Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI. LIÊN HỆ VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.45 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI:
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI.
LIÊN HỆ VỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
LỚP CC08 --- NHÓM 4 --- HK 211
NGÀY NỘP 22/10/2021
Giảng viên hướng dẫn: An Thị Ngọc Trinh
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hiền
Mai Thi Ngọc Hiệp
Cao Văn Hoàng
Lê Huy Hoàng

Mã số sinh viên
2052998
1952689
2053007
2052338

Điểm số

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
1



MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................4
II. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI .................5
1. Con người và bản chất của con người..................................................................5
1.1. Con người là thực thể sinh- xã hội........................................................................5
1.1.1 Con người là thực thể sinh học .................................................................5
1.1.2 Con người là thực thể xã hội .....................................................................5
1.2 Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình............................................................................................7
1.2.1. Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người và xã hội loài vật............7
1.2.2 Những ý kiến khác nhau về sự khác biệt giữa con người và con vật..........7
1.3 Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người ...................8
1.3.1 Con người là sản phẩm của lịch sử............................................................8
1.3.2 Con người là sản phẩm của chính bản thân con người..............................8
1.4 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.......................9
1.4.1 Con người là chủ thể lịch sử....................................................................9
1.4.2 Con người là sản phẩm của lịch sử..........................................................9
1.5 Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội ...............................................10
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .12
2.1 Khái quát về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam ....................................12
2.2 Vai trị của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.................................................13

2


2.3 Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay
................................................................................................................................... 17

2.3.1 Những mặt tích cực trong việc phát huy vai trị của đội ngũ trí thức.......17
2.3.2 Những hạn chế trong việc phát huy vai trị của đội ngũ trí thức..............18
2.3.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế trong việc phát huy vai trị của đội ngũ
trí thức ..............................................................................................................19
III. KẾT LUẬN..........................................................................................................21
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................22

3


4


I. PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế
giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
phân tích một cách sâu sắc nhất. Khơng những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã
hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại
đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v. Từ
rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó.
Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho
con người.
Trong quan niệm của triết học Mác, con người là một thực thể trong sự thống nhất
biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các
quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C. Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
thức rõ vị trí, vai trị của người trí thức đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Người cho rằng: “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân.
Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức”. Luận điểm trên của Người đã

khẳng định rõ vai trị quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức phải đề cao
tinh thần đoàn kết, tạo thành một khối thống nhất, phát huy thế mạnh của từng chủ thể;
từ đó, tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và phục vụ nhân dân.
Hiện nay, nước ta đang chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội
lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nước ta thốt khỏi tình trạng khủng hoảng cần phải
lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực,
tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.

5


Với ý nghĩa đó, nay nhóm em lựa chọn vấn đề “lý luận của triết học Mác về con
người. Liên hệ với việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay” để nghiên cứu.
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận của triết học Mác về con người
1. Con người và bản chất của con người
1.1 Con người là thực thể sinh- xã hội
Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người về cơ bản là những
quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi
con người là một thực thể tự nhiên- xã hội. Song họ cũng khơng vượt qua tính chất
siêu hình hoặc duy tâm. Bởi họ đã quy định đặc trưng bản chất con người theo huynh
hướng tuyết đối hóa những thuộc tính tự nhiên mà khơng thấy được vai trị của hoạt
động thực tiễn xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
1.1.1 Con người là thực thể sinh học

Con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên thơng qua q
trình phát triển và tiến hóa lâu dài của mơi trường tự nhiên. Vì vậy, con người khơng
bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật như tìm kiếm thức
ăn, nước uống, đấu tranh sinh tồn với các loài khác, sinh con đẻ cái. Nhưng khơng
được tuyệt đối hóa điều đó vì con người vẫn có nhiều đặc trưng khác với con vật.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. Trong đó, con người bị chi phối bởi hệ thống các qui luật sinh học và nhu cầu
sinh học như: ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu tái sinh sản quy định phương diện sinh
học của con người. Cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học đã
chi phối đời sống con người.

