Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận triết_Sự du nhập của phật giáo vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.69 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA MÁC - LÊNIN
BỘ MÔN TRIÊT HỌC MÁC – LÊNIN

TIỂU LUẬN

SỰ DU NHẬP PHẬT
GIÁO VÀO VIỆT NAM

1


Mục lục:
Phần: mở đầu
Trang
1.1 Tính cấp thiết của đề tài……………………………1
1.2
Mục đích, nhiệm vụ…………………………………1
1.3
Đối tượng nghiên cứu………………………………1
1.4
Phương pháp nghiên cứu…………………………..1
1.5 Phạm vi nghiên cứu
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề
Phần: nội dung
1. Cơ sở lý luận về sự du nhập của đạo phật
2. Thực trạng phật giáo du nhập vào Việt Nam
2.1 Con đường du nhập
2.2 Bước đầu đạo phật du nhập vào nước ta
2.3 Quá trình phát triển của đạo phật Việt Nam
2.4 Đặc điểm của phật giáo Việt Nam


2.5 Tính tổng hợp
2.6 Tổng hợp giữa phật giáo và tín ngưỡng truyền
thống
2.7 Những đóng góp của phật giáo cho nền: văn học,
mỹ nghệ và triết học của Việt Nam
2.8 Thống kê một số thành quả của phật giáo Việt Nam
Phần: nhận định, kết luận và kiến nghị
3.1 Nhận định và kết luận
3.2 Kiến nghị

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Phật giáo du nhập vào Việt Nam như thế nào?Quá trình phát triển của
phật giáo khi vào Việt Nam? Giúp cho thế hệ trẻ hiểu rõ về một tôn giáo lớn
của Việt Nam.
1.2.MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ:
1.2.1. MỤC ĐÍCH:
Tìm hiểu về sự du nhập của phật giáo vào Việt Nam.Quá trình phát triển
của phật giáo?
1.2.2 NHIỆM VỤ:
Nói rõ về sự du nhập và quá trình phát triển của phật giáo Việt Nam.
Khơng ngừng tìm tòi và phát triển hệ thống giáo lý của Phật giáo là một hệ
thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng (ghi
lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm
luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này). Nhằm
làm nâng cao nhận thức của con người về đạo đức và lối sống lành mạnh .
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Phật giáo Việt Nam khi du nhập vào Việt Nam và các giai đoạn phát
triển của nó.
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trình bày tiểu luận thông qua các tài liệu lịch sử và tài liệu phật pháp.
1.5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Sự du nhập của đạo phật và 3 giai đoạn phát triển của nó
1.6 Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ:
Hiểu rõ con đường du nhập của đạo phật vào Việt Nam. Qua đó nắm
vững những giai đoạn hưng suy của đạo phật trong q trình phát triển của
nó.

3


PHẦN NỘI DUNG
1.CƠ SỜ LÝ LUẬN VỀ SỰ DU NHẬP CỦA ĐẠO PHẬT:
1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA ĐẠO PHẬT:
1.1.1. Lịch sử của phật thích ca
Đức Phật giáng sinh ở xứ trung Ấn Độ, bây giờ là nước Népal, một
nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một dãy núi cao nhất thế giới.
Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua
thuộc dịng Thích
Ca, là một dịng
họ lớn đã mấy
mươi đời nối
nghiệp trị vì đất
nước này. Bà
Hồng Hậu Ma
Da, cũng là một
người thuộc dòng

vua chúa đã lâu
đời. cả hai ông bà
vua Tịnh Phạn đều
là người đã nhiều
kiếp tu hành, có
đức hạnh lớn,
xứng đáng làm
cha mẹ mn dân.
Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có lễ
vía tinh tú, vua tơi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi
dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ mơn bố thí thức ăn, đồ
mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà nằm mộng thấy một con
voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà
mà chun vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe.
Vua ra lịnh mời các thầy đốn mộng. Các nhà tiên tri đốn rằng: "Hồng hậu
sẽ sanh một quý tử tài đức song toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngơi
báu từ đây sẽ có người truyền nối.
Đến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại
vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang
ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải
với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ
thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; sơng, ngịi, mương,
giếng nước đều trong đầy; trên hư khơng chim chóc và hào quang chiếu sáng
cả mười phương.
Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng
Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Đà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán
4



rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh.
Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tơng
đường mà thơi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên
đặt tên cho Thái Tử là Tất Đạt Đa *(Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ
sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám
chỉ đây tức là ngơi Vua. Ngài khơng ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là
chức vị Phật.
Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì
thấy mình đã làm trịn nhiệm vụ cao q, và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà
trút được xác phàm và sanh về cõi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử
cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng.
1.1.2. Cơ sở lý luận của đạo phật
Phật giáo là một trào lưu triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối
thế kỷ thứ 6 TCN ở bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra hệ thống triết học - tôn
giáo này là Tất Đạt Đa (Siddhatha), thái tử của vua Tịnh Phạn (Suddhodana)
thuộc bộ tộc Sakiya. Vị thái tử này (khoảng 563-483 TCN) đã từng theo học
các tu sĩ Bà La Môn từ năm lên bảy, kết hơn năm 16 tuổi, mười ba năm sau
đó sống trong cuộc đời vương giả, nhưng trong một đêm tháng Hai năm vừa
tròn 29 tuổi, đã lặng lẽ rời hồng cung đi tìm chân lý. Trải qua sáu năm với
những phương pháp tu luyện ép xác nhưng không đạt được chánh đạo, nhưng
chỉ sau 48 ngày nhập định, Tất Đạt Đa ngộ rõ căn nguyên sinh thành, biến
hóa của vũ trụ, căn nguyên của những khổ đau, và đề ra phương pháp diệt trừ
nỡi khổ đó cho chúng sinh, bằng học thuyết “Nhân duyên sinh” và triết lý
“Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên”, “Bát chánh đạo”. Con người này đã
đưa ơng trở thành đức Phật Thích Ca đầy uy nghiêm tinh thần trong đời sống
của người phương Đông hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Giáo lý nhà Phật tuy có nhiều tơng phái khác nhau, nhưng tựu trung những
điểm được đề cập sau đây vẫn là những nền tảng cơ bản.
Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn vận động, biến đổi, các
biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì khơng có trước, khơng

có sau, vơ thủy, vơ chung. Đó cũng chính là lẽ vơ thường, tức khơng có gì là
tồn tại cố định, mà có đó, mất đó. Con người cũng thuộc dịng chảy khơng
ngừng đó, nên khơng gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này,
nói theo ngơn ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, khơng xuất phát từ bên
ngồi, mà từ lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào
nghiệp báo mà biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và siêu
phàm, hoán chuyển từ cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ,
và nguyên nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử, là những ham muốn nhục dục,
xuất phát từ sự che lấp trí tuệ bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm
cho ta cố chấp trong việc phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã
chấp”, trọng cái ta, khiến con người ta vơ minh. Muốn thốt khỏi bể khổ thì
phải diệt dục, nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy sinh, đi theo con đường của bát

5


chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh,
chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.
Những giáo lý mang nặng tính triết lý, đạo đức này đã có một ảnh
hưởng sâu rộng lên phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của nhiều dân
tộc, trong đó có Việt Nam
2. THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM:
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu cơng
ngun với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy
Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung
tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra)
trong khoảng các năm 168-189
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp

từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác
ngộ) được phiên âm trực tiếp thành
Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong
các truyện dân gian. Phật giáo Việt
Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu
thừa, Bụt được coi như một vị thần
chuyên cứu giúp người tốt, trừng
phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ
4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến
từ Trung Quốc mà từ Bụt bị mất đi
và được thay thế bởi từ Phật. Trong
tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn
thành Phật.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà
Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất
cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là
quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 18, vua
Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất
sớm nên việc này khơng có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng
mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi
đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư
Khánh Hịa và Thiện Chiếu
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
• Từ đầu cơng ngun đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình
thành và phát triển rộng khắp;
• Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh;
• Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thối;
• Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

