Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

phan tich chinh sach tien te cua viet nam tu 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.43 KB, 23 trang )


PHẦN I: Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đang tiến những bước vững chắc với việc cải cách kinh tế theo
hướng mở cửa. Điều đó được thực hiện trên tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước” và trên nguyên tắc “bình đẳng cùng có lợi”. Chủ trương đó sẽ giúp chúng
ta nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới, tham gia một cách ngày càng có
hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Quá trình đó diễn ra
cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các mối giao lưu thương mại giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới, để ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng
có lợi thì chúng ta không thể không đề cập đến vai trò điều tiết nền kinh tế của chính
phủ, một trong những công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô mà ta quan tâm ở đây là
chính sách tiền tệ.
Sức mạnh của nền kinh tế được thể hiện như thế nào trên thị trường cũng như trên
những mặt khác, một nền kinh tế mạnh phải là một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định và để đạt được điều đó thì chính sách tiền tệ đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc ổn định đồng tiền trong nước, ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức
mua, giảm lạm phát và thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Giai đoạn trước đây, chính sách tiền tệ của chính phủ chỉ đơn thuần là hoạt động
phát hành tiền của ngân hàng trung ương (NHTW), hiện nay cùng với sự lớn mạnh của
hệ thống ngân hàng thì các công cụ của chính sách tiền tệ được tăng cường nhiều hơn,
có tác động lớn hơn tới nền kinh tế và vai trò của nó ngày càng quan trọng hơn. Từ
thực tế đó, em đã chọn đề tài “trình bày và đánh giá chính sách tiền tệ của Việt Nam
từ năm 2008 đến nay ” để có thể hiểu rõ hơn về vai trò của chính sách tiền tệ đến nền
kinh tế Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong chuyên đề là phương pháp chuyên
gia, chuyên khảo.
Do thời gian làm chuyên đề và kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn
chế nên nội dung của chuyên đề không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được
sự giúp đỡ, góp ý của thầy để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
1
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


I. Cơ sở khoa học của chính sách nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận
a. Khái niệm chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân
hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì
ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính
sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp
hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc;
hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
b. Các công cụ của chính sách tiền tệ. Gồm có 6 công cụ sau:
• Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối
với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân
hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
• Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay)
của các Ngân hàng thương mại.
• Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua
bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá,
gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động
đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay
giảm khối lượng tiền tệ.
• Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện
chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm
bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là
1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương
chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên
thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
• Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các

tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương
buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
• Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động
mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ
giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình
2
trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất
nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không
làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính
sách tiền tệ.
Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn
định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.
c. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông
thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế
ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng
hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là
lượng cung tiền.
d. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ:
Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan mật
thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua các
thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất
cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của
NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là
chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành phần, kết cấu các mức
chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc
giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp

ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng
đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường
vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp
lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn
định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh
tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua
hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán
ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ
khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…
Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên,
bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế
lại như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn chứng minh
về vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây - chính phản ứng của thị trường đối với
những thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của
chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Những thông tin hàng ngày, hàng giờ về sự suy
giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ “đại dịch” về cho vay bất động sản ở
Mỹ là minh chứng rõ nhất cho thấy những tác động từ chính sách tiền tệ không chỉ
mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà còn có thể mang lại hiểm họa cho cả thế giới. Tình
3
hình kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang có những dấu hiệu bất ổn,
ngoài những nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì trong đó,
chính sách tiền tệ cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.
II. Trình bày và đánh giá chính sách tiền tệ
1. Đ>i v?i năm 2008:
Trong năm 2008, kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh tế
toàn cầu sụt giảm đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng cho vay bất động
sản dưới chuẩn của Mỹ. Các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái. Chính phủ
các nước phải thực thi các giải pháp cứu trợ kinh tế trị giá hàng nghìn tỷ đôla Mỹ và

liên tiếp cắt giảm lãi suất chủ đạo, bơm thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Tuy
nhiên, tác động của các giải pháp này còn chưa rõ ràng và khủng hoảng kinh tế toàn
cầu được dự báo sẽ còn tiếp diễn trong năm 2009 và sẽ có tác động mạnh tới các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều
thách thức. Trong những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh trong khi
thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu. Chính phủ đã kịp
thời triển khai 8 nhóm giải pháp lớn nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và
đảm bảo an sinh xã hội. Trong 6 tháng đầu năm, do biến động giá trên thị trường thế
giới, nhập siêu của Việt Nam đã tăng mạnh. Tính tới cuối tháng 6, nhập siêu đã lên tới
14,8 tỷ USD, đe dọa sự bền vững của cán cân thanh toán và gây áp lực lên tỷ giá
USD/VND. Tới cuối quý III/2008, các nhóm giải pháp của Chính phủ đã mang lại
những kết quả bước đầu với việc nhập siêu giảm, lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên,
sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tốc độ
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam và Chính phủ đã đề ra 5 nhóm giải pháp mới để chủ
động ngăn chặn đà suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, mức độ
tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc
biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Trong
năm 2008, luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại
tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực
tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế
thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao.
Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến khả quan,
trong các tháng cuối năm, tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính quốc tế lại khiến
cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm thanh khoản của các tổ
chức ở chính quốc.
Những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như
trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước. Tuy
nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các

Bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện
được các mục tiêu của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của hệ thống
ngân hàng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô, cụ thể là:
4
- NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra được
điều chỉnh linh hoạt. Trong thời điểm thị trường dư cầu, NHNN đã kịp thời bán ngoại
tệ can thiệp, hạ nhiệt thị trường. Trong thời điểm thị trường dư cung, NHNN mua
ngoại tệ vào ở mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu
kiềm chế nhập siêu.
- Trong hoạt động can thiệp, NHNN đã kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức
can thiệp. Bên cạnh can thiệp trực tiếp, lần đầu tiên NHNN áp dụng hình thức can
thiệp gián tiếp để ổn định tâm lý thị trường. Với sự phối hợp tốt giữa NHNN với các
ngân hàng thương mại (NHTM), hình thức can thiệp này đã nhanh chóng phát huy
hiệu quả, đưa thị trường bình ổn trở lại.
- NHNN đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công tác
tuyên truyền, củng cố lòng tin trong nhân dân và doanh nghiệp.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được phối hợp đồng bộ.
Lãi suất VND tăng trong khi lãi suất USD giảm đã tạo sự hấp dẫn cho tiền đồng, góp
phần ổn định tỷ giá.
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có
những thời điểm biến động đột biến, NHNN đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường,
thường xuyên giám sát, cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào và ra để có
chính sách điều hành tỷ giá thích hợp.
Đặc biệt, thời điểm giữa tháng 6, thị trường có nhiều biến động đột biến, NHNN
đã chủ động thực hiện các giải pháp kịp thời, đồng bộ, thực hiện từng bước các giải
pháp chính sách, tập trung vào giai đoạn cuối tháng 6. Cụ thể:
Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn cung cầu
thị trường;
Mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so với tỷ

giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố;
Tăng mạnh lãi suất cơ bản tập trung nguồn tiền đồng vào hệ thống ngân hàng,
kiềm chế lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá;
Công bố mức dự trữ ngoại hối Nhà nước, củng cố lòng tin thị trường;
Yêu cầu các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối nghiêm túc chấp
hành quy định về biên độ tỷ giá giữa VND và USD, thực hiện niêm yết và giao dịch
theo đúng quy định;
Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền
kinh tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa
bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thiết bị y tế, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các
ngân hàng có phục vụ nhu cầu trả nợ vay hoặc thanh toán L/C đến hạn, các nhu cầu
ngoại tệ hợp pháp của cá nhân và hỗ trợ trạng thái cho các NHTM;
5
Yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh hoạt động của các
đại lý, bàn đổi ngoại tệ bảo đảm thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành về quản
lý ngoại hối.
Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2%
lên 3% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố (Quyết định số
2635/QĐ-NHNN ngày 6/11/2008).
Với các biện pháp đồng bộ của NHNN, thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại. Có
thể nói trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam
đứng trước những khó khăn mà nhiều tổ chức quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài cho
rằng Việt Nam đã đứng bên bờ vực của khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế, việc
Việt Nam bình ổn được thị trường ngoại tệ, tỷ giá vẫn giữ tương đối ổn định đã nhận
được sự đánh giá cao của các tổ chức tài chính quốc tế, củng cố lòng tin của các nhà
đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước vào khả năng điều hành kinh tế vĩ mô
của Chính phủ.
Qua thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2008, có thể rút ra một số
bài học trong công tác điều hành tỷ giá như sau:
- Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế quốc

tế và mức độ tự do hoá các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của dòng vốn đầu
tư, đặc biệt là các dòng vốn đầu tư gián tiếp ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và
diễn biến tỷ giá. Do đó, việc giám sát và tiến tới kiểm soát có chọn lọc các luồng vốn
này là một yêu cầu hết sức cấp thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập siêu không được quản lý chặt chẽ và duy trì ở mức cao làm ảnh hưởng tới
cán cân thanh toán quốc tế và gây khó khăn cho công tác điều hành tỷ giá.
- Lạm phát tăng cao ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam,
trong khi đó, các công cụ kiềm chế lạm phát lại khiến cho việc duy trì tỷ giá để hỗ trợ
sức cạnh tranh đối mặt với những giới hạn nhất định. Vì vậy, trong bối cảnh lạm phát
tăng cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá là hết sức
cần thiết.
- Việc kiên trì mục tiêu điều hành tỷ giá linh hoạt trong ngắn hạn, tương đối ổn
định trong dài hạn là rất quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và khôi phục ổn định
kinh tế vĩ mô.
- Sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, ngành đóng vai trò rất quan trọng
và quyết định sự thành công của công tác điều hành tỷ giá. Trong năm 2008, NHNN
đã phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập
siêu và với Bộ Tài chính trong việc huy động các nguồn ngoại tệ để tăng dự trữ quốc
gia cũng như khả năng can thiệp thị trường.
- Với tính nhạy cảm của tỷ giá và trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập
kinh tế quốc tế, các luồng chu chuyển vốn gia tăng, công tác điều hành tỷ giá phải gắn
với việc bám sát mọi diễn biến của thị trường để có biện pháp kịp thời, phù hợp với
diễn biến thị trường.
6
- Sự phối hợp chặt chẽ với các NHTM đóng góp đáng kể vào hiệu quả công tác
điều hành tỷ giá do các NHTM có ảnh hưởng lớn trên thị trường là kênh truyền tải
nhanh, hiệu quả ý đồ can thiệp của NHNN đến thị trường.
- Công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố lòng tin của
người dân, doanh nghiệp, tăng cường hiệu quả điều hành chính sách.
Theo các chuyên gia kinh tế, dự báo tình hình kinh tế quốc tế trong năm 2009 sẽ

còn tiếp tục diễn biến phức tạp. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới diễn ra
trong năm 2008 và khó có thể khắc phục trong năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn. Bên cạnh đó, kiều hối cũng như luồng vốn đầu tư nước ngoài
cũng bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế thế giới. Tuy nhiên, NHNN đã phối hợp với
các Bộ, ngành phân tích, dự báo các kịch bản khác nhau của nền kinh tế, kể cả các
kịch bản xấu nhất. Kết quả cho thấy dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chính phủ đều có
khả năng cân đối nguồn ngoại tệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội với sự phối hợp
chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương, sự đồng thuận của doanh nghiệp và nhân
dân.
Thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về
những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm an sinh xã hội “để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh
xã hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở mức khoảng 6,5%”, trên cơ sở dự
báo tình hình kinh tế thế giới và trong nước năm 2009, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá
bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày 25/12/2008 lên
mức 16.989đ/USD. Mặt bằng tỷ giá mới sẽ góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập
siêu và đảm bảo sự bền vững của cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời hạn chế tâm lý
kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động xây dựng phương
án sản xuất kinh doanh ổn định. NHNN sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để giữ ổn
định mức tỷ giá này.
2. Đ>i v?i năm 2009:
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi
CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị
trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong
xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói
giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn
định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự
trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.

Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị
trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ
ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay
7
ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ
tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt
nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân
hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối
hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ
trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống;
điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.
Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu
được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp
nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với
Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết
yếu của nền kinh tế.
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối
hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết
giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt
động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi
ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các
doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai,
rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước
giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-
6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức

không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không
quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)
Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận
giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày
8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị
trường, giữ được thị trường ổn định.
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho
thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục
gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu
là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%. Cán cân
thương mại hàng hoá 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn
bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút
mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn
kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu do vậy dẫn đến thâm hụt cán
cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá. Thêm vào đó,
thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP
buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND. Trên thị
trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng
trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND
8
vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh. Sự
khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều
tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay ) gây áp lực
giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng,
gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền
đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của
giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá
công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá

từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm
biên độ tỷ giá. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở
xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết
cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt
hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực
hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù
hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế
đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại
hối.
3. Đ>i v?i năm 2010:
Có thể nói, những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất
nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự
ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục
tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%,
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định
kinh tế vĩ mô.
Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2010, Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đánh giá cao vai trò của CSTT trong ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và Thủ tướng chỉ đạo, năm 2010
ngành ngân hàng tiếp tục chỉ đạo CSTT linh hoạt, thận trọng tốt hơn để góp phần vào
việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế năm 2010.
Trong năm 2010, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu do Quốc hội, Chính phủ
đề ra và sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng, NHNN định hướng, mục tiêu và giải pháp
lớn về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng như sau: Tập trung hoàn
thiện thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trọng tâm là hoàn thiện 2 dự thảo Luật
NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng để trình Quốc hội khoá XII thông qua tại kỳ họp
thứ 7.
Đồng thời tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính
phủ; điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt theo nguyên tắc thị
trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát do Quốc hội đề ra

Bên cạnh đó, thực hiện ổn định thị trướng ngoại hối, thị trường vàng trong nước;
tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo tiền tệ và cán cân
9
thanh toán quốc tế; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; kiểm soát chặt chẽ nợ
quá hạn, đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nhìn nhận lại, những giải pháp điều hành CSTT năm 2009 sẽ có những tác động
tới thị trường 2010, đặc biệt do đặc thù "độ trễ" của chính sách đối với thị trường
thường kéo dài. Đồng thời, có những tác động từ vĩ mô khiến việc điều hành CSTT sẽ
còn có những khó khăn.
Mặt tích cực, những biện pháp giảm áp lực giảm giá VND, nâng cao kỷ luật thị
trường tiền tệ cùng với việc nâng tỷ giá công bố lên 5,4% tạo sự ổn định và thích ứng
hơn với thị trường. Thêm vào đó những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng,
hướng việc mở rộng tín dụng vào những lĩnh vực sản suất, nông nghiệp nông thôn sẽ
có tăng động tích cực đến tăng trưởng kinh tế năm 2010.
Song nhìn nhận những vấn đề căn nguyên của tình hình năm 2009, việc thực thi
CSTT năm 2010 sẽ tiếp tục vấp phải những khó khăn phát sinh từ những vấn đề mang
tính căn nguyên, đó là thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách kéo dài, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư thấp, nguy cơ lạm phát gia tăng và sự phục hồi chưa chắc chắn của
kinh tế thế giới.
Vì vậy, để giải quyết căn bản những khó khăn của CSTT, bên cạnh việc NHNN
tiếp tục thực thi CSTT linh hoạt, thận trọng, phối hợp động bộ các giải pháp tiền tệ và
công cụ CSTT, tạo môi trường tiền tệ thuận lợi cho hoạt động của các định chế tài
chính, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối, nhất là hoạt động kinh doanh vàng,
thì cần có sự phối hợp đồng bộ, tích cực của các chính sách kinh tế vĩ mô khác để giải
quyết tích cực giảm thâm hụt thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, giảm thâm hụt
ngân sách, thu hẹp sự chênh lệnh giữa tiết kiệm và đầu tư mà hiện đang có xu hướng
gia tăng và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư để giảm áp lực lạm phát.
Đây là những điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định bền vững kinh tế vĩ mô
và hiệu lực của chính sách tiền tệ.
4.Đối với năm 2011:

Đánh giá công tác điều hành chính sách tiền tệ năm 2011: các giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ trong năm đã phù hợp v?i chỉ đạo của Chính
phủ tại Nghị quyết 02/NQ-CP và Nghị quyết 11/NQ-CP, đạt được các mục
tiêu đề ra và góp phần quan trọng trong kiểm soát lạm phát, dần ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
Theo đó, lượng tiền cung ứng được điều hành chặt chẽ từ đầu năm, góp phần
kiểm soát tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp, góp
phần tập trung kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã
hội theo đúng chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP. Ước cả năm,
tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%, tín dụng tăng khoảng 12%, góp
phần kiềm chế lạm phát tăng chậm lại (từ tháng 8 đến nay, lạm phát tăng dưới
1%/tháng); đồng thời, góp phần tích cực giảm nhập siêu, cải thiện đáng kể cán
cân thanh toán quốc tế.
10
Tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, tăng ở mức thấp, nhưng cơ cấu tín dụng
chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, nông
nghiệp, nông thôn và xuất khẩu, giảm cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất.
Ước đến cuối năm, tín dụng tăng 12%, trong đó VND tăng 10,2%; tín dụng
ngoại tệ tăng 18,7%, nhưng từ tháng 8 đến nay tín dụng ngoại tệ đã có xu hướng
tăng chậm lại. Ước đến cuối năm, tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất tăng 18%
(trong đó, tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng 25%, tín dụng xuất khẩu tăng
58%); tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất giảm 20%, trong đó, dư nợ cho vay
để đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm 43%, dư nợ cho vay để đầu tư kinh
doanh bất động sản giảm 18,4%, dư nợ cho vay tiêu dùng giảm 23%.
Các mức lãi suất điều hành đã được điều chỉnh hợp lý hơn, phản ánh vai trò cho
vay cuối cùng của NHNN; từ tháng 9, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng
lên 15%/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng tăng lên 16%/năm; nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng linh hoạt hàng
ngày phù hợp với diễn biến vốn khả dụng của hệ thống và diễn biến lãi suất thị
trường liên ngân hàng, nhờ vậy, lãi suất liên ngân hàng ở mức cao trong 4 tháng

