Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
1
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu: ....................................................................................................2
I, Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất :....................................................4
1.Khái niệm : ..................................................................................................4
2.Tình hình lãi suất các ngân hàng :................................................................4
3.Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất :....................................................6
II,Ảnh hưởng và hệ lụy tới các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế: .............9
1.Ngân hàng thương mại bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất:........9
2.Cung tiền Đồng sẽ còn giảm:.......................................................................10
3.Dự báo những tác động của việc lãi suất tiền Đồng tăng cao:.......................12
III,Can thiệp của chinh phủ và ngân hàng Nhà nước:......................................14
Kết luận: ........................................................................................................26
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
2
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết thì trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có
những bước tiến nhảy vọt, chiến lược phát triển kinh tế đã từng bước đạt được
những kết quả cao và đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Sau sự kiện mọc lên như nấm của các hợp tác xã tín dụng vào những năm
cuối cùng của thập niên 1980, chưa bao giờ chúng ta được chứng kiến sự ra đời
nhiều đến như vậy của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng trong thời gian vừa
qua.
Khi mạng lưới được mở rộng, các chi nhánh được thành lập, việc đầu tiên
các ngân hàng phải làm là tìm cách tăng trưởng nguồn vốn huy động, tăng
trưởng tổng tài sản. Quy mô của ngân hàng, của chi nhánh càng lớn khi số vốn
huy động được càng nhiều và tổng tài sản càng lớn. Chính điều này đã dẫn đến
tình trạng trong thời gian qua cho dù đang thừa vốn nhưng không ngân hàng
nào dám hạ lãi suất vì nếu làm như vậy, với kỳ hạn huy động chủ yếu vẫn là 3-6
tháng như hiện nay, chỉ sau một vài quý nguồn vốn sẽ chảy sang các ngân hàng
khác. Đây là điều mà không một người điều hành ngân hàng, chi nhánh ngân
hàng nào muốn.
Việc lãi suất không hạ mà còn có xu hướng gia tăng bất kể vốn huy động
được sử dụng nhiều hay ít sẽ tạo ra những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho các ngân
hàng vì theo thời gian, lãi suất cho vay phải cao mà điều này đồng nghĩa với rủi
ro sẽ cao hơn. Khi lãi suất tăng đến mức độ nào đó thì chỉ còn toàn những dự án
hết sức rủi ro mới có thể vay vốn. Thêm vào đó, để bù đắp cho chi phí huy động
vốn, đồng thời lợi dụng những sự rắc rối trong các cách tính lãi suất mà không
phải ai cũng có thể hiểu được nên một số ngân hàng đã đưa ra các phương thức
cho vay với lãi suất trên bề mặt chỉ vào khoảng 10%-12% một năm, nhưng lãi
suất thực mà người vay phải trả cao gấp hai lần con số này.
Biến động lãi suất huy động VND đã gây xáo trộn nhất định trên thị trường
ngân hàng.
Đề cập tới chủ đề lãi suất, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam ngày 12/6 có bài
viết: “ Sau những phản ứng đầu tiên của ngày 11/6, ngày kế tiếp, 41 ngân hàng
thương mại trong nước đã có các biểu lãi suất huy động VND mới. Mốc
17%/năm nhanh chóng bị vượt qua, đến 18%/năm và hiện một số thành viên đã
có đỉnh mới tới 18,5%/năm, tiêu biểu như của Ngân hàng Ngoài quốc doanh
(VPBank)...”
Trước những mức lãi suất khác nhau, dòng tiền gửi trên thị trường đã có
những xáo trộn nhất định.
Tuy nhiên sau đó nhiều ngân hàng lại đồng loạt thông báo giảm lãi suất cho
vay và sẵn sàng nguồn vốn tiếp sức cho doanh nghiệp.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
3
Chính bởi sự quan tâm nên chúng em đã lựa chọn đề tài: “ Cuộc chạy đua lãi
suất liệu đã đi đến hồi kết ”. Với chút kiến thức ít ỏi của mình cùng những cố
gắng sưu tầm tài kiệu tham khảo,chúng em xin trình bày một số ý kiến của
mình và hy vọng sẽ nhận được những lời đóng góp và nhận xét của thầy cô để
bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và trân trọng những ý kiến đóng góp
của thầy cô giáo.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
4
I, Nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất:
1.Khái niệm :
Lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một
khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử
dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối
với việc trì hoãn chi tiêu.
