Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.61 KB, 23 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần:
Mã phách:

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
…………………………………..…

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh ( Nguyễn Ái Quốc) - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng
và nhân dân ta, người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người chiến sĩ cộng sản quốc tế
mẫu mực đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc.
Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gắn liền với tên tuổi, trí tuệ, uy tín và đạo
đức cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Người đã sáng lập và xây dựng
Đảng ta theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vơ sản, vừa phát
huy được trí tuệ, vừa tập trung thống nhất ý chí hành động của Đảng. Từ sau


khi được thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ thắng lợi, lãnh đạo thành lập nước và lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức và nhân
cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng, hết lòng tận trung với nước, tận
hiếu với dân.
Tôi luôn tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên dải đất hình chữ S. Nơi có
những con người hy sinh của cuộc đời của mình để bảo vệ, đấu tranh giành
độc lập cho toàn dân tộc. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là dấu mốc quan
trọng trong cơng cuộc giải phóng đất nước. Qua bao thăng trầm, cho đến nay
khi đất nước hịa bình Đảng vẫn luôn cùng nhân dân phát triển từng ngày. Sự
ra đời của Đảng không thể không nhắc đến công lao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Vì vậy, tơi đã chọn đề tài “ vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối
với quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam” làm đề tài kết thúc mơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3


Đề tài “ vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập
Đảng Cộng Sản Việt Nam” nhằm nghiên cứu, tìm hiểu vài trị của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối
với quá trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thơng tin và phân tích tài liệu:
Mục đích của phương pháp này nhằm thu thập tài liệu liên quan đến chủ tịch
Hồ Chí Minh, các tài liệu về quá trình ra đời cũng như quá trình hoạt động
của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ đó, tác giả đã tiến hành xây dựng tổng

quan nghiên cứu, phân tích về vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá
trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Phương pháp tổng hợp tài liệu:
Mục đích của phương pháp này là thông qua các tài liệu đã thu thập và
phân tích được , chọn lọc và tổng hợp các dữ liệu có liên quan tiểu sử của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, q trình hoạt động cách mạng và vai trị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với q trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa MacLenin, đường lối văn hóa của Đảng
Cộng Sản Việt Nam,……
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Việc nghiên cứu vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam là dấu mốc quan trọng cho sự ra đời của
Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với
tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

4


NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT THÂN THế VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.
1.1. Thân thế và thuở thiếu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho u nước, tại làng
Hồng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng
Thị Loan.

Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy
tình thương u của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn
Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu
qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành,
tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường
Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành
theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo
viên trường Dục Thanh.
1.2. Qúa trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê
giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất
nhà tan, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng
giành độc lập tự do cho dân, cho nước
Giai đoạn 1911 - 1920
Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran
Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).

5


Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi,
châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động,
cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng
6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu
sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc
họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận
các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về

vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp.
Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Giai đoạn 1921 – 1930
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt
động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và
lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm
Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ...
Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố
Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt
động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách
mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II
Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết
nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần

6


thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc
tế Cộng sản.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung
Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên,
trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo
cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài
giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách
mệnh, được xuất bản vào năm 1927.

Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xơ, sau đó đi
Đức (tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại
hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy
Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở
lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giai đoạn 1930 - 1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng
Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước.
Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối
năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế
Lênin.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc
tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về
nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

7


Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về
nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần
thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc
Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc,
chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ
chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận
Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược

sang Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống
phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa
phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù.
Tháng 9/1943, Người được thả tự do.
Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944,
Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân,
tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang).
Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội
Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ
ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo
nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tun
ngơn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Giai đoạn 1945 - 1954

8


Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân
dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù
trong, giặc ngồi, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua
Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Ngày 02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được

Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch
nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và
kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa
miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1954 - 1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết .
Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng. Theo
Hiệp định Giơ-ne-vơ , sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước
Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng
cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai,
viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt
lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược
mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục
lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng

9


xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tháng 10 /1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X
(khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II,
khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và
công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền
móng và khơng ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản
Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn
lao. Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi
của Người để lại mn vàn tình thương u cho tồn Đảng, tồn dân tộc Việt
Nam và tình đồn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hịa bình, tiến bộ xã hội trên
thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô
cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng
ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ cịn mãi với non
sơng đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.