đầu năm nhưng từ tháng 5 đã giảm và ổn định, dần hình thành được mặt bằng lãi
suất hợp lý. Mặc dù trong tháng 10, lãi suất thị trường liên ngân hàng có áp lực
tăng nhưng với sự hỗ trợ kịp thời của NHNN trên nghiệp vụ thị trường mở và tái
cấp vốn đối với một số tổ chức tín dụng (TCTD) gặp khó khăn về thanh khoản,
đến nay đã ổn định trở lại; đến ngày 14/12/2011, lãi suất kỳ hạn qua đêm ở mức
14,0-14,5%/năm; 1 tuần: 15-16%/năm; 2 tuần 16-17%; 1 tháng 18-19%/năm.
Các mức lãi suất trên thị trường đã hợp lý hơn, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ
mô và chỉ đạo của Chính phủ: Trong 8 tháng đầu năm, lãi suất huy động và cho
vay VND ở mức cao, nhiều TCTD có lãi suất huy động thực tế trên 14%/năm.
Với việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm
trần lãi suất huy động và các giải pháp khơi thông vốn giữa thị trường 1 và thị
trường 2 đã tạo điều kiện giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay. Từ
tháng 9 đến nay, hầu hết các NHTM thực hiện nghiêm túc trần lãi suất huy
động. Nhiều NHTM đã giảm lãi suất cho vay VND đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn và xuất khẩu, phổ biến ở mức 15-17%/năm, giảm so với mức
phổ biến từ 18-21%/năm trước khi triển khai Hội nghị toàn ngành ngày 07/9;
một số trường hợp doanh nghiệp vay vốn nhằm khắc phục hậu quả bão lụt hoặc
doanh nghiệp xuất khẩu cam kết bán ngoại tệ cho TCTD được vay vốn với mức
lãi suất khoảng 13,5-14,5%/năm. Lãi suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác thấp nhất là 17%/năm (mức phổ biến là 18-21%/năm).
Thanh khoản VND toàn hệ thống về cơ bản được đảm bảo. Từ tháng 10, một số
TCTD có khó khăn thanh khoản cục bộ do huy động vốn trên thị trường 1
(huy động vốn từ dân cư và các tổ chức) giảm mạnh, huy động vốn trên thị
trường 2 (thị trường liên ngân hàng) chưa đủ bù đắp, nhưng đã được NHNN hỗ
trợ kịp thời thông qua tái cấp vốn, tăng cung trên nghiệp vụ thị trường mở.
11
Thanh khoản ngoại tệ ở mức thấp trong 7 tháng đầu năm, từ tháng 8 đã cải thiện
sau khi NHNN thực hiện một số biện pháp kiểm soát tín dụng bằng ngoại tệ.
Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, kết hợp với việc thu hẹp đối tượng
được vay ngoại tệ trong nước, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định

mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức và cá nhân tại
TCTD đã góp phần giảm tình trạng đô la hóa, tăng niềm tin vào đồng Việt Nam.
Các biện pháp nhằm bình ổn thị trường ngoại hối đã góp phần cải thiện thanh
khoản ngoại tệ, tái lập thế cân bằng trên thị trường ngoại hối cũng như thúc đẩy
xuất khẩu. Từ tháng 4 đến giữa tháng 8/2011, NHNN đã mua được khối lượng
ngoại tệ khá lớn để bổ sung cho Dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đến nay, thị trường
ngoại hối đã có một số chuyển biến tích cực, thị trường ngoại tệ tự do hầu như
không còn hoạt động công khai, các TCTD nhìn chung đã chấp hành các quy
định về mua bán ngoại tệ, tâm lý thị trường ổn định hơn, các nhu cầu ngoại tệ
cấp thiết đã được đảm bảo.
Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định giá vàng và thị trường
vàng trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong nước bám sát với giá vàng thế
giới; giới đầu cơ đã không còn khả năng thao túng thị trường; các ngân hàng đã
bắt đầu mua được vàng từ thị trường trong nước để bù đắp lại lượng vàng đã bán
ra, giảm bớt áp lực nhập khẩu vàng, tiết kiệm ngoại tệ và giảm bớt áp lực lên tỷ
giá.
Công tác thanh tra, giám sát về lãi suất và hoạt động huy động, cho vay của các
TCTD được thực hiện quyết liệt, lập lại kỷ cương thị trường; tạo ra sự phân hóa
giữa nhóm TCTD hoạt động lành mạnh, có hiệu quả với nhóm các TCTD hoạt
động kém hiệu quả. Diễn biến này là bài học quý giá cho các TCTD trong việc
cần chú trọng quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng, khuyến khích các ngân
hàng tự nguyện liên kết, hợp nhất, sáp nhập để tăng cường sức cạnh tranh, qua
đó góp phần từng bước lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và tiến tới cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng trong tương lai.
5.Đ>i v?i năm 2012:
Nhìn lại diễn biến kinh tế vĩ mô và điều hành chính sách tiền tệ cho thấy,
năm 2012, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, thương mại và
tăng trưởng toàn cầu phục hồi chậm, ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế
đối ngoại của Việt Nam. Trong nước, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều thách
thức như cầu nội địa giảm mạnh, lượng hàng tồn kho lớn, hoạt động sản xuất

kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai nhiều
biện pháp chính sách quyết liệt và chủ động trong điều hành hoạt động ngân
hàng.
12
Đầu tiên phải kể đến là chính sách lãi suất. Trong năm 2012, NHNN đã
liên tiếp thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm 4 lần đối với lãi suất
tái cấp vốn từ 15% xuống 10%, lãi suất chiết khấu từ 13% xuống 8%. Lãi suất
trên thị trường mở giảm 6 lần. Điều chỉnh giảm 4 lần trần lãi suất tiền gửi tối đa
bằng VNĐ, từ 14%/năm xuống 9%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng đến
12 tháng; từ 6%/năm xuống 2% năm đối với tiền gửi không kỳ hạn. Đồng thời,
áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với bốn lĩnh vực ưu tiên
(nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành công
nghiệp hỗ trợ), lãi suất điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 13%. Riêng đối với
tiền gửi trên 12 tháng, NHNN cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định trên cơ
sở quan hệ cung cầu. Nhờ đó, đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô. Bởi, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, ngoài nguyên nhân sâu xa từ
những bất cập của nền kinh tế như năng suất lao động thấp, chất lượng đầu tư
kém hiệu quả, giá cả thế giới và yếu tố kỳ vọng lạm phát thì yếu tố tăng trưởng
tiền tệ cao, tín dụng tăng cao trong nhiều năm qua cũng là một trong những tác
nhân gây ra lạm phát. Thậm chí, tín dụng tăng cao cũng là một trong những
nhân tố gây ra sự thiếu thanh khoản của thị trường và là yếu tố tiềm ẩn phát sinh
những bất ổn của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, đánh giá thực trạng của hệ thống ngân hàng cho thấy, mặc dù
các sản phẩm dịch vụ khác đã phát triển tương đối đa dạng, song, doanh thu hoạt
động của các ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng, do vậy, để có
lợi nhuận, không ít các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại
nhỏ mới thành lập, đã đẩy mạnh việc cho vay vượt cả năng lực tài chính và khả
năng quản trị Như vậy càng khẳng định rằng, việc thực hiện biện pháp hạn
mức tín dụng của NHNN là rất cần thiết và phù hợp.
Trong năm 2012, hạn mức tín dụng được NHNN xác định phù hợp với

năng lực, quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng, theo đó, hạn mức tín dụng
được chia thành bốn nhóm, tương ứng với các mức: 17%, 15%, 8% và 0%; quy
định tỷ trọng dư nợ tín dụng cho lĩnh vực không khuyến khích 16%; đồng thời
áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ việc thực hiện của các tổ chức tín dụng.
Giải pháp này đã được NHNN thực hiện quyết liệt từ những tháng cuối năm
2011 và tiếp tục triển khai trong năm 2012, tạo ra những tác động tích cực đến
thị trường, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, thanh khoản thị trường cũng đã
được cải thiện, góp phần hạ thấp mặt bằng lãi suất.
Bên cạnh việc thực hiện hạn mức tín dụng, trong năm 2012, NHNN cũng
đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho người dân và doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, như: chỉ đạo các
tổ chức tín dụng tiết kiệm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ
đạo của Chính phủ.
13
Để khuyến khích chuyển dịch nguồn vốn vào lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, NHNN đã áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn đối với các tổ chức
tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn, và có chính sách tín dụng
chỉ đạo các tổ chức tín dụng trong việc cho vay đối với các hộ gia định, trang
trại, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất chăn nuôi, nuôi cá tra, chế biến cá tra
xuất khẩu (theo chỉ đạo của Chính phủ tại văn bản 1149/TTg-KTN ngày
20/8/2012), hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Theo
đó, các tổ chức tín dụng được phép giãn nợ tối đa 24 tháng, hạ lãi suất đối với
các khoản vốn đã cho vay, tiếp tục cho vay mới với lãi suất thấp hơn thị trường
(11%/năm), cho vay vốn để đầu tư máy móc giảm tổn thất sau thu hoạch đối với
các đối tượng trên; yêu cầu các ngân hàng thương mại chủ động rà soát, đánh
giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn; thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
đối với khách hàng vay vốn; thực hiện phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn nợ (Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 24/4/2012); xem xét cho vay
mới đối với các nhu cầu vay có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ; thực hiện tiết

kiệm, giảm chi phí để có thể hạ thấp lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, kể cả
đối với những khoản vay đã ký hợp đồng trước đó, và xem xét miễn trả lãi đối
với những khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính theo
quy định của NHNN .
Các biện pháp chính sách này thực tế đã đi vào cuộc sống, với chưa đầy
một tháng, hầu hết các ngân hàng thương mại đã đồng loạt hạ lãi suất. Đến cuối
tháng 10/2012, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong lĩnh vực sản xuất đã
có sự giảm mạnh so với đầu năm (huy động tối đa là 9%, lãi suất cho vay lĩnh
vực ưu tiên ở mức 9% - 13%, các lĩnh vực sản xuất khác 12% - 15%).
Đối với ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay tương đối ổn định, lãi suất
huy động phổ biến ở mức 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5 - 1%/năm
đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế, lãi suất cho vay phổ biến ở mức từ 5,3% -
7,5%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay bằng VNĐ giảm mạnh từ 4 - 5% so
với thời điểm cuối năm 2011. Cùng đó, mức tăng trưởng tín dụng trong ba quý
cuối năm đã được cải thiện hơn so với quý I và tăng trưởng tín dụng hàng tháng
đều đạt giá trị dương.
Điểm đáng lưu ý nữa trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2012 phải kể
tới đó chính là sự chủ động cao của NHNN trong quá trình thực hiện các mục
tiêu của chính sách tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá trong quá trình
điều hành có sự kết hợp với chính sách quản lý ngoại hối đã góp phần ổn định tỷ
giá, tăng lòng tin vào đồng Việt Nam, từng bước thực hiện chủ trương giảm dần
tình trạng đô la hóa. Cán cân thanh toán thặng dư sau nhiều năm thâm hụt, thanh
khoản của VNĐ và USD trong toàn hệ thống được đảm bảo và cải thiện, trật tự
kỷ cương thị trường được tăng cường; phần lớn các tổ chức tín dụng đáp ứng
được tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn.
14
Ngoài ra, NHNN đã thực hiện tái cơ cấu mạnh mẽ các ngân hàng thương
mại yếu kém, thực hiện các biện pháp ổn định thị trường vàng, thu hẹp đối
tượng cho vay bằng ngoại tệ. Đồng thời, NHNN cũng đã thiết lập được “cửa sổ”
của thị trường tiền tệ, đây có thể nói là một thành công lớn để NHNN nắm bắt