Lãi suất là biến số vĩ mô hết sức quan trọng và được theo dõi chặt chẽ nhất
trong nền kinh tế do nó ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các doanh nghiệp
và hộ gia đình. Những biến động bất thường trong lãi suất sẽ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp và cá nhân trong việc dự tính chi tiêu hay lập kế hoạch kinh
doanh.
2.Tình hình lãi suất các ngân hàng:
Thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt
Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có
người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên
tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số
NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần.
Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất
mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi
suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm.
Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)
đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm
cho kỳ hạn 1 tháng.
Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra
mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới
13,5%/năm.
Một số NHTM còn đưa ra mức lãi suất thoả thuận tới 1,2% đến 1,3%/tháng
đối với khách hàng gửi tiền với khối lượng lớn, hay giữ chân khách hàng rút
tiền tới hàng tỷ đồng.
Đây được coi là mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều người
nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ vỡ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
5
gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới
200% - 300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta.
Còn NHTM CP An Bình thì tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn:
1 tuần, 2 tuần và 3 tuần,…Lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 4 tuần lên tới
7,8%/năm.
Tiếp theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm
khi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng
mặt. Đặc biệt lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày
18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao
hơn nữa lên tới 43%/năm…
Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên
tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi
suất bình thường. Thị trường “căng“ đến mức ngày 22/2/2008 NHNN phải bơm
thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu,
với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm
của ngày 21/2/2008.
Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng,
mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ
trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có
giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước,
một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái
phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn
phần đông các NHTM cổ phần thì không.
Do đó các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị
trường liên ngân hàng khoản vay của các NHTM đó với lãi suất từ 30% đến
43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của NHNN. Không phải làm gì,
các NHTM Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy
lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu
cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của
hệ thống NHTM.
Những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8, người ta chứng kiến tình hình nhiều
ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh tăng lãi suất huy động cả
VND và USD.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
6
Các ngân hàng thương mại nhà nước và các công ty tài chính tuy không
tuyên bố tăng lãi suất, nhưng cũng chào mời các loại chứng từ có giá với mức
lãi suất cao hơn mức lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn và khuyến mãi kèm các giải
thưởng.
3.Nguyên nhân của việc tăng lãi suất:
Chúng ta hãy xem xét từ thực tiễn ở Hà Nội và TP HCM (hai địa bàn chiếm
đến 70% tổng vốn huy động và hơn 50% dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân
hàng). Đến cuối tháng 7-2006, số dư vốn huy động từ các tổ chức kinh tế-xã hội
và dân cư của các tổ chức tín dụng Hà Nội đạt trên 175.000 tỷ đồng nhưng dư
nợ cho vay chỉ gần 92.000 tỷ đồng.
Còn tại TP HCM, liên tục trong bảy tháng đầu năm hoạt động tăng trưởng
tín dụng trên địa bàn có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các năm trước đây
trong khi huy động vốn tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tỷ lệ sử dụng vốn
cho vay trực tiếp nền kinh tế trên vốn huy động của các ngân hàng thương mại
tại TP HCM hiện chỉ trên 80% (trước đây có lúc lên trên 90%).
Nhìn vào hiện tượng trên thì có vẻ đúng là lãi suất tăng không phải do sức ép
cung-cầu vốn, nhưng tại sao không cần vốn mà các ngân hàng vẫn tăng lãi suất
huy động.
Có thể đưa ra một số lý giải sau:
- Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc :
Phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền gửi của
các tổ chức và tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy phải trả lãi
suất cao hơn nhưng đặc điểm của nguồn này có tính ổn định, vững chắc.
Hiện nay, 55,4% vốn huy động của các ngân hàng thương mại ở Hà Nội là
của các tổ chức kinh tế-xã hội và các định chế tài chính (không phải các tổ chức
tín dụng). Tỷ lệ này ở TP HCM là 51%.