6



Đại thừa có ba tơng phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh
Độ tông và Mật tông.
Thiền tông (cịn được biết là Zen hay Ch'an) là một tơng phái Phật
giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung
Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Thiền là cách gọi tắt của Thiền na (Dhyana), có
nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để suy nghĩ (thiền) nhằm tìm
chân lý của đạo Phật. Tuy nhiên, theo Thiền tông, "thiền" không phải là "suy
nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm vọng tưởng", phân biệt và mầm mống của sanh tử
luân hồi. Cách tu theo Thiền tơng địi hỏi phải tập trung tồn bộ cơng sức và
thời gian cộng với phải có khả năng trí tuệ. u cầu đó chỉ có giai cấp trí
thức và thượng lưu mới có được nên Thiền tơng khơng dành cho giai cấp
bình dân. Cũng vì thế mà lịch sử Thiền tơng ở Việt Nam có lịch sử rõ ràng
hơn cả. Mặc dù, theo Thiền tơng, cái trí do học vấn, kiến thức là "trí hữu sư",
cũng là giả tạm, vay mượn mà thơi. Khơng thể dùng cái trí đó để ngộ được
Chân Tánh.
Dịng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ
Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi
đến Việt Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc
huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền.
Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ. Dịng thiền tu thứ hai do Vơ Ngơn
Thơng, người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã
Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời.
Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Quốc, vốn là tù binh bị bắt
tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tơng giải phóng khỏi kiếp nơ lệ và
cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền được
đến 6 đời. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư
Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Đông
Triều, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên

Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái
Tào Động dưới thời Trịnh-Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ sở
tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên
một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế dưới
thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam).
Thiền tông Việt Nam đề cao cái "tâm". "Phật ở tại tâm", tâm là Niết
Bàn, hay Phật. Trần Nhân Tơng viết:
“Nơi mình có ngọc, tìm đâu nữa / Trước cảnh vơ tâm, ấy đạo Thiền”.
Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên sự giúp
đỡ ở bên ngoài. Sự giúp đỡ bên ngoài này rất quan trọng đối với phần đông
mọi người không đủ tự lực để tu. Phật Thích Ca Mầu Ni có lần thuyết giảng:
"Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng
nếu một hịn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi". Ngược lại với
Thiền tơng là dành cho tầng lớp trí thức, thượng lưu, Tịnh Độ tơng dành cho
giới bình dân.
Trong Tịnh Độ tơng, có tồn tại một cõi "Niết Bàn cụ thể", một "cõi Niết

7


Bàn ở trần gian" gọi là cõi Tịnh Độ (có nghĩa là "yên tĩnh, trong sáng"), được
hình dung như cõi Cực Lạc, do đức Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) cai
quản. Việc tu hành được mở rộng ra những hành động đơn giản như đi thăm
chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ cách như vậy mà Tịnh Độ tông là tông
phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân tụng
niệm câu "Nam mơ A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy theo đức Phật A
Di Đà"). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ
rất lâu đời.
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu
huyền bí để nhanh chóng đạt đến giác ngộ. Tương truyền rằng Mật giáo do

đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tơng có hai bộ kinh cơ bản là kinh Đại
Nhật và kinh Kim Cương.
Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tơng phái
riêng mà nhanh chóng hịa lẫn vào dịng tín ngưỡng dân gian với những
truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,..
2.1 CON ĐƯỜNG DU NHẬP:
Ngày nay, căn cứ các tài liệu và các lập luận khoa học của nhiều học
giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào
Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây
Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
2.1.1. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu :
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ
các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi
dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa
mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng
này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn
dương này, các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu
nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo
Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung
tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch
sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda-con vua A dục
(Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam . Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái
cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương
thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước cơng ngun 2879-258). Đó là
câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng
Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp
với người nước ngồi. Một hơm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc
đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một
túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật . Qua dữ
kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào

Việt Nam khá lâu trước Tây lịch.
Một bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải
8


Phịng viết: "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành
Nê Lê nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước
Tây lịch, Đạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta" . Và Thiền Uyển
Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu
Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt Nam
vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa
Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn
chứng lời pháp sư Đàm Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604
TL): "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới
tới, thì Giang Đơng (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20
ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào
lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương
Lương, Mâu Bác tại đó" . Ma Ha Kỳ vực, Khâu Đà La (188 TL) người Ấn
Độ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170 TL) người Trung Hoa; Khương Tăng
Hội (200-247 TL) người Ấn Độ; Chi Cương Lương (?-264 TL) người xứ
Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào
khoảng thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử
ghi lại tên tuổi, kỳ thực đây khơng phải là phái đồn truyền bá đầu tiên đến
Việt Nam, vì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch
chắn chắc đã có nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên
Pháp sư Đàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác
phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử
có thể cho chúng ta một kết luận chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền
trực tiếp vào Việt Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ

Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Đạo Phật
đồng thời được truyền vào Việt Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2.1.2. Phật Giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ:
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là
con đường tơ lụa ( con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông
Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ
Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc
Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua
vùng Tây Tạng và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt
Nam. Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các
thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua
đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến
đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên
một nhánh của con sơng Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng
Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương
quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước cơng ngun. Rất
có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà
đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên
9


quan đến sự giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những
chứng tích mà lịch sử cịn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo
lịch sử Phật Giáo Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ
Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa
Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá
chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đơng, trong đó có đồn của hai vị
cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana -Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy
có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý kiến trong quyển lịch sử

Phật Giáo Thế Giới thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán đảo Đông Dương
từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được sách Lịch Sử Phật
Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai vị cao
tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật
Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan
truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu
tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê
Lê chính là Đồ Sơn hiện nay (cách Hải Phịng khoảng 12km)".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng
rằng Phật Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng
những phương tiện hịa bình và vì thế khơng một giọt máu nào đã chảy,
khơng một giọt lệ nào rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.
2.2.

BƯỚC ĐẦU ĐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA:

Vì quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai
thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy Kinh điển Phật
giáo và nghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng
kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước
ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).
Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy
người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thể có hào
quang bay trên khơng đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua
mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được Kinh Tứ Thập Nhị
Chương và mời được hai vị Tăng Ma Ðằng Ca Diếp và Trúc Pháp Lan. Trong
mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch Kinh,
xây Chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng Kinh Bát Nhã
ở Kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt
đầu.


10


Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ
18 (chấm dứt vào năm 258
BC) được nhà sư Phật Quang
(còn gọi là sư Bần, người gốc
Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho
cây gậy và chiếc nón. Tích này
được ghi lại trong Lĩnh Nam
Chích Qi. Chử Ðồng Tử
được thờ ở đền Trung, trong
cụm đền thờ vua Hùng tại núi
Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở
phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên. Chử Ðồng Tử là thương
gia buôn bán đường sông,
quen biết nhiều. Sau khi
truyền pháp cho vợ là công
chúa Tiên Dung, hai người bỏ
hẳn việc buôn bán mà lo mở
rộng việc truyền pháp.
Mặt khác, cũng có những
bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara
do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng Tháp tại thành Nê
Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật
pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở
vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy Tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt
Nam Phật giáo Sử Lược (tr. 69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn

Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo
Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ
Kalinga sang phía Ðơng rồi xuống Nam vì “cơn sốt ” mua bán vàng có thể
đưa một số Tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền bn tới nước ta. Có thể sự thơng
thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC,
Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh
Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp
Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương
hay nhà Ân (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê
Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang
theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).
Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thơng trong ca dao còn truyền
tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật giáo du nhập
vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung
Quốc Huyền Trang tạo ra khi dịch Kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát
(Lịch Sử Phật giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập
Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã
tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.
Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật

11


Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu:
Giao Châu có đường thẳng thơng với Thiên Trúc. Khi đạo Phật mới tới Giang
Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngơi bảo sát
(Chùa), độ được hơn 500 vị Tăng, dịch 15 cuốn Kinh. Năm 255, Khương
Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh
thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngơ
là Tơn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ

Khương Tăng Hội khơng bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép
hoằng dương Phật pháp.
Phật giáo tại nước ta đã có Chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng
Vương (trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng Chùa Khai Quốc
trên nền cũ của Chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây)
đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi Chùa
đầu tiên tại Trung Quốc là Chùa Bạch Mã ở Kinh đô Lạc Dương xây cất
khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca Diếp và Trúc Pháp Lan chứa Kinh
và dịch Kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.
Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi
tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi Chùa, mộ
được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp
xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cơ Thiều Hoa lại trở về
Chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi
cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm
Khê, Hai Bà trầm mình xuống sơng Hát, cuộc khởi nghĩa của Trưng Vương
chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó
có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh
trừng quy mơ, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðơng Việt vào đất
Giang Hồi và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là “chủ soái”
lưu đày ra Linh Lăng. Phật giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới
che chở được những Tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa
quy mơ và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.
Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư
cơ Thiều Hoa (cịn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời Chùa đi cứu nước mà chỉ
trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của Bà đã
có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429
mới có một ni đồn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn
ni chúng người Hoa.
Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh.