được thông tin thị trường một cách kịp thời phục vụ cho việc điều hành chính
sách tiền tệ. Qua cửa sổ này, NHNN đã theo dõi rất sát những biến động về lãi
suất, các giao dịch hàng ngày trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, từ đó kịp
thời đưa ra các biện pháp can thiệp, điều tiết những biến động bất thường của thị
trường.
Tuy nhiên, sự phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô trong năm 2012 đôi lúc
còn thiếu đồng bộ. Do đó, diễn biến của thị trường cuối năm 2012 vẫn nổi nên
một số vấn đề cần tiếp tục xử lý: áp lực về thanh khoản vẫn còn, lãi suất trên thị
trường có xu hướng biến động do áp lực lạm phát vẫn còn cao, các giao dịch
trên thị trường chưa thực sự thông suốt, các ngân hàng thương mại là thành viên
chính của thị trường có sự phát triển chưa đồng đều, nhiều ngân hàng thương
mại nhỏ đang phải đối mặt với tình hình thanh khoản khó khăn, nợ xấu gia
tăng
6.Đ>i v?i năm 2013:
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và trên cơ sở mục tiêu,
nhiệm vụ ngành Ngân hàng đã đề ra từ đầu năm, NHNN đã tổ chức triển
khai quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp điều hành chính sách
tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2013.
1.1. Điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ
Điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp giữa điều hành theo
lãi suất và điều hành lượng tiền cung ứng nhằm kiểm soát các chỉ tiêu tiền tệ,
vừa góp phần ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo thanh khoản của các
TCTD, vừa góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô: Lãi suất và
nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng chủ yếu, điều chỉnh linh hoạt, kịp thời
theo cả hai chiều mua, bán kết hợp với phát hành tín phiếu NHNN để kiểm soát
các chỉ tiêu tiền tệ theo mục tiêu lạm phát, hỗ trợ thanh khoản, giảm mặt bằng
lãi suất, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối trong điều kiện NHNN thực hiện
mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, đấu thầu tăng nguồn cung vàng
cho nền kinh tế và thực hiện tất toán huy động vàng. Chỉ tiêu tổng phương tiện
thanh toán tiếp tục tăng ở mức phù hợp với mục tiêu định hướng 14-16% đặt ra

từ đầu năm, đến ngày 12/12/2013, tăng 14,64% so với cuối năm 2012; huy động
vốn tăng 15,61%, trong đó bằng ngoại tệ tăng 13,7%, bằng VND tăng khá cao
15,93% so với cuối năm 2012.
1.2. Điều hành lãi suất
15
Điều hành lãi suất theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường và bám sát diễn biến
kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất, góp phần tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý: Trong
năm 2013, NHNN giảm 2%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên; giảm
1%/năm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi bằng VND, từ cuối tháng 6 cho
phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Với các giải pháp trên kết hợp với điều hành linh hoạt cung ứng tiền, mặt bằng
lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm (trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006)
nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Thanh khoản VND của hệ thống các TCTD được giữ vững và tiếp tục cải thiện,
đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống. Tính kỷ luật thị trường
được tăng cường, đường cong lãi suất đã dần được hình thành, theo đó kỳ hạn
ngắn có lãi suất thấp, kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn.
1.3. Triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường:
a. Điều hành tín dụng linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn
hoạt động của TCTD. Kiểm soát chặt hoạt động cho vay bằng ngoại tệ phù hợp
với chủ trương của Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
b. Chỉ đạo tháo gỡ khó khăn trong quan hệ vay vốn giữa doanh nghiệp với
TCTD, như: Xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho các khách hàng vay được tiếp cận vay mới, thực hiện miễn, giảm lãi vốn
vay, ưu tiên thu nợ gốc trước, thu nợ lãi sau
c. Phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày
15/5/2013 quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của

Chính phủ, góp phần giải quyết tồn kho cho thị trường vật liệu xây dựng và thị
trường bất động sản.
d. Chỉ đạo các TCTD thực hiện các chương trình: Cho vay thu mua, tạm trữ thóc
gạo; cho vay đối với chăn nuôi và thủy sản; thực hiện chính sách hỗ trợ giảm tổn
thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Trình Thủ tướng Chính phủ cơ
chế hỗ trợ vốn dài hạn để tái canh cà phê trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Thực hiện các biện pháp hỗ trợ những địa phương ở miền Trung bị ảnh hưởng
bão lụt.
đ. Chỉ đạo các TCTD nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh, tiết kiệm chi phí áp
dụng lãi suất cho vay mới ở mức hợp lý, xem xét tiếp tục điều chỉnh giảm lãi
suất cho vay cũ về mức dưới 13%/năm trên cơ sở khả năng tài chính để chia sẻ
khó khăn với nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng tuy thấp hơn chỉ tiêu định hướng 12% nhưng nhiều khả
năng tăng cao hơn mức tăng của năm 2012 và chất lượng tín dụng, hiệu quả tín
16
dụng đối với nền kinh tế cũng được cải thiện rõ rệt; đến ngày 12/12/2013, tín
dụng toàn hệ thống các TCTD đối với nền kinh tế đã tăng 8,83% so với cuối
năm 2012. Cơ cấu tín dụng được tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
nhất là với các lĩnh vực ưu tiên; cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích
giảm dần cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Đến cuối tháng 11/2013, tín dụng đối
với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng khoảng 17%, doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao tăng 24,51%, xuất khẩu tăng 3,32%, công nghiệp hỗ trợ tăng
10,84% so với cuối năm 2012.
1.4. Điều hành thị trường ngoại h>i và tỷ giá linh hoạt, kết hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất, góp phần nâng cao
lòng tin vào đồng Việt Nam, giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế:
Ngay từ đầu năm, NHNN đã đề ra mục tiêu ổn định tỷ giá với biên độ tăng
không quá 2-3% trong năm 2013 nhằm kiểm soát kỳ vọng về sự mất giá của
đồng Việt Nam. Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến cung cầu ngoại tệ, NHNN đã
điều hành linh hoạt tỷ giá và hoạt động mua bán ngoại tệ nhằm ổn định thị