Bên cạnh đó, tiền gửi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổng công ty lớn
(từ hàng chục đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không kỳ hạn
hoặc ngắn hạn, bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
7
Một chi nhánh Ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội có hơn 3.000 tỷ
vốn huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một tổng công ty nhà
nước. Ngân hàng này luôn nơm nớp lo nếu vì lý do nào đó tổng công ty này rút
số tiền trên thì ngay lập tức nguồn vốn huy động của chi nhánh này giảm 1/3 và
hậu quả của nó đối với việc cân đối vốn thì ai cũng rõ.
- Tác động từ việc tăng lãi suất của FED :
Đến ngày 29-6-2006 FED tăng lãi suất cơ bản lên mức 5,25%/năm, đây là
lần tăng thứ 17 trong vòng hai năm qua kể từ tháng 6/2004. Lãi suất của thị
trường tài chính của các nước luôn tác động lẫn nhau. Lãi suất huy động ngoại
tệ trong nước lần lượt tăng theo các lần điều chỉnh của FED. Hiện lãi suất huy
động USD kỳ hạn 12 tháng cao nhất của ngân hàng thương mại đã đến mức
5,1%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất ngoại tệ tăng gây sức ép lên lãi suất nội tệ. Nhiều ngân
hàng lo ngại người dân sẽ chuyển từ gửi nội tệ sang ngoại tệ khiến ngân hàng
thiếu hụt vốn nội tệ nên cũng phải tăng lãi suất nội tệ lên ở mức tương đối có lợi
cho người gửi tiền để duy trì nguồn vốn này.
- Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh:
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân
hàng. Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số
ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không
thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền
sang các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn.
Theo lời của một phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần th ì
cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế- xã hội và dân cư lớn, chi
nhánh đó lỗ vì lãi suất huy động cao, cho vay lại khó khăn, vốn thừa vẫn phải
trả lãi cho tiền gửi. Nhưng tính chung cả hệ thống thì h ọ vẫn phải tăng lãi suất
vì sụt giảm tiền gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà còn
mất khách hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
- Bù đắp cho rủi ro trong hoạt động tín dụng
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong chặng đầu của tiến trình hội nhập, rủi
ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên bản
cân đối của các ngân hàng thương mại hiện phần lớn ở mức dưới 5%/tổng dư
nợ, nhưng các khoản nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
8
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại...)
đang có xu hướng tăng. Một vài ngân hàng thương mại Nhà nước tỷ lệ nợ nhóm
2 đến nhóm 5 đã trên mức 20%/tổng dư nợ cho vay.
Theo phản ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanh
nghiệp nhà nước đang có dấu hiệu tiếp tục tăng do khối xây dựng, giao thông đã
hết thời hạn cơ cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ. Nợ xấu cũng
xuất hiện một số doanh nghiệp xuất khẩu nhạy cảm với những biến động của thị
trường. Bên cạnh đó nợ đọng trong cho vay lĩnh vực bất động sản cũng không
phải là ít...
Tình hình này có thể cũng là một trong những nguyên nhân khiến các ngân
hàng tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ đọng và
bảo đảm khả năng thanh khoản của mình.
Trong hệ thống ngân hàng của Việt nam tuy cũng có lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất tái chiết khấu nhưng lãi suất liên ngân hàng vẫn cao hơn cả hai lãi suất
này trong giai đoạn các NHTM thiếu thanh khoản như hiện nay. Nguyên nhân
chỉ có thể là NHNN đã không thực hiện tốt chức năng của mình. Trong phát
biểu của Thống đốc Nguyễn Văn Giàu, ông cho biết NHNN đang theo dõi tình
hình thanh khoản của các NHTM rất chặt chẽ và sẵn sàng bơm tiền ra nếu có
dấu hiệu bất ổn. Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tại sao NHNN không thực hiện
chức năng này một cách bình đẳng với tất cả các NHTM thông qua thị trường
mở, cho vay tái cấp vốn. Trên thực tế rất nhiều NHTM nhỏ không được tham
gia vào hoạt động thị trường mở của NHNN và còn khó khăn hơn nữa khi muốn
được vay vốn với lãi suất tái cấp vốn trực tiếp từ NHNN.