6


Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng cịn là một bơ phận của
giới tự nhiên. Con người phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên như di truyền,
tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học tự nhiên. Bởi “giới tự nhiên… là thân thể
vơ cơ của con người”1. Điều đó cũng có nghĩa con người sống trong giới tự nhiên sẽ
được tự nhiên nuôi dưỡng, nhưng sự nuôi dưỡng này chỉ có thể tạo dựng trên cơ sở
con người có nhận thức, có cách ứng xử khoa học phù hợp với các quy luật của tự
nhiên. Con người tác động tới giới tự nhiên một cách mù quáng, tự phát, hoang dại với
tham vọng tước đoạt, thống trị, bất chấp quy luật khách quan nội tại của giới tự nhiên
thì sẽ phải nhận hậu quả khơn lường. Và có thể nói hôm nay thế giới đã và đang phải
chứng nghiệm điều đó.
Ví dụ: Trong năm 2020, có 58,950 vụ cháy rừng với 10,1 triệu hecta bị thiêu rụi
theo thống kê Trung tâm Cứu hỏa Liên ngành quốc gia 2. Thống kê cháy rừng ở Úc đầu
năm 2020 đã làm 28 người thiệt mạng, hơn 5,900 ngôi nhà bị phá hủy, hàng chục ngôi
nhà phải tán, 11 triệu ha rừng bị thiêu rụi, có khoảng 1,25 tỉ động vật bị chết cháy. 3
1.1.2 Con người là thực thể của xã hội
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết

định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
lồi vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất
vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải, vật
chất và tinh thần nhằm phục vụ đời sống của mình. Đồng thời thơng qua lao động sản
xuất, con người dần hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy, xác lập quan hệ xã hội.
Nhu cầu xã hội đa dạng trên nhiều yếu tố (nhu cầu sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm,
nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần…)

1 C.Mác và Ph. Ăngghen (2000), Tồn tập, t.42, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội tr.135
2 Thống kê từ National Intergragency Fire Center: Wildfires and Acres | National Interagency Fire Center
(nifc.gov)
3 Ẩn danh (2020) Úc: cháy rừng làm tranh luận chính trị về biến đổi khí hậu thêm nóng bỏng tạp chí BBC. Truy
cập: ngày 10/06/2021

7


Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hơi nên q trình hình thành và phát
triển ln bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với
nhau:

• Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi
trường; quy luật về sự trao đổi chất, di truyền, biến dị, tiến hóa… quy định
phương diện sinh học của con người
• Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh
hoc của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí.

• Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Leenin, không thể tách rời hai phương diện
sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biêt lập, duy nhất, quyết

định phương diện kia. Vì vậy, con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Trong đó, mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người,
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài. Hai mặt trên
thống nhất với nhau để tạo thành con người với tính cách là một thực thể sinh học – xã
hội vật.
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình.
1.2.1. Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người và xã hội lồi vật
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt súc vật
ngay từ khi con người bắt đầu tham gia sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình –
đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật
chất của mình”.
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài
vượn may mắn lắm mới chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất. chỉ riêng sự

8


khác biệt cơ bản ấy cũng khiến ta không thể chuyển – nếu không kèm theo những điều
kiện tương ứng – các quy luật của các xã hội loài vật sống xã hội lồi người”4
Qua đây chúng ta có thể nhận ra là rất có nhiều điểm khác biệt để phân biệt con
người với súc vật bằng bất cứ thứ gì. Và tiền đề đầu tiên trong sự phát triển của lồi
người đó chính là sản xuất ra những tư liệu sản xuất, để tồn tại và phát triển, để thỏa
mãn những nhu cầu thiết yếu như: thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa.
1.2.2 Những ý kiến khác nhau về sự khác biệt giữa con người và con vật
Trước Mác cũng đã có các nhà tư tưởng đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về sự khác
biệt con người và con vật với tính cách là những dấu hiệu về nội hàm của khái niệm

con người.
Với Aristốt cho rằng con người là động vật chính trị. Con người chính trị chính là
cơng dân của một nhà nước và có kahr năng lập luận lý lẽ (logos) và hành động hợp
tác (praxis). Khả năng lập luận hợp lý cho phép con người thể hiện được những điều
mà khơng một con vật nào có thể làm được, nhờ khả năng này con người có thể phân
biệt được đúng - sai, thiện - ác, chính đáng – bất chính, cơng bằng – bất cơng. Đó
chính là cơ sở để con người có thể hiệp tác và liên kết với nhau nhằm xây dựng các thể
chế chính trị mà cơ bản nhất là gia đình và các thành bang (polis).
Nhưng với Mác - Lênin thì sự khác biệt giữa con người và con vật thể hiện tính
chất duy vật nhất quán: xác định sự khác biệt đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật
chất. Lao động chính là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho mình, tạo ra con người và xã
hội, thúc đẩy phát triển con người và xã hội.
Đó chính là điểm khác biệt căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt khác giữa con
người với con vật.
1.3 Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người

4 C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

9


Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin phê phán quan niệm của Feuerbach đã
xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ,
xem xét con người chỉ là đối tượng cảm tính, trừu tượng, khơng hoạt động thực tiễn.
Ơng đã ko nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữ người với người trong
đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất.
Feuerbach đã tuyệt đối hóa tình u giữa người và người. Hơn thế nữa, đó cũng
khơng phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ơng lý tưởng hóa.
Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các nhà tư tưởng khác về con
người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào

những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa sản ohaamr
của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định
trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản
xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như
đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con
người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người
cịn là chủ thể cả lịch sử.
1.4 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
1.4.1 Con người là chủ thể của lịch sử
Mọi sinh vật đều có lịch sử của bản thân nó, tuy nhiên lịch sử đó diễn ra một cách
vơ thức và khơng có sự tác động chủ quan của cá thể. Đối với con người thì khác, con
người tạo ra lịch sử một cách có ý thức. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người
tách biệt khỏi các loài khác và mang ý nghĩa sáng tạo to lớn đó chính là việc chế tạo
công cụ lao động sản xuất. Kể từ đây, con người trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn
xã hội và bắt đầu sáng tạo ra lịch sử của riêng mình. Con người khơng tùy tiện sáng
tạo ra lịch sử mà là tiến hành những hoạt động mới để cải tiến điều kiện cũ do đó lịch
sử sản xuất con người như thế nào thì con người cũng tạo ra lịch sử tương ứng. Từ khi

10


con người tạo ra lịch sử cho đến nay, con người luôn là chủ thể lịch sử nhưng cũng
đồng thời là sản phẩm của lịch sử.
1.4.2 Con người cũng là sản phẩm của lịch sử
Con người tồn tại và phát triển trong một hệ thống mơi trường bao gồm tồn bộ
điều kiện tự nhiên, xã hội và cả những điều kiện vật chất hay tinh thần có quan hệ trực
tiếp và gián tiếp đến đời sống con người. Đó là những điều kiện thiết yếu đối với sự
tồn tại và phát triển của con người. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên nên để
tồn tại phải phát triển quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc thu nhận và sử dụng

các nguồn lực của tự nhiên như cơ học, vật lý hay các quý trình y sinh để cải biến cho
phù hợp nhu cầu bản thân. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là một
tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở biến đổi và phát triển không
ngừng, thay đổi và thích nghi nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến
đổi của môi trường. Con người vừa tiếp nhận thích nghi với giới tự nhiên nhưng cũng
đồng thời cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người là sản phẩm của môi trường xã hội. Con người tồn tại trong môi trường
xã hội và nhờ xã hội mà con người trở thành một thực thể mang bản chất xã hội. Thực
chất, môi trường xã hội cũng là một phần của tự nhiên và con người là sản phẩm của
hoàn cảnh của mơi trường trong đó có mơi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là
điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô
rộng lớn và hữu hiệu hơn. So với môi trường tự nhiên môi trường xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyết định con người, sự tác động của môi trường tự nhiên thường thông
qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các nhân tố xã hội từ đó hình
thành mối quan hệ chi phối lẫn nhau giữa con người, môi trường xã hội và tự nhiên.
Các môi trường khác tác động đến con người . Theo sự phát triển của công nghiệp
và cách mạng khoa học – công nghệ, nhiều loại môi trường khác nhau đã dần được
phát hiện như mơi trường thơng tin, kiến thức, mơi trường từ tính, môi trường điện,
môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v. Trong những mơi trường được phát
hiện, cịn nhiều loại chỉ mới dừng ở nghiên cứu nên có thể có nhiều ý kiến, quan niệm
đối lập nhau như môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường tương tác

11


yếu. Dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới khai phá hay có nhiều quan niệm khác nhau
thì chúng đều thuộc về mơi trường tự nhiên hoặc xã hội. Tính chất, phạm vi và vai trò
của chúng đến con người là khác nhau và cũng không giống môi trường tự nhiên hay
xã hội mà chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội có tác
động ảnh hưởng trong phạm vi hẹp và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.

1.5 Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”5. Bản chất của con người ln được hình thành và thể hiện ở những con người
hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải là sự kết
hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan
hệ xã hội có vị trí, vai trị khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất,
quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất
hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v... Tất cả các quan hệ đó đều
góp phần hình thành lên bản chất của con người.
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: Quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là
quan hệ bản chất, bao trùm các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực
liên quan đến con người.
Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người
cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể
bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản
chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xā hội khi đã hình thành
thì có vai trị chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người
khiến cho con người khơng cịn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội.

5 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập, t.3. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 11.

12


Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội" 6. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền
đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.

Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người C. Mác đã nêu luận đề nổi
tiếng trong tác phẩm Luận cương về “Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hịa những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên đã khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly điều
kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó,
bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
để tồn tại, phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Ngồi ra, chỉ trong tồn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế,
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…), con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của
mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Vì ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong
sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện nhu cầu sinh vật ở con người
cũng đã mang tính xã hội.
Quan niệm bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội mới giúp chúng
ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu sai lệch về măt tự nhiên, mặt sinh vật ở
con người.
Chương 2. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái quát về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt
động kinh tế và quản lí kinh tế - xã hội. Từ sử dụng sức lao động tay chân thủ công
chuyển sang sử dụng phổ biến công nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại. Với hình
6 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Tồn tập, t.2. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 200.

13



thức này thì năng suất lao động sẽ tăng lên rất rất nhiều, tiết kiệm thời gian, chi phí
nhân cơng, và đạt hiệu quả cao có chất lượng đồng đều.
Cơng nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong q
trình phát triển đất nước vì nó đưa nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội
của đất nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơng
nghiệp hóa đóng vai trị tạo điều kiện, tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ
nghĩa. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa có
nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một q trình kinh tế, kỹ thuật - cơng nghệ và kinh tế xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình
độ nơng nghiệp lạc hậu lên trình độ cơng nghiệp với các trình độ cơng nghệ ngày càng
tiên tiến, hiện đại, văn minh. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã bắt đầu từ
những năm gần đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên cách thành tựu
đột phá trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano… với
nền tảng là sự đột phá về công nghệ số. cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mỡ ra cơ hội
phát triển cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất, bởi cuộc cách mạng công nghiệp này không nhằm vào công nghiệp, là
lĩnh vực nước ta có khoảng cách cực lớn so với các nước phát triển, mà chú trọng vào
công nghệ số, tọa điều kiện cho đất nước ta phát triển về công nghệ số ở mọi lĩnh vực.
Hơn nữa cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở thế kỷ XXI sẽ thúc đẩy quá trình
phát triển lực lượng sản xuất. Dó đó, Việt Nam phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa để phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh - quốc
phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia
một cách có hiệu quả vào sự phân cơng và hợp tác quốc tế.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng

14



nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng
của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”7
2.2 Vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Căn cứ Nghị quyết số 27/2008/NQ-TW8 ngày 6 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam quy định “Trí thức là những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực tư
duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần
và vật chất có giá trị đối với xã hội.”
Ý kiến của Các Mác và Ăng Ghen về đội ngũ trí thức: “Trí thức là một tầng lớp xã
hội đặc biệt chuyên lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn, chun mơn sâu, đại
diện cho trí tuệ đương thời mà xã hội đạt được. Trí thức là những người sáng tạo, phổ
biến và vận dụng tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và
tiến bộ xã hội...”
Ý kiến của Bác Hồ về đội ngũ trí thức: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa
học, văn nghệ, những người làm bàn giấy.” Trí thức là một trong những lực lượng đặc
biệt quan trọng của cách mạng. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức
rõ vị trí, vai trị của người trí thức đối với cách mạng giải phóng dân tộc.
Tun ngơn của Đảng ta nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công
nhân, nơng dân và lao động trí óc u nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất. Và,
“lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”.
Trí thức là một trong những lực lượng đặc biệt quan trọng của cách mạng:
ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trị của người trí thức
đối với cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1945, Người khẳng định: “Trí thức là vốn
liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực
là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một
7 Cổng thông tin điện tử: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Kế thừa và phát triển của Đại hội XIII” – 09/04/2021
8 Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nghị quyết số 27/2008/NQ-TW tr.91


15


phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực
khổ, chen vai thích cánh với bộ đội và nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp
đỡ ở ngồi"9. Năm 1956, người đã cho rằng: “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là
công nhân và nông dân...Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức (chúng
ta quen gọi là lao động trí óc)...Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ vang; và
cơng, nơng, trí cần phải đồn kết chặt chẽ thành một khối...Là một bộ phận trong lực
lượng cách mạng, trí thức có nhiệm vụ thi đua phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Vì vậy, Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng người trí thức của nhân dân, vì nhân
dân”10. Đội ngũ trí thức có những đóng góp vơ cùng to lớn và vĩ đại cho sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Họ khơng những cống hiến sức lực, trí tuệ, mà cịn cả
sinh mạng của họ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và cả dân tộc. Từ đó, Đảng ta đã
lãnh đạo tồn dân tộc dành được thắng lợi to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc
và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh.
Trí thức là “vốn liếng” quý báu của dân tộc: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất q báu cho
Đảng. Khơng có những người đó thì cơng việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”11…
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn dẫn lại lời dạy của V.I. Lê-nin rằng: “Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới có thể thu thái được những điều hiểu biết quý báu của các
đời trước để lại”12. Người không những thông thái những kinh nghiệm quý báu của các
thế hệ trước, mà cịn bổ sung nhiều tư tưởng có giá trị sâu sắc về xây dựng đội ngũ trí
thức ở Việt Nam.
Đội ngũ trí thức có vai trị cực kì quan trọng trong cuộc cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ và phát triển trên tồn thế giới và
tác động cực kì mạnh mẽ đến nước ta. Trong bối cảnh hòa nhập thế giới, vai trị của
đội ngũ trí thức đã thể hiện trong nhiều lĩnh vực như: cung cấp luận cứ khoa học và tư
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.156.

10 Hơ Chí Minh Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, T8 - tr 214-216.
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.235
12 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 357

16


vấn, phản biện để góp phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; trực tiếp nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo nhân lực cho cách
mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam13.
Đội ngũ trí thức Việt Nam giữ vai trò then chốt trong việc cung cấp luận cứ khoa
học góp phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Đường lối lãnh đạo này có phù hợp đúng
đắn với đất nước hay không phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở khoa học.
Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia công tác tư vấn và phản biện các chính sách,
pháp luật của Nhà nước về cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam. Đó là nhiệm
vụ cực kì quan trọng, bắt nguồn từ đặc điểm nghề nghiệp của họ. Để có được các
chính sách đúng đắn phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như phải phù hợp với
thực tiễn phát triển của Việt Nam, rất cần vai trò tư vấn, phản biện chính sách của đội
ngũ trí thức.
Đội ngũ trí thức Việt Nam khơng ngừng nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo nhân
lực. Bên cạnh đó, họ cịn là lực lượng lượng nòng cốt trong việc truyền bá tri thức,
nâng cao trình độ dân trí, nâng cao nhận thức của xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đây
được xem là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài gắn với thiên chức của đội ngũ trí thức
Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng chủ yếu tiếp thu, làm chủ khoa học - công
nghệ, đồng thời sáng tạo khoa học - công nghệ phù hợp với Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư ở Việt Nam. Trong quá trình tiếp thu những thành tựu, khoa học công nghệ
mới của nước ngồi, đội ngũ trí thức Việt Nam phát phát huy trí tuệ của mình, chọn lọc
và làm chủ những cơng nghệ mới nhất, phù hợp nhất với điều kiện phát triển của đất
nước, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Q trình tiếp thu khoa học cơng nghệ thế

giới, đội ngũ trí thức phải hướng đến mục tiêu nắm vững công nghệ, làm chủ công
nghệ, tức là phải hiểu được bản chất của cơng nghệ, phương pháp, trình tự thực hiện
cơng nghệ, bí quyết cơng nghệ. Bên cạnh đó, họ cần phải biết kết hợp với đội ngũ trí
thức Việt Nam ở nước ngoài, tận dụng sự hiểu biết về khoa học và công nghệ của họ
13 Báo Mặt Trận, “Vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”,
24/10/2019

17


để rút ngắn thời gian tiếp cận khoa học - công nghệ mới của thế giới. Đây là nhiệm vụ
vô cùng quan trọng của đội ngũ trí thức nhằm góp phần vào sự phát triển liên tục, bền
vững của đất nước.
Đội ngũ trí thức Việt Nam Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam phù hợp với
Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Đây là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sự nghiệp cách mạng của nước ta trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
Vì văn hóa là nền tảng cho tinh thần của xã hội. Nếu khơng có một nền văn hóa thích
hợp, phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư thì con
người dễ bị tha hóa, mất đi nét riêng của dân tộc, “hịa nhập chứ khơng hịa tan”.
Đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung kích đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cùng với việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, đội ngũ trí thức Việt
Nam cũng là lực lượng quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Là lực
lượng chủ chốt trong nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia
giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc là một nhiệm vụ sống cịn, giúp đất nước tiếp
tục phát triển, mà khơng bị hịa tan vào các nền văn hóa lớn của thế giới.
Đội ngũ trí thức Việt Nam tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới, làm giàu
thêm, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc là một tất yếu khi Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu, rộng vào thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần

thứ tư. Q trình tiếp thu những giá trị văn hóa thế giới, đội ngũ trí thức Việt Nam
cũng thể hiện vai trò quan trọng trong đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ các hiện tượng
“phản văn hóa”, những yếu tố khơng phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam.
Đội ngũ trí thức tham gia phổ biến các giá trị văn hóa Việt Nam trên thế giới,
khẳng định sức sống của nền văn hóa dân tộc, khẳng định hình ảnh và sức mạnh Việt
Nam trên trường quốc tế, dẫn dắt thành cơng q trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng.

18


2.3 Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt Nam
hiện nay
2.3.1 Mặt tích cực trong việc phát huy vai trị của đội ngũ trí thức
Thứ nhất, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho đội
ngũ trí thức phát triển. Định kỳ kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ
trong hoạt động khoa học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ. Phê
phán sự thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng
của đội ngũ trí thức. Tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm bảo
đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng chế và khuyến khích đội ngũ
trí thức gia tăng sự cống hiến. Có chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối với tác giả các
cơng trình được cơng bố quốc tế, các sáng chế được bảo hộ trong và ngoài nước. Xây
dựng cơ chế hoạt động, tổ chức các diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi,
trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các
chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
VD: Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, thường xuyên tổ chức các hội
nghị để tập hợp các tri thức đóng góp xây dựng, phản biện các chủ trương hay đường
lối. Ngồi ra cịn trao tặng những học bổng và tạo thêm thật nhiều cơ hội để ai cũng có
thể được trải nghiệm giáo dục tốt nhất.
Thứ hai, đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng, đặc

biệt trong giai đoạn tồn cầu hóa đang diễn ra hết sức sâu rộng như hiện nay. Bên
cạnh trí thức trong nước, hiện nay có khoảng 400.000 trí thức Việt kiều (chiếm trên
10% số người Việt Nam ở nước ngồi) có trình độ từ đại học trở lên đang sinh sống và
làm việc ở gần 100 quốc gia, tập trung chủ yếu ở các nước: Mỹ, Ca-na-đa, Nga, Ba
lan, Pháp, Đức, Nhật, Ơ-xtrây-li-a... Hầu hết trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đều
hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, đóng góp thiết thực vào sự phát
triển chung của đất nước.
Thứ ba, chất lượng các tổ chức chính trị- xã hội, xã hội, các hội của trí thức được
nâng cao nhằm đề cao trách nhiệm của trí thức. Các tổ chức của hội tri thức bao gồm

19


Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ
thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương đã triển khai hoạt động tư vấn, phản
biện và giám định xã hội để góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính
quyền địa phương các quyết các vấn đề quan trọng về khoa học công nghệ, giáo dụcđào tạo.
VD: Liên hiệp các hội khoa học- kĩ thuật Việt Nam đã góp phần điều chỉnh tiến độ
triển khai các nhà máy điện nguyên tử, điều chỉnh thiết kế nhà máy thủy điện Sơn La;
xem xét kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng 6 đập trên sông Hồng để
cải tạo giao thông thủy và phát điện....
. 2.3.2 Mặt hạn chế trong việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
Thứ nhất, thực tế có nhiều chính sách nhưng cơng tác vận động trí thức của Đảng
và Nhà nước chưa phù hợp, chưa thúc đẩy đội ngũ trí thức, đóng góp hiệu quả cho
cơng cuộc xây dựng đất nước. Các đề án về xây dựng đội ngũ trí thức đã và đang thực
hiện, nhưng một số quy định triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra, nhiều văn bản ban
hành cịn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tính hệ thống giữa các lĩnh vực dẫn tới khó
thực hiện. Bên cạnh đó một số chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những
chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện kết quả. Nhìn chung, các chính sách đối
với trí thức cịn thiếu đồng bộ, cịn nặng tính hành chính và dấu ấn của cơ chế kế

hoạch hóa tập trung.
Thứ hai, đội ngũ trí thức tăng nhanh, nhiều nhưng chưa mạnh, thiếu chuyên gia
giỏi đầu ngành trong nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ trí thức khơng đồng đều, còn tập
trung vào một số ngành, nghề và độ tuổi nhất định. Trong khoa học tự nhiên và công
nghệ, số cơng trình được cơng bố ở các tạp chí có uy tín, số sáng chế được đăng ký
quốc tế cịn hạn chế. Trong khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận cịn thiếu dự báo, định
hướng, nhiều cơng trình cịn sơ lược, sao chép. Theo thống kế cơ sở dữ liệu Web of
Science trong giai đoạn 2014-2019, Việt Nam có 12.431 công bố thuộc danh mục Viện
thông tin khoa học (ISI). Mặc dù số công bố quốc tế của Việt Nam đã được cải thiện
rất nhiều trong những năm gần đây nhưng chỉ đứng thứ 5 trong ASEAN. Số lượng
công bố của Việt Nam trong giai đoạn này bằng khoảng 44% nước đứng thứ 4 là Thái

20


Lan, 34% nước đứng thứ 3 là Indonesia, nước đứng thứ 2 là Singapore và bằng khoảng
22% số công bố của nước đứng đầu khu vực là Malaysia.
Thứ ba, môi trường chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chyên tâm
cống hiến. Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo còn thiếu, chưa đồng bộ đặc biệt ở những địa phương ngồi các thành phố lớn như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng… Bên cạnh đó do ảnh hướng của dịch Covid-19
diễn biến phức tạp trên thế giới và Việt Nam, thị trường khoa học và công nghệ phát
triển chậm. Doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu, đổi mới công
nghệ.
Thứ tư, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm kết nối các tổ chức nghiên cứu với
doanh nghiệp còn hạn chế. So với thế giới, đặc biệt là các quốc gia châu Âu và Mỹ thì
đổi mới về chuyển giao cơng nghệ giữa các trường đại học với doanh nghiệp ở Việt
Nam rất chậm, đặc biệt các chính sách, cơ chế và giải pháp thực thi cịn thiếu đồng bộ.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần phát huy vai trị trong tạo dựng mơi trường pháp luật và
các chính sách, hình thành liên kết ba bên: chính phủ- nhà trường- doanh nghiệp.

2.3.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức
Thứ nhất, đổi mới chính sách đãi ngộ, trọng dụng và tôn vinh tri thức để nâng
cao chất lượng và số lượng đội ngũ trí thức. Các cơ quan nhà nước ban hành các cơ
chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần
tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của họ. Nhà nước cần có chính
sách ưu đãi về lương, nhà ở, điều kiện làm việc, sinh hoạt, đi lại… đối với trí thức,
nhất là trí thức làm việc ở các vùng kinh tế, xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Các
cơ quan cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách để động
viên, sử dụng chuyện mơn, nghiệp vụ đối với những trí thức có trình độ cao.
Thứ hai, đổi mới chính sách đào tạo, đầu tư cho hoạt động bồi dưỡng trí thức.
Cần phải đầu tư xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các học viện để đảm
bảo chất lượng dạy và học, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu

21


công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm
văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước. Mở
rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn
hóa và văn nghệ.
Thứ ba, xây dựng môi trường dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học. Nhà
nước cần ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo, văn hóa và văn nghệ, bổ sung, hồn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tơn vinh. Các nhà
khoa học có thể thể hiện quan điểm, chính kiến cá nhân, dám nói lên những ý kiến tâm
huyết của mình mà khơng sợ bị quy chụp, trù dập; cần phải tăng cường các hoạt động
trao đổi, phản biện giữa các cơ quan, các nhà khoa học với nhau. Bên cạnh đó, thúc
đẩy hợp tác với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: EVFTA, RCEP... với
những cam kết chưa từng có về quyền người lao động, cải cách doanh nghiệp nhà

nước, đấu thầu và mua sắm công, bảo vệ sở hữu trí tuệ... là cơ hội cho Việt Nam trong
việc học hỏi, hợp tác.
Thứ tư, thúc đẩy tổ chức, phối hợp công tác chuyển giao công nghệ giữa các
trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp nhằm tạo sự liên kết với nhau. Đây
là mối liên kết giữa ba bên: Chính phủ- nhà trường- doanh nghiệp. Vì vậy cần có các
giải pháp đồng thời giữa các bên. Cụ thể, đối với nhà nước cần tạo ra môi trường thúc
đẩy hợp tác đại học với doanh nghiệp bằng việc ban hành các chính sách điều chỉnh
hoạt động hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp. Đối với các trường đại học,
tạo điều kiện và khuyến khích các nhà khoa học tham gia và tích cực trong hợp tác với
doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, thực hiện
nghiên cứu khoa học gắn với nhu cầu xã hội. Đối với các doanh nghiệp, cần tạo cơ
chế, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, khuyến khích đội ngũ nhà khoa học ở các trường
đại học tham gia vào các dự án và chia sẻ học thuật với doanh nghiệp.

III. KẾT LUẬN

22


Con người là gì và vì sao con người có khả năng phát triển cũng như tạo dựng lịch
sử? Con người là một thực thể sinh học, là một sản phẩm của giới tự nhiên. Tuy nhiên,
từ khi con người biết chế tạo công cụ lao động, vị thế của con người đã thay đổi từ bị
chi phối trở thành người có thể góp phần thay đổi mơi trường tự nhiên và xã hội xung
quanh. Tự nhiên và con người là mối quan hệ song hướng, hai bên tương tác với nhau
và hình thành lịch sử cũng như hiện tại. Con người có những bước tiến vượt bậc làm
thay đổi lịch sử và mơi trường tự nhiên, theo đó tự nhiên cũng là yếu tố tác động đến
tính cách, điều kiện sống của những con người thế hệ sau. Tích cách mỗi người khơng
chỉ được tạo nên bởi hồn cảnh, điều kiện sống mà nó cịn là tổng hịa của các mối
quan hệ xã hội giữa những người mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày. Qua đó, có thể kết
luận con người vừa là thực thể riêng biệt vừa phụ thuộc và tương tác với các môi

trường tự nhiên và mơi trường xã hội.
Hiểu được đặc tính đặc biệt của con người cùng với lý do cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và ngày càng tác động mạnh mẽ
đến nước ta, trong bối cảnh đó, vai trị của đội ngũ trí thức thể hiện ở nhiều lĩnh vực
hoạt động. Cụ thể là: cung cấp luận cứ khoa học và tư vấn, phản biện để góp phần xây
dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trực tiếp nâng
cao dân trí và giáo dục, đào tạo nhân lực cho cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt
Nam. Những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ln nhấn mạnh: “Trí thức Việt
Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế trí thức, phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững
mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây
dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Đội ngũ trí thức càng thể hiện
tầm quan trọng trong những ngày tháng đất nước vất vả vì dịch COVID và khơng phụ
sự kỳ vọng chúng ta đã sáng chế ra bộ kit xét nghiệm được làm ra đầu tiên bởi người
Việt Nam, Việt nam cũng là số ít các nước có thể sản xuất vaccine. Ngồi lĩnh vực
cơng nghiệp, y học thì đội ngũ trí thức cịn đóng vai trị quan trọng trong việc góp
phần xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật nhà nước về

23


cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhà nước cũng đã có những chính sách để
mơi trường học tập của học sinh, sinh viên ngày càng được cải thiện, sinh viên có thể
thoải mái chọn trường chọn ngành hơn. Song song với đó là hạn chế về mặt số lượng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và sự phân bổ không đồng đều các lao động chất
lượng cao giữa các ngành. Để khắc phục vấn đề này thì nhà nước cũng đã đưa ra
những đãi ngộ thích hợp hơn nhằm thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ trí thức và tạo
điều kiện để mọi người đều được phát huy tốt nhất.


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tham khảo là sách
1.

Bộ Giáo dục đào tạo. (2019). Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB: Chính trị

2.

quốc gia, Hà Nội.
Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3.

C.Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, t.42, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

4.

C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Tồn tập, t.3. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

5.

C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập, t.2. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.156.

7.


Nghị quyết số 27/2008/NQ-TW, Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy của Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, tr.91

B. Tài liệu tham khảo là ấn phẩm điện tử
1.

Ẩn danh (2020) Úc: cháy rừng làm tranh luận chính trị về biến đổi khí hậu thêm
nóng bỏng tạp chí BBC News Tiếng Việt. Được trích dẫn: Úc: Cháy rừng làm
tranh luận chính trị về biến đổi khí hậu thêm nóng bỏng - truy cập ngày
16/10/2021

2.

GS, TS Nguyễn Trọng Chuẩn (18/03/2021). Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số. Được trích dẫn từ: Trí

24


thức Việt Nam với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong bối cảnh

3.

chuyển đổi số - Media story
Minh Trí (09/04/2021). Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa: Kế thừa và phát triển
của đại hội XVIII. Được trích dẫn từ: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa: Kế thừa và

4.


phát triển của Đại hội XIII (hcma.vn) truy cập ngày 12/10/2021.
Tiến Đạt (2021). Khẳng định vai trị của đội ngũ trí thức KH&CN trong phịng,
chống dịch. Được trích dẫn từ: Khẳng định vai trị của đội ngũ trí thức KH&CN

5.

trong phịng, chống dịch (daidoanket.vn) truy cập ngày 12/10/2021.
Trần Sỹ Nguyên (2020) Hợp tác giữa đại học với doanh nghiệp trên thế giới và
Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp Tạp chí Cơng thương. Được trích
dẫn từ: />
6.

truy cập ngày 12/10/2021.
TS Phạm Thị Kiên (15/05/2021). Cơng mạng hóa, hiện đại hóa với q trình
phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện
nay. Được trích dẫn từ: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với q trình phát triển lực

7.

lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 ở việt nam hiện nay (hcma.vn)
TS. Lương Hữu Nam (2020) Một số giải pháp để phát triển mạnh đội ngũ trí
thức Được trích dẫn từ: truy cập ngày

8.

12/10/202.
TS. Nguyễn Duy Quỳnh (08/08/2021) Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Được trích dẫn từ: Xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Cộng sản
(tapchicongsan.org.vn)


9.

TS. Nguyễn Tồn Thắng (2012), Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
trong việc xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay. Tạp chí
Cộng sản. Được trích dẫn từ: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong việc xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - Tạp chí
Cộng sản truy cập ngày 16/10/2021

10. TS. Phan Việt Phong; TS. Ngơ Đình Sáng (2020) Tập hợp, phát huy vai trị đội
ngũ trí thức khoa học và cơng nghệ Tạp chí Ban tuyên giáo trung ương. Được

25


×