trường và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước thông qua: (i) Điều chỉnh tăng 1% tỷ
giá bình quân liên ngân lên mức 21.036 VND/USD từ ngày 28/6/2013, đồng
thời điều chỉnh giảm trần lãi suất tiền gửi USD, phù hợp với diễn biến cung cầu
ngoại tệ, tiếp tục khuyến khích người dân nắm giữ VND, giảm nắm giữ ngoại tệ;
(ii) Điều hành linh hoạt tỷ giá USD mua vào của NHNN theo hướng khuyến
khích các TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và
điều chỉnh linh hoạt tỷ giá bán ra để can thiệp thị trường phù hợp với mục tiêu
ổn định thị trường; (iii) Kết hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ để
điều hòa lượng tiền VND cung ứng khi mua ngoại tệ để tránh áp lực lên lạm
phát và phù hợp với định hướng điều hành tỷ giá, đồng thời góp phần hỗ trợ
thanh khoản và giảm mặt bằng lãi suất cho vay VND; (iv) Theo dõi sát diễn biến
và thực hiện các biện pháp điều hành cần thiết khi thị trường có biến động bất
thường (v) Phối hợp các ngành liên quan tăng cường công tác quản lý và thanh
tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, thanh khoản ngoại tệ của hệ thống cải
thiện. Có thời điểm tỷ giá có áp lực tăng nhưng chủ yếu do yếu tố tâm lý, sau
khi NHNN thực hiện đồng bộ các biện pháp thì tỷ giá đã ổn định trở lại. Tâm lý
găm giữ ngoại tệ được đẩy lùi một bước, hoạt động của thị trường tự do bị thu
hẹp, tình trạng đô la hóa giảm, lòng tin vào đồng Việt Nam được nâng cao. Tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán tiếp tục giảm, còn khoảng 12%
(cuối năm 2011 là 15,8%, cuối năm 2012 là 12,36%), dự trữ ngoại hối Nhà nước
tăng gấp hơn hai lần so với cuối năm 2011.
17
1.5. Quyết liệt triển khai các giải pháp đồng bộ về quản lý thị trường vàng
trên cơ sở khuôn khổ pháp lý m?i mà nòng c>t là Nghị định 24/2012/NĐ-CP
ngày 03/4/2012 của Chính phủ:
(i) Chỉ đạo TCTD thực hiện tất toán toàn bộ số dư huy động vốn bằng vàng đến
hạn phải chi trả từ đầu tháng 7/2013, giảm dần số dư cho vay vốn bằng vàng,
qua đó đã loại bỏ toàn bộ rủi ro liên quan đến vàng và chấm dứt tình trạng ”vàng
hóa” trong hoạt động của TCTD (ii) Tăng cường công tác thanh tra, giám sát

chặt chẽ hoạt động của các TCTD, doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng. (iii)
Can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua đấu thầu vàng. (iv) Tổ chức sản
xuất vàng miếng SJC nhằm đáp ứng nhu cầu vàng miếng cho thị trường. (v)
Thiết lập một mạng lưới mua, bán vàng miếng mới, có tổ chức, quản lý chặt chẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận mua, bán vàng.
Sau hơn một năm rưỡi triển khai khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường
vàng, thị trường vàng đã dần ổn định, quyền sở hữu, tích trữ, mua, bán vàng
miếng hợp pháp của người dân được bảo vệ; thị trường vàng miếng đã được sắp
xếp lại một cách cơ bản; sự mất cân đối về cung cầu vàng miếng trong nước đã
được thu hẹp đáng kể, từ đó đã ngăn chặn được ảnh hưởng của biến động giá
vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Vai trò quản lý Nhà nước đối
với thị trường vàng đã được nâng cao, từng bước đẩy lùi tình trạng “vàng hóa”
trong nền kinh tế; trật tự, kỷ cương trên thị trường đã được xác lập, tạo tiền đề
phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của người dân; tình trạng đầu cơ, nhập lậu vàng đã
được kiểm soát; vàng miếng không được sử dụng làm phương tiện thanh toán,
tạo tiền đề tiến tới huy động nguồn lực vàng trong dân phục vụ phát triển kinh tế
xã hội.
Hoạt động can thiệp thị trường vàng của NHNN không vì mục tiêu lợi nhuận mà
chỉ nhằm điều tiết và quản lý nhà nước đối với thị trường. Lượng tiền thu về từ
hoạt động đấu thấu vàng được cân đối với các công cụ chính sách tiền tệ để mua
ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều hòa lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu đề ra. Lợi nhuận thu được từ hoạt động đấu thấu vàng đã hỗ trợ cho
ngân sách nhà nước phục vụ cho chi tiêu phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện
nguồn thu ngân sách nhà nước năm 2013 gặp nhiều khó khăn.
1.6. Đề án “Cơ cấu lại hệ th>ng các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”
được triển khai theo đúng lộ trình đề ra và đạt được những kết quả quan
trọng:
Sau gần 2 năm triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các biện pháp cơ cấu lại
hệ thống các tổ chức tín dụng, ngành Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua thời kỳ
khó khăn nhất, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ theo đúng lộ trình, kế hoạch đặt ra