Nguyên nhân của trở ngại này chính là mục tiêu thắt chặt tiền tệ mà Chính
phủ đã yêu cầu NHNN thực hiện nhằm chống lại lạm phát gia tăng. Lập luận
của NHNN là nếu thực hiện đầy đủ chức năng thì với nhu cầu thanh khoản hiện
tại trong hệ thống ngân hàng Việt nam, NHNN sẽ phải bơm ra một lượng tiền
mặt rất lớn và điều này sẽ làm cung tiền gia tăng làm cho tình hình lạm phát sẽ
tồi tệ hơn. Do vậy NHNN sẽ chỉ cung cấp thanh khoản với lãi suất nằm trong
khoảng 11% đến 13% cho NHTM nào có nguy cơ khủng hoảng thật cao. Còn
các NHTM khác dù có thiếu thanh khoản nhưng chưa đến mức bị khủng hoảng
sẽ phải tự thân vận động bằng cách vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi
suất cao hơn nhiều.
Bởi vậy các NHTM hiện tại, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ không biết
chắc mình có được NHNN ưu ái không nếu tình hình thanh khoản trở nên tồi tệ
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
9
hơn, phải chạy đua lãi suất huy động khi cái trần 12% vừa được gỡ bỏ để tránh
phải vay vốn từ thị trường liên ngân hàng mà lãi suất có lúc đã vượt 20%/năm.
Lãi suất huy động sẽ tiếp tục bị đẩy lên cho đến khi nào các NHTM vượt qua
tình trạng thiếu thanh khoản hoặc cho đến khi NHNN can thiệp bằng các biện
pháp hành chính.
II. Ảnh hưởng và hệ lụy tới các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế:
Lãi suất tiền đồng liên tục tăng rất mạnh trong những ngày qua, trong khi đó
lãi suất đồng USD lại giảm mạnh và dự báo còn giảm. Diễn biến trái phiếu trên
thị trường tiền tệ đang khiến các chuyên gia kinh tế đưa ra nhiều dự báo không
mong đợi.
1.NHTM bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất
Trong những ngày gần đây hàng loạt ngân hàng thương mại (NHTM) công
bố tăng lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam với mức lãi suất tăng khá, tăng
thêm từ 0,12% - 0,48%/năm so với trước đó. Tuy nhiên, mức tăng lớn nhất vẫn
thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần, kể cả các NHTM cổ phần quy mô
còn khiêm tốn mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, như SHB, An Bình,…đến
các NHTM hạng trung bình khá như: SeABank, VPBank, Phương Nam,
Phương Đông, NHTM CP Sài Gòn… và ngay cả những NHTM cổ phần có
thương hiệu khá hay quy mô lớn, như: Eximbank, Techcombank, Đông Á,
ACB,…Từ ngày 18-2-2008, Eximbank thực hiện việc tăng lãi suất lớn nhất, với
mức tăng thêm tới 0,84%/năm so với mức lãi suất trước đó, kỳ hạn 6 tháng lên
tới 9,0%/năm.
Thực ra cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn nội tệ - Đồng Việt Nam (VND)
diễn ra từ đầu tháng 1-2008 và đợt thứ hai diễn ra từ đầu tháng 2-2008, tức gần
2 tuần trước Tết nguyên đán Mậu Tý, nhưng rộ lên, lan rộng ở hầu hết các
NHTM và thực sự nóng lên kể từ sau Tết Nguyên đán Mậu Tý đến nay.
Hiện nay lãi suất huy động vốn VND tăng cao nhất của một số NHTM cổ
phần lên tới 0,85%/tháng hay 10,20%/năm cho kỳ hạn 24 tháng, lên tới
0,80%/tháng, hay 9,6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng,…Lãi suất huy động vốn
VND kỳ hạn 12 tháng của NHTM CP Sài Gòn lên tới 9,72%/năm, tương đương
0,81%/tháng; của Techcombank lên tới 9,6%/năm. Thậm chí lãi suất huy động
của nhiều Quỹ tín dụng nhân dân kỳ hạn 12 tháng lên tới 0,90%/tháng, hay
10,80%/năm.