Các đại sư và Kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai
nhân vật kiệt xuất là Mâu Tử và Khương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại
sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180,
thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ơng bắt đầu để
ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngơ cưới
vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu
nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc
12


Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ơng phản bội Nho
mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật giáo Việt Nam 1,
tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung
Quốc và Nhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật giáo đầu tiên bằng Hán văn,
trình Bày khả năng của Phật giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh
vực xử thế.
Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được
thọ giới theo nghi thức “Tam Sư, Thất Chứng”tại Giao Châu. Mối liên hệ
Thầy trị trong Tăng đồn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba Thầy tịch,
Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm
Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức
“Tam Sư Thất Chứng”, nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm
247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc)
hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả Kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông
là người giảng Kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá
Chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngơi. Khương Tăng Hội góp cơng lớn
phục hồi Phật giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển Kinh ra
Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương
Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của

ơng là cho Phật giáo Trung Quốc.
Khương Tăng Hội khơng phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi
nguyên, Phật giáo VN đã là chỗ dựa của Phật giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4,
nhiều Tăng sĩ Trung Quốc tìm đến Chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) cầu học về
Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm
Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận
tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật giáo Trung Quốc.
Tóm lại, từ khởi nguyên Phật giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật
giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế
kỷ đầu, Phật giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật giáo Trung Quốc.

2.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO PHẬT VIỆT NAM:
2.3.1 Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình
thành và phát triển rộng khắp:
Đạo Phật được truyền bá vào đất Việt từ buổi đầu Tây lịch và tồn tại,
diễn tiến, lúc thăng lúc trầm, từ đó cho đến tận ngày nay.
Đạo Phật tới đất Việt vào lúc tổ tiên ta đang rên xiết dưới ách thống trị
của nền quân chủ chuyên chế phương Bắc. Dân ta tiếp thu được ngay tinh túy
tự do, bình đẳng, tinh tấn của Đức Phật. Đức Phật dạy: "Ta là Phật đã thành
(Phật, tiếng Phạn là Buddha, tức là người đã giác ngộ) cịn tồn thể chúng
sinh là những đức Phật sẽ thành" (ai cũng có thể giác ngộ). Nhân dân ta tiếp
thu được ngay tinh thần Đại Hùng, Đại Lực, Đại Trí, Đại Từ, Đại Bi... của
Đức Phật nên một mặt rất anh dũng đấu tranh lật đổ mọi ách đô hộ thực dân

13


của giặc ngồi, mọi "hơn qn ám chúa", quan tham lại nhũng ở trong nước,
một mặt khác củng cố, phát triển tình thương trong gia đình, họ hàng, xóm
làng, vùng miền, đất nước, mà đỉnh cao nhất là: "Thương người như thể

thương dân, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Một mặt, trong
đời sống thường ngày dân ta cố gắng ăn ở hiền lành ("hiền lành như Bụt"),
nhưng một mặt khác, khi trong xã hội còn những thế lực Dữ-Ác thì dân ta
cũng biết phát huy trí tuệ và tinh thần, sức lực Hùng-Dũng để diệt trừ Dữ-Ác,
từ con hổ dữ ở rừng núi, con thuồng luồng ác ở sơng biển đến kẻ ngoại xâm,
nội thù. Chẳng phải lìa xa tinh thần Phật Giáo mà từ thế kỷ VI (542-602) Lý
Phật Tử (Phật tử họ Lý) tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Lý Bí khi trở thành
Lý Nam Đế (vị hoàng đế đầu tiên của nước Nam), việc đầu tiên là xây dựng
chùa Khai Quốc (Chùa Mở Nước, sau đổi là chùa Trấn Quốc, nay ở sát Hồ
Tây, Hà Nội). Giới nghiên cứu Phật học đều nhất trí cho rằng chính các thiền
sư như Cảm Thành (860), Định Khơng (808) cùng trưởng lão La Q An,
Thiền Ơng (936) v.v... đã chuẩn bị cho nền tự chủ lâu dài của nước Việt từ thế
kỷ X (938) và trước đó "Đạo Phật đã ngấm vào lòng người dân như nước
ngấm vào lòng đất". Biết bao vị thiền sư (Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Đa Bảo,
Viên Chiếu...) mà đứng đầu là đại sư Khng Việt (933-1011) đã góp phần
tích cực vào việc củng cố và giữ gìn nền độc lập dân tộc, trong mọi lĩnh vực
đối nội, ngoại giao, văn hóa, xã hội.
2.3.2 Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh:
Giới sử học hiện nay đã thống nhất gọi nền quân chủ Đại Việt thời
Đinh-Lê-Lý-Trần (968-1400) là
nền Quân chủ Phật giáo với sự
xuất hiện của nhiều vị vua nhân
từ, hỉ xả... như Lý Thái Tổ, Lý
Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý
Nhân Tông... Trần Thái Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Minh
Tông v.v... cùng các bậc lãnh
đạo khác, thời ấy, như Thái úy
Lý Thường Kiệt vị ngun sối
"phạt Tống, bình Chiêm" mà