10


1.3 Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử
đầy biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất
khuất giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc đều lần lượt thất bại,
phong trào cứu nước của nhân dân ta đứng trước khủng hoảng sâu sắc về
đường lối. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước,
Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan

sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới, Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở sự
áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai
cấp rõ rệt. Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu thế giới quan,
phương pháp luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; bằng thiên
tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất
mới của thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm thấy ở
đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm
1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt
Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam
đã cơ bản được xác định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường
lối giải phóng dân tộc, mà cịn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực
hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức
mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ
chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà

11


nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong bản Tuyên ngôn độc
lập đọc ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước
quốc dân, đồng bào và tồn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”,
“dựa vào sức mình là chính” phát huy truyền thống đồn kết, u nước của

tồn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân lần lượt
đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi
trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam.
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định khôn g chịu mất nước,
nhất định khơng chịu làm nơ lệ”, “khơng có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo
của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn
thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong
bất cứ hồn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và
hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau
gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định

12


đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về
đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính
trong q trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng
được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1 Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong giai đoạn giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, Người con quê hương Nguyễn Tất
Thành rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc
những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách
mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng
dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách
mạng vơ sản thế giới. Từ đây Người dứt khốt đi theo con đường cách mạng
của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách
mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ
đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp cơng nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lơi cuốn

13


những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển
mạnh mẽ, địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở

Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đơng Dương
Cộng sản Liên đồn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong
một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo.
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã
diễn ra. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ
sức lãnh đạo cách mạng.
2.2 Những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa
giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám 1945. Ngay khi vừa mới ra đời,
với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đồn kết
chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên
lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

14


Qua 15 năm đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các
cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931,
1936-1939, 1939-1945), khi thời cơ đến Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng
xích nơ lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát.

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải
đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành
hành đầu năm 1945 đã làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95%
dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với
mưu đồ diệt cộng, cầm Hồ. Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp
đỡ của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng
mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu; vận mệnh của đất nước trước tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp
thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù
địch, chúng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá
chúng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối
chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược,
Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một,
vượt qua mn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền,
đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bất chấp mong muốn độc lập và
hồ bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng

15


nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần
nữa.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ
nền độc lập của dân tộc. Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm thà hy
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định khơng chịu làm nơ
lệ. Với đường lối kháng chiến tồn dân, tồn diện, trường kỳ, dựa vào sức
mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do,
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế
quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến
tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm
chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở
miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với
thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30
năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị
tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta;
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của

16


chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất
đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng

Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu
quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hồn thành việc thống nhất đất nước về
mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta
đã có những cố gắng to lớn trong cơng cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
3. VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào u nước Việt Nam,
thơng qua vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người đã tìm ra con đường
cứu nước cho cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong
nước, chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời
của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi của lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng
hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế
kỷ XIX đến ba thập niên đầu thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam từ đây có
cương lĩnh đúng đắn với việc xác định mục tiêu chiến lược, lực lượng và
phương pháp cách mạng rõ ràng; có đội tiền phong lãnh đạo mang bản chất
cách mạng của giai cấp công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết
tâm lãnh đạo toàn dân giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để tiến tới xã hội
cộng sản.

17


Người (Nguyễn Tất Thành- lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) bôn ba qua nhiều
nước và nghiên cứu những cuộc cách mạng đã giành thắng lợi tại những nước
tư bản phát triển nhất. Người đến cả những nơi bần cùng, khốn khổ nhất ở

châu Mỹ, châu Phi, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác
nhau để hiểu thực chất hơn về chủ nghĩa tư bản, sự áp bức dân tộc của thực
dân đế quốc. Người rút ra kết luận: Ở đâu cũng có người nghèo khổ như nước
mình do sự áp bức, bóc lột vơ nhân đạo của giai cấp thống trị. Chủ nghĩa đế
quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân
dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Người khẳng định: Muốn
thốt khỏi nơ lệ và áp bức bóc lột thì nhân dân lao động tồn thế giới phải
cùng đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung.
Đầu năm 1919, Người vào Đảng xã hội Pháp - một đảng tiến bộ hơn
lúc bấy giờ, bởi đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các nước thuộc địa,
là tổ chức duy nhất theo đuổi ý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự
do, bình đẳng, bác ái”. Tháng 6.1919, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới
Hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và
bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên vấn đề quyền tự do, dân chủ
của nhân dân Việt Nam được đặt ra một hội nghị Quốc tế. Mặc dù bản yêu
sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng bản yêu sách và tên tuổi Nguyễn
Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và
nhân dân các nước thuộc địa. Việc làm trên chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thực sự
bước vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, bảo vệ quyền lợi
của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa.
Bằng thiên tài và hoạt động cách mạng nhạy bén của mình, Nguyễn Ái
Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua những hạn
chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản

18


đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất

đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc
nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của
chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người nhấn mạnh: Cách
mạng muốn thành cơng phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng
phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư
tưởng Mác-Lênin.
Về tư tưởng, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công
nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời
sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước theo lập trường
của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam không phải bằng các tác phẩm kinh điển, những cuốn sách lý
luận đồ sộ mà bằng các tác phẩm ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ
quần chúng. Những bài viết (sách, báo..), bài giảng (tác phẩm Đường cách
mệnh) với lời văn giản dị, nội dung thiết thực, phương pháp phù hợp đã nhanh
chóng được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa,
tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược.
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc phác thảo hệ thống những vấn đề cơ bản
về đường lối cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và sau này phát

19


triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của

Đảng. Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
chỉ ra con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới; cách mạng vơ sản ở chính quốc có mối
quan hệ chặt chẽ với cách mạng vơ sản ở các nước thuộc địa; lực lượng chủ
yếu của cách mạng là công nhân và nông dân - “gốc cách mệnh”, cịn “học
trị, nhà bn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn của cách mệnh; cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, vì vậy phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao; cách mạng muốn thành cơng, trước hết
phải có một đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo..
Cùng với việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, Nguyễn Ái Quốc cịn dày
công chuẩn bị về mặt tổ chức để huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn
luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên (6.1925). Đây là một tổ chức tiền thân có tính
chất q độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên giúp cho những người Việt Nam yêu
nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của
Người, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phong trào công nhân và yêu nước theo
khuynh hướng vô sản. Việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn
bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Có thể nói vai trị của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở việc sau khi tìm thấy,
lựa chọn con đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ hoạt động
khẩn trương, tích cực, sáng tạo, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng,
tổ chức để dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mà cịn nhạy cảm,
nắm bắt được tình hình cách mạng trong nước để triệu tập Hội nghị các tổ
chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

20



Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.
Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, chúng ta càng thấy công lao to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tưởng
nhớ và khắc sâu công lao to lớn của Người, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
phải ra sức học tập, nghiên cứu trau dồi kiến thức lý luận và thực tiễn, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh để
vận dụng vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn công cuộc đổi mới đất
nước. Qua đó, tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai
trò của Đảng, hạ thấp uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam, góp phần bảo vệ Đảng, lãnh tụ, chế độ và thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại,
một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh
dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là
giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường
lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra

21


con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính

đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết,
thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành
cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều
kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt
Nam trong suốt 86 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ
được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng
Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là
sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,t1.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB, Chính trị quốc gia, HN, 200, t1,t10.
3. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời,
Nxb sự thật, HN, 1980
4. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG,H.2011.
5. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nma, Nxb CTQG,H.2003.
6. Ngô Đăng Tri, 82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam – những chặng đường lịch
sử ( 1930 – 2012), Nxb Thông tin và Truyền thông, 2012.

23




×