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
10
Một số NHTM bên cạnh việc tăng lãi suất còn đưa ra một số hình thức huy
động vốn hấp dẫn khác, như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng bằng
hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, triển khai hình thức gửi tiền với lãi suất linh hoạt,
khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi suất
có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi,…
Đặc biệt đánh vào tâm lý khách hàng trong điều kiện chỉ số giá tăng cao, từ
ngày 18-2-2008, có ngân hàng còn đưa ra hình thức huy động vốn VND: “Lãi
suất bù lạm phát”. Ngoài lãi suất thông thường, khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12
tháng được ngân hàng này cam kết bù một phần hoặc toàn bộ chênh lệch giữa
lãi suất và tỷ lệ lạm phát thực tế, nhằm đảm bảo cho khách hàng gửi tiền được
hưởng lãi suất không bị thiệt khi lạm phát tăng cao.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cuộc cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn
VND nói trên? Hiển nhiên là do tình trạng thị trường tiền tệ nóng lên, vốn VND
khan hiếm. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà
không có người cho vay.
Chỉ có một số thời điểm nóng nhất Ngân hàng Nhà nước đưa ra đấu thầu
hơn 10.000 tỷ đồng - 17.000 tỷ đồng. Lãi suất cho vay qua đêm một số thời
điểm lên tới 20%/năm, thậm chí tới 30%/năm. Ngày 15-2-2008, trên 10 NHTM
tham gia đấu thầu lãi suất khoản vay kỳ hạn 1-2 tuần từ NHNN với lãi suất
trúng thầu lên tới 30%/năm, tăng cao so với mức 25%/năm ngày trước đó.
2.Cung tiền Đồng sẽ còn giảm:
Trước Tết Nguyên đán Mậu Tý, thời điểm cuối tháng 1-2008, lãi suất thị
trường liên ngân hàng đã lên tới 27%/năm. Một mức lãi suất chính bản thân các
NHTM cũng không ngờ tới và lúc bí quá buộc lòng “bấm bụng“ phải vay vì
không còn cách nào khác! Dự báo trong thời gian tới lãi suất thị trường liên
ngân hàng tiếp tục nóng lên và ở mức cao. Còn nguyên nhân tiếp theo đó là cầu
vốn tiền Đồng Việt Nam tăng cao, trong khi đó cung hạn chế bởi các lý do sau
đây:
Một là Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng
tín phiếu NHNN với lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày nhằm mục tiêu thu hút
bớt tiền từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Hình thức phát hành là bắt buộc
phải mua đối với các Tổ chức tín dụng (TCTD) theo mức phân bổ cụ thể. Theo
đó có tới 41 TCTD đô thị phải mua loại tín phiếu nói trên, nhưng lại không
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ
Nhóm SV thực hiện lớp Anh 3 – TCQT B – K46
11
được sử dụng để giao dịch tái cấp vốn. NH nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Quỹ tín dụng nhân dân và các TCTD có số vốn huy động VND đến 31-1-
2008 từ 1.000 tỷ đồng trở xuống không phải mua tín phiếu NHNN đợt này.
Thời điểm phát hành là ngày 17-3-2008. Do đó để chủ động có đủ vốn mua tín
phiếu NHNN bắt buộc vào thời điểm đó thì ngay từ bây giờ các NHTM phải “
chạy đôn , chạy đáo” huy động vốn trên thị trường, bởi vì hơn 20.000 tỷ đồng
đâu có phải ít!
Hai là, kể từ ngày 1-2-2008 các TCTD phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc
mới, theo hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc và tăng
thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với mức trước đó. Theo đó Thống đốc NHNN
quyết định mở rộng thêm phạm vi phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tiền gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%,
tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ
không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại
tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2-2008,
các NHTM phải bỏ ra thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự trữ bắt buộc
cho NHNN.
Ba là, Thống đốc NHNN quyết định tăng một số loại lãi suất chủ đạo, thực
hiện từ tháng 2-2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất
chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi suất trước đó được
thực hiện từ tháng 12-2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm đến nay mới điều
chỉnh tăng trước áp lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức lãi suất đó thực tế
ít tác động đến lãi suất của các NHTM, nhưng về điều hành NHNN phát đi tín
hiệu tăng lãi trên thị trường tiền tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị
trường.
Bốn là, cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các NHTM có sự thay đổi
theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh hơn tiền
gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ bắt buộc
cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua chứng
khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh nghiệp,
vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ liền kề
khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này khách hàng
thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên NHTM phải để tỷ lệ vốn khả dụng
cao hơn.