm kích tàn nhẫn mà bản thân phải đối mặt trên hành
trình nhân sinh. Đặc biệt đối với HS, cách để vươn tới khát vọng đó là học tập.
Chương trình sẽ trang bị những kĩ năng cơ bản để đạt kết quả tốt trong học tập.
Bên cạnh đó, cịn hướng HS biết trân trọng những giá trị đạo lí nhân bản như lịng
hiếu thảo, vị tha, nhân ái, sống biết cho đi.
3.3.2. Cách thực hiện
- Nhận thấy tầm quan trọng trong việc giáo dục kĩ năng sống cho HS và
mong muốn tận dụng nhiều hình thức giáo dục trong đó có ngoại khóa, nói chuyện
với chuyên gia, nhà trường đã phối hợp với hội phụ huynh mời diễn giả Đào Ngọc
Cường – một chuyên gia trong giáo dục đạo đức, nhân cách cho HS về nói chuyện
với GV, HS của nhà trường.
- Thời gian và địa điểm tổ chức: ngày 03/04/2021 tại sân khấu nhà B của
Trường THPT Tân Kỳ.
- Nội dung chương trình:
Phần 1: Diễn giả trao đổi 4 kĩ năng cần thiết để đạt được kết quả tốt trong
học tập là: trật tự, tập trung, tư thế và tự tin.
Thay vì trình bày một cách giáo điều những khái niệm về các kỹ năng học
tập thì diễn giả đã đưa ra các tình huống hành vi của HS trong giờ học theo nguyên

tắc đối lập với những kĩ năng cần hướng đến để các em nhận diện tên các kĩ năng
ấy, từ đó ghi nhớ và khắc sâu ngay trong buổi trao đổi. Bí quyết học tốt ấy gọi là
“4T’’. Ơng dẫn dắt bằng lời mô tả và bằng cử chỉ, hành động, rồi đặt câu hỏi để HS
xác định được từng bí quyết. Ví dụ, Ơng nói “Cơ giáo vào lớp giảng bài, cả lớp
nói chuyện ồn ào cơ có dạy được khơng? Vậy bí quyết thứ nhất là gì?”. Cả hội
trường, các em đồng thanh đáp “Trật tự”. Dẫn dắt tiếp theo “Học bài rất kĩ rồi, cô
giáo gọi lên bảng để hỏi bài cũ nhưng sợ hãi (minh họa bằng cử chỉ) có nên
khơng? Bí quyết thứ 2 là gì?”. HS cùng đáp “Tự tin’’… HS nhận diện nhanh, hào
hứng, tương tác tích cực và cũng nhớ nhanh tên các bí quyết học tập. Sau đó, diễn
giả đi vào phân tích vai trị của các bí quyết ấy trong việc quyết định thành công
của việc học tập. Sự trật tự của HS trong mỗi giờ học sẽ tạo không khí học tập
nghiêm túc, giúp HS tập trung vào nhiệm vụ học tập mà GV chuyển giao, lĩnh hội
kiến thức mới, đánh thức và hình thành những năng lực tương ứng với môn học.
Sự trật tự của HS cũng giúp GV dành hết thời gian cho hoạt động dạy, thăng hoa,
say mê trong giờ lên lớp. Như vậy, mỗi giờ học trôi qua sẽ rất hiệu quả và tạo được
hứng thú cho cả thầy và trò. Theo diễn giả, tập trung là bí mật vĩnh cửu của thành
cơng nói chung và học tập nói riêng. Tập trung là huy động mọi giác quan, trí lực
24


chuyên chú vào giờ học, vào sự hướng dẫn khám phá kiến thức của thầy cô. Học
tập bằng sự tập trung cao độ thì HS sẽ thu nhận được kiến thức mới và vận dụng
kiến thức trong các tình huống học tập. Tư thế rất quan trọng, khi ngồi học nên
ngồi thẳng lưng, chân tạo một góc vng và hướng sự chú ý vào GV. Tư thế ấy sẽ
kích hoạt năng lượng tránh cảm giác mệt mỏi, buồn ngủ. Tự tin là sức mạnh tinh
thần dựa trên những giá trị của bản thân giúp các em dám thể hiện, khẳng định
những suy nghĩ, hiểu biết, khả năng học tập trong giờ học, ở các cuộc thi và cả
trong cuộc sống.

(Hình ảnh: Buổi nói chuyện của diễn giả Đào Ngọc Cường với GV

và HS Trường THPT Tân Kỳ)
Phần 2: Diễn giả kể câu chuyện về chính cuộc đời của mình vượt lên
nghịch cảnh để đạt được ước mơ và thành công. Đặc biệt trong nghịch cảnh đã trải
qua của diễn giả có rất nhiều trường hợp thuộc loại định kiến, xâm kích. Diễn giả
đã dùng phương pháp nêu gương nhằm tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm,
và khao khát hành động của HS THPT.
Đào Ngọc Cường xuất thân trong một gia đình có hồn cảnh rất éo le, bất
hạnh: Cha nghiện rượu, thường xuyên đánh đập con cái; mẹ là người đàn bà điên;
chị gái mất khi lên 5; ngồi chị lớn đi lấy chồng sớm, thầy cịn 3 em nhỏ đang tuổi
ăn học; gia cảnh nghèo khó, túng quẫn; sống ở một ngôi làng nghèo ở vùng núi của
tỉnh Thanh Hóa; phải bỏ học nhiều lần vì khơng có tiền để đi học… Tuổi thơ gắn
liền với những kí ức đau buồn, thiếu đói dù ở nhà, ở trường hay cả lúc đi làm thuê
làm mướn đều phải đối mặt với định kiến và xâm kích về cả tinh thần lẫn thể xác.
Quãng thời gian đi học với những hồi ức được kể lại “Tôi luôn bị các bạn trêu
đùa, đánh bầm dập chỉ vì có ‘mẹ là một bà điên. Mỗi lần như vậy, tơi thu mình lại
và các bạn cứ đánh, tôi chẳng dám mách cô. Tuổi thơ của tôi là chuỗi ngày nghèo
khổ, ăn không đủ no, áo khơng đủ ấm, nơi gắn bó mỗi đêm là chiếc ghế băng dài
hơn 1m và rộng 20cm. Nhỏ cịn có thể duỗi chân, chứ lớn hơn chút tôi phải nằm
2
5


×