của Đề án, thể hiện trên một số kết quả quan trọng và cơ bản sau:
18
Một là, Tái cơ cấu được thực hiện đồng bộ trên tất cả các mặt về cơ chế, chính
sách, tài chính, quản trị, hoạt động đối với tất cả các nhóm TCTD cả trong nước
và nước ngoài. Việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD đã và đang diễn ra
khá mạnh mẽ, chủ yếu thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Đến nay, số lượng
TCTD giảm đi 6 tổ chức thông qua sáp nhập, hợp nhất, giải thể; NHNN đã thu
hồi giấy phép 02 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, chuyển đổi hình thức 03 chi
nhánh, chuyển đổi QTDND Trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã.
Hai là, an toàn của hệ thống TCTD được bảo đảm, nguy cơ gây đổ vỡ, mất an
toàn hệ thống đã được giảm dần, khả năng chi trả của các TCTD được cải thiện,
tài sản của Nhà nước và tiền gửi của nhân dân được an toàn, chi trả đầy đủ, kịp
thời, kể cả ở một số NHTM cổ phần yếu kém phải cơ cấu lại.
Ba là, từng bước lành mạnh hóa tài chính, trọng tâm là tăng vốn điều lệ và xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Hệ thống Ngân hàng đã tích cực thực hiện các giải pháp đồng bộ để kiềm chế nợ
xấu gia tăng và xử lý nợ xấu như: triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu; cơ
cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất; kiểm
soát và tiết giảm chi phí hoạt động kể cả chi lương, thưởng và cổ tức để tăng khả
năng trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro; thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng và tích cực bán nợ xấu cho VAMC. Nhờ đó,
nợ xấu của các TCTD đã từng bước được xử lý, chất lượng hoạt động của các
TCTD được nâng lên.
Trong năm 2012 và 10 tháng đầu năm 2013, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng
các TCTD vẫn tích cực trích lập dự phòng rủi ro để tạo nguồn xử lý nợ xấu và
đã chủ động xử lý một khối lượng lớn nợ xấu bằng nguồn dự phòng: Tổng số nợ
xấu đã được xử lý và đưa ra theo dõi ngoại bảng trong năm 2012 và 10 tháng
đầu năm 2013 là 105,9 nghìn tỷ đồng. Các TCTD tích cực giảm lãi suất cho vay
và cơ cấu lại thời hạn trả nợ phù hợp với điều kiện thị trường và hoàn cảnh của
khách hàng vay. Đến cuối tháng 10/2013, tổng số dư các khoản nợ được cơ cấu

lại và giữ nguyên nhóm nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN là 316,8 nghìn tỷ
đồng. Điều này góp phần quan trọng hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục tiếp cận vay
vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý, đồng thời giảm bớt gánh nặng trả lãi phạt do
nợ quá hạn.
Đến ngày 16/12/2013, Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt
Nam (VAMC) đã mua được gần 28.170 tỷ đồng dư nợ gốc, 22.863 tỷ đồng giá
mua của 26 tổ chức tín dụng; dự kiến đến cuối năm 2013 mua được khoảng 30-
35 nghìn tỷ đồng nợ xấu.
Trong năm 2013, ta phải tái cơ cấu ngành ngân hàng, đầu tư công và doanh
nghiệp nhà nước; đồng thời gỡ 4 vấn đề của nền kinh tế là: nợ xấu, bất động
19
sản, niềm tin của người dân và hàng tồn kho. Trong đó, CSTT phải tham gia
trực tiếp vào cả bốn vấn đề trên, từ niềm tin đến tồn kho rồi đến nợ xấu.
Cái quan trọng nhất CSTT đã đạt được mục tiêu rất lớn, đúng theo chức
năng của nó, các công cụ ta dùng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Đây là một
sự khác biệt, ta quản trị lạm phát theo mục tiêu, độ linh hoạt cao, chủ động
trong kiểm soát tình hình chứ không chạy theo bị động.
Việc điều hành thành công CSTT là do NHNN đã triển khai quyết liệt, chủ
động trong kiểm soát với độ linh hoạt cao. Ngoài tác động CSTT còn có tác
động của chính sách tài khóa, chính sách đầu tư chứ không phải CSTT là
duy nhất, nhưng theo cách nhìn của chuyên gia thì CSTT của NHNN trong
thời gian qua là rất thành công và đáng ghi nhận.
20
PHẦN III: KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các
công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng
thời điểm cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc
áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong

những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trưởng kinh tế. Tuy
vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bước sang một
giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa
vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do
nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc
hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ
thống NHTM và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau.

21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng Việt Nam, quá trình xây dựng và
phát triển” NXB CTQ6-H 1996
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Báo cáo thường niên” các năm 1993, 1994,
1995, 1996, 1997, 1998, 1999, “Báo cáo diễn biến khu vực tiền tệ” năm 2000.
3. “Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam” NXB CTQG, H 1998
4. Th.S Tô Kim Ngọc: “ Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành
CSTT ở Việt Nam” TC Ngân hàng số 1+2/2000.
5. Th.S Nguyễn Thị Thuý Vân: “ Hoàn thiện các công cụ điều hành CSTT ở Việt
Nam hiện nay” TC Ngân hàng số 12/1999.
6. TS. Vũ Viết Ngoạn “Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức đối với CSTT của Việt
Nam” TC Ngân hàng số 2/1999.
7. PGS.PTS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân “Vấn đề dự trữ tiền mặt trong hoạt động
ngân hàng hiện đại” TC Ngân hàng số 8/1998
8. PTS Nguyễn Võ Ngoạn: “Hạn mức tín dụng và lãi suất tín dụng trong hệ thống

công cụ của CSTT quốc gia” TC Ngân hàng số 7/1997.
9. PTS Phạm Ngọc Long: “Hoàn thiện CSTT với việc kiềm chế lạm phát và tăng
trưởng kinh tế” TC Ngân hàng số 6/1997.
22

×