văn bia của một vị thiền sư viết:
"Ông Lý tuy thân phải dấn trong
cõi đời bụi bặm, nhưng tâm từ
lâu đã thuộc Phật", như thái hậu
Ỷ Lan bàn bạc cùng quốc sư
Thông Biện và bậc đại thiền sư
khác về lịch sử và yếu chỉ của Phật Giáo Việt Nam, trị quốc thay vua để vua
đi đánh giặc, cấm lạm sát trâu bò để phát triển nền sản xuất nông nghiệp, bỏ
tiền kho để chuộc các cô gái nhà nghèo bị gán nợ cho nhà giàu làm tôi tớ, rồi
gả chồng cho họ - đúng với tinh thần "bố thí" của Phật giới...
Như vậy, đạo Phật nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng đâu phải
14


là "tiêu cực", "xuất thế" như đã có lúc nhiều người mê lầm, tưởng bậy, mà có
đủ tinh thần "nhập thể" dấn thân tích cực cứu đời. Biết bao nhiêu vụ - mà chỉ
xin phép kể một vị điển hình: Thượng sĩ Tuệ Trung (Trần Quốc Tung sinh
năm 1230), "ngọn đèn tổ của Phật Hồng" (Trần Nhân Tơng) thời bình thì
mặc áo cà sa ở chùa núi, lúc có giặc Ngun-Mơng thì khốc áo tướng qn
đi dẹp giặc, giặc lui thì cởi "giáp binh" trở về chùa núi... đạt tới tột cùng
"Phật đẳng hằng sa"...
2.3.3 Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái:
Xưa nay, trong lịch sử Việt Nam, chỉ thấy nhà Nho bài Phật (rồi về già
lại hối hận như Trương Hán Siêu đời Trần) song các bậc đạo Nho như
Nguyễn Trãi, Lê Q Đơn, Trạng Trình, Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan,
q Phùng Xá, Hà Tây), cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến v.v... già
đều chống gậy lên chùa thăm các sư, đàm đạo giáo lý và việc đời cùng các
sư. Lý Thánh Tông là đệ tử của Thiền sư Thảo Đường song lại chính là người
sai xây dựng Văn Miếu thờ đức Khổng Tử. Cịn con ơng là vua Lý Nhân
Tơng cùng đức Bà Ỷ Lan, rất sùng Phật nhưng lại là người tổ chức kỳ thi

Nho giáo đầu tiên ở nước ta (1075). Thí dụ cịn nhiều lắm, kể sao cho xiết.
Lý – Trần (1010-1398): thời kỳ Đạo Phật Việt được coi là quốc giáo –
thời kỳ mà lịch sử ghi là một thời đại văn minh thịnh trị nhất của nước ta.
Nhưng sau đó, nhân tài Phật Giáo thưa thớt, tiêu điều như cảnh lá mùa thu,
nên khơng cịn đủ khả năng và uy tín giữ địa vị lãnh đạo tinh thần (sư giả
nhân chi mơ phạm) của mình nữa thì, lẽ tất nhiên Phật giáo phải suy thối.
Nhà Hồ diệt nhà Trần, tiếp theo giặc Minh xâm lược nước ta, ròng
rã hơn hai mươi năm, mãi đến năm 1428, Bình Định vương lê Lợi mới đánh
đuổi được giặc Minh ra khỏi đất nước, nối lại nền tự chủ của các tiền triều.
Nhà Lê lấy Nho giáo làm kