Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của Chủ nghĩa xã hội và những yêu câu đặt ra trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.36 KB, 11 trang )

Câu 4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của Chủ nghĩa xã
hội và những yêu câu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
____
Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của Chủ nghĩa xã hội
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao
gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây dựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nịng cốt là cơng – nơng – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá
nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực
kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần
khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với
nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Về động lực của chủ nghĩa xã hội:
Để thục hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội (CNXH), cần phát
huy những động lực và những điều kiện đảm bảo cho động lực đó thực sự trở
thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH, nhất là những động lực
bên trong, nguồn nội lực của CNXH. Theo Hồ Chí Minh, hệ thống động lục để
xây dựng CNXH là: đồn kết, đồng thuận, lợi ích, cơng bằng, văn chủ, khoa học
kỹ thuật… Những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh
thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết
định nhất là con người, là khối đại đồn kết dân tộc, nịng cốt là cơng – nơng –
trí thức. Để xây dựng được khối đại đồn kết tồn dân, phải thường xun quan
tâm đến lợi ích của tất cả các tầng lớp nhân dân; chăm lo bồi dưỡng sức dân,
quan tâm đến lợi ích chính đáng, khơi dậy khát vọng cống hiến xây dựng đất
nước, xây dựng CNXH của mỗi người dân.
Nhìn nhận yếu tố con người là động lực của CNXH, hơn nữa là động lực
quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi cá
Trương Thanh Đồng


Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh


2
nhân với xã hội (súc mạnh cộng đồng). Người cho rằng, khơng có chế độ xã hội
nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động
sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của
CNXH. Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đua sự nghiệp xây dựng
CNXH đến thắng lợi. Người đặt biệt quan tâm đến đến hiệu lực của tổ chức, bộ
máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội
ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương. Hồ Chí Minh rất
coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng
mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, gắn liền
kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Cùng với khơi dậy, phát huy động lực về con người, về lợi ích vật chất và
tinh thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hố, khoa học,
giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH. Tất cả nhũng
yếu tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Vậy làm
thế nào để nhũng khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và khơng
ngừng phát triển? Hồ Chí Minh nhận thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của CNXH. Đây là hạt nhân trong hệ động
lực của CNXH. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng
thành công CNXH, phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
(ngoại lực); tăng cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yên nước phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa
học – kỹ thuật trên thế giới… Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định
rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính bì thế, Người
hay nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng ln chú

trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết họp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên
cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, chung sống hồ bình và phát triển.
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


3
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ
bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của CNXH. Người còn lưu ý
cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của
CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ cứng, khơng có sức hấp dẫn đó là chủ
nghĩa cá nhân và Người coi nó là "bệnh mẹ" đẻ ra hàng loạt bệnh khác, đó là
tham ơ, lãng phí, quan liêu... mà Người gọi đó là : "giặc nội xâm"; đó là các căn
bệnh chia rẽ bè phái, mất đồn kết, vơ kỷ luật, chủ quan, bảo thủ, giáo điều,
V.V..
Những yêu câu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Sau khi thực hiện tổng kết quá trình phát triển 10 năm từ 1976-1986, với
việc nhận định nhiều điểm hạn chế mang tính duy ý chí, nóng vội, chưa đạt kết
quả như mong đợi, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) đã phân tích một cách biện chứng mối quan hệ giữa phát
huy nhân tố con người với phát triển. Tư duy về mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế và mục tiêu vì con người được cụ thể hơn, hiện thực, rõ nét hơn khi gắn
mối quan hệ đó trong chính sách xã hội. Theo đó, ĐCSVN khẳng định: trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng
mục tiêu xã hội lại là mục tiêu của hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của
hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao
đọng, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất. Do

đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ,
mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Việc phát
huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của
mọi hoạt động. Cùng với việc tiến tới xóa bỏ cơ sở kinh tế - xã hội của sự bất
công xã hội, phải đấu tranh kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực, làm
cho những nguyên tắc công bằng xã hội và lối sống lành mạnh được khẳng định
trong cuộc sống hằng ngày của xã hội. Xét trực tiếp tới thực hiện công bằng xã
hội trong phát triển, Đại hội VI khẳng định: Tơn trọng lợi ích chính đáng của các
hoạt động kinh doanh hợp pháp, có ích cho xã hội. Ngăn chặn và xử lý nghiêm
khắc các nguồn thu nhập bất chính. Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


4
trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội nhân là trong các dịch vụ phục vụ đông đảo nhân dân.
Việc chăm lo con người trong phát triển không chỉ nhấn mạnh khía cạnh
chung, vấn đề đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng giới cũng được
Đại hội VI nêu ra. Là một quốc gia có nhiều cộng đồng các tộc người, nên việc
quan tâm đầy đủ quyền lợi và quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc được coi là một
trọng tâm trong mục tiêu phát triển con người. Trên cơ sở đó, giải pháp về sự kết
hợp giữa phát triển kinh tế với chăm lo phát triển con người, lấy con người làm
mục tiêu và con người là động lực phát triển kinh tế được Đại hội VI đề xuất:
hơn bao giờ hết, chúng ta luôn phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, xã hội
với kinh tế. Mục tiêu ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất khơng chỉ
là phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà còn là giải
quyết các vấn đề xã hội, từ công việc làm đến đời sống vật chất và văn hóa, bồi
dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực

hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao động là lực lượng sản xuất lớn nhất,
là chủ thể của xã hội.
Trên cơ sở tư duy Đổi mới của Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn
quốc lần thứ VII của Đảng thông qua đề ra chủ trương đầy đủ hơn nữa về con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế. Cương lĩnh nhấn
mạnh yêu cầu phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân; giữa đáp
ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội; bảo vệ tự do tơn giáo, tín ngưỡng và chống lợi dụng tự do tơn
giáo, tín ngưỡng làm tổn hại đến lợi ích Tổ quốc và nhân dân. Về biện pháp để
từng bước hiện thực hóa phương châm con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế, Cương lĩnh của Đại hội VII của ĐCSVN nêu rõ:
Thứ nhất, chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là
động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo, ý thức trách nhiệm chính trị, xã
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


5
hội, niềm tin của nhân dân đối với chế độ và công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chính sách xã hội nhằm chăm lo, bồi dưỡng xây dựng và phát
triển con người mới, con người có ý thức trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức
khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa, tình nghĩa, giàu lịng u nước và tinh
thần quốc tế.
Thứ ba, bảo đảm không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, nghỉ ngơi, dịch vụ y tế, việc làm và

điều kiện lao động; xây dựng mơi trường xã hội trong sạch, an tồn, vì sự phát
triển tồn diện của con người.
Thứ tư, chính sách phân phối theo lao động, khuyến khích làm giàu, tăng
thu nhập chính đáng, dựa trên kết quả lao động; đồng thời có chính sách bảo trợ,
điều tiết hợp lý thu nhập giữa các vùng, các bộ phận dân cư, thiết lập một hệ
thống đồng bộ về bảo hiểm và trợ cấp xã hội.
Thứ năm, chăm lo cho gia đình, thực hiện bình đẳng nam nữ, cải thiện
điều kiện sống, làm việc của bà mẹ, chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, chăm
lo đời sống người già, tàn tật, yếu thể trong xã hội.
Thứ sáu, phát triển các phương tiện truyền thông đại chúng đa dạng,
phong phú, hiện đại, nội dung thơng tin chân thực, bổ ích; phát triển văn học
nghệ thuật có nội dung nhân văn, dân chủ, vì cuộc sống tinh thần cao đẹp.
Thứ bảy, phát triển thể dục thể thao nâng cao thể chất của người dân.
Thứ tám, bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn
tài nguyên, giữ gìn cân bằng sinh thái cho các thế hệ mai sau.
Thứ chín, thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết tương trợ lẫn nhau
giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tơn trọng văn hóa, ngơn
ngữ, tập qn, tín ngưỡng; chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; có chính sách hỗ trợ
phát triển thích ứng với các vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu và vùng xa.
Thứ mười, thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo vệ tự do tơn
giáo, tín ngưỡng, chống mọi hành vi xâm phạm tự do tơn giáo, tín ngưỡng, làm
tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân.
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


6
Trên cơ sở các giải pháp được nêu trong Cương lĩnh Đại hội VII, tại các
Đại hội tiếp theo của ĐCSVN, vấn đề con người vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của sự phát triển kinh tế tiếp tục được nhấn mạnh và cụ thể hóa ở mức sâu
hơn. Nếu như tại các kỳ Đại hội trước đó, con người được nêu một cách tương
đối khái quát, thì đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, con người
được nhìn nhận như là nguồn lực của phát triển. Trong đường lối phát triển kinh
tế của Đại hội VIII của ĐCSVN, nguồn lực con người trở thành động lực cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Đại hội khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát riển nhanh và bền vững. Động viên
toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, khơng ngừng tăng tích lũy cho đầu tư
phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển
văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Con người và văn hóa trở thành thành tố mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể hơn, ĐCSVN nhấn
mạnh, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Cơng bằng xã hội phải thể
hiện ở khâu phân phối hợp tư liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất, ở việc
tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của
mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các
dân tộc, các tầng lớp dân cư.
Trong quan điểm của ĐCSVN lần thứ IX, con người được khẳng định
là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Như vậy, về vai trị của nhân tố con người trong phát triển kinh tế,
từ chỗ được xác định là quan trọng, chủ yếu, nền tảng thì đến Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam, con người trở thành động lực quyết định đến sự phát
triển. Con người đã được đặt đúng vào vị trí đối với q trình phát triển. Trong
phát triển kinh tế, con người được quan tâm chu đáo hơn. Giải quyết việc làm là
một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp, tạo nhiều việc làm mới,
Trương Thanh Đồng


Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


7
tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông
thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch
vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc,
bảo đảm an tồn vệ sinh lao động, phịng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho
người lao động. Khôi phục và phát triển các làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập
nghiệp của thanh niên và đào tạo lao động có nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ
hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo
hiểm xã hội và an sinh xã họi. Sớm xây dựng chính sách bảo hiểm đối với người
lao động thất nghiệp. Đó là những giải pháp cụ thể được Đại hội IX của ĐCSVN
đề ra nhằm hiện thực hóa hơn nữa phương châm con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực trong phát triển kinh tế.
Việc hiện thực hóa đường lối của Đại hội IX cũng như tinh thần Cương
lĩnh và các Đại hội trước đó đã đưa đến những thành tựu nổ bật, trên cơ sở đó,
Đại hội X của ĐCSVN xác định rõ hơn nữa khi cho rằng: đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến
của nhân dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực
tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa
của thành cơng. Con người khơng những là nguồn lực, có vai trị quyết định đến
phát triển, con người cịn là mục tiêu của q trình đổi mới, là căn cứ của đổi
mới và phát triển. Đại hội X tiếp tục làm sâu sắc thêm nhận thức về con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế qua nội hàm của thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Kết hợp các mục tiêu phát triển với các mục tiêu xã hội, thực hiện chính sách xã

hội trên cơ sở phát triển kinh tế; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển.
Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, 20 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991 (Đại hội VII), Đại hội XI của ĐCSVN tiếp tục nhất qn
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


8
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Theo đó, mục tiêu phát triển con người được cụ thể hóa hơn nữa ở việc chú ý tới
quyền con người. Phải đảm bảo quyền con người, quyền công dân để mọi người
được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi
khả năng sáng tạo và đảm bảo đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực để phát
triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công
bằng xã hội.
Cương lĩnh của ĐCSVN năm 2011 một lần nữa chỉ ra 9 giải pháp để
hiện thực hóa quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát
triển của xã hội, cũng có nghĩa là con người là trung tâm của chiến lược phát
triển đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội, gia đình, nhà
trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc
chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa,

nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường trực tiếp giáo
dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến
đấu phải là môi trường rèn luyện tác phong làm việc có kỷ luật, năng suất và
hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách
con ngươic và nền văn hóa Việt Nam. Như vậy, trong Cương lĩnh 2011 của
ĐCSVN, ngoài việc kế thừa những quan điểm từ các Cương lĩnh và quan điểm
của các Đại hội trước đó, Đại hội XI nhận thức sâu sắc hơn khi cho rằng con
quyền con người trong phát triển kinh tế gắn bó với lợi ích của đất nước, việc
Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh


9
phát triển kinh tế phải trở thành môi trường để hình thành và bồi đắp các giá trị
con người Việt Nam.
Đại hội XII của ĐCSVN tiếp tục cụ thể hóa Cương lĩnh phát triển đất
nước 2011, xét riêng về quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
trong phát triển kinh tế, Đại hội XII làm rõ hơn nữa nội dung về nhận thức về
con người trong phát triển: Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát
triển bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc; giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; bảo đảm hài hịa
về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm thích đáng tới các tầng lớp, bộ phận yếu
thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu.
Về nhiệm vụ, Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc
kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo mơi trường để hồn thiện
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã

hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc,
tự hào, tơn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tơn vinh cái đúng, cái tốt
đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh
phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu, chống các quan điểm
hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu làm tha hóa con người. Có giải pháp
khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của
con người Việt Nam.
Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của ĐCSVN khẳng định con người và nền
văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận
lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng
phát triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi
Trương Thanh Đồng

Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh


10
mới phát triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập
trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị
văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình
Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và
bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự
hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm
ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội

và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền
thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ mơi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các
hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới,
gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Có cơ chế,
chính sách, giải pháp để xây dựng mơi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành
mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Phát huy ý thức tự
giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội,
bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự chênh lệch về
trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội,
đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các
khu công nghiệp... Đề cao vai trị của gia đình trong ni dưỡng, giáo dục thế hệ
trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Phê
phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện
các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng mơi trường
văn hóa cơng sở lành mạnh, dân chủ, đồn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu,
bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, doanh nhân và kinh doanh.
Như vậy, kể từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, đến Văn kiện Đại hội
XIII của ĐCSVN hiện nay, sau hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và
Trương Thanh Đồng

Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh


11
phát triển đất nước, từ chỗ quan niệm về nhân tố con người còn sơ khai, khái
quát, đến nay tư duy và nhận thức về nhân tố nhân dân, con người trong mục
tiêu lãnh đạo cách mạng và phát triển đất nước của Đảng ngày càng trở nên hoàn

thiện. Trong mơ hình phát triển của Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực, là trung tâm, là động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Vị trí của nhân tố con người trở thành trung tâm
của sự phát triển kinh tế nói riêng và q trình phát triển tồn diện nói chung.
Đó là sự nhất quán xuyên suốt trong tiến trình lãnh đạo của ĐCSVN.

Trương Thanh Đồng

Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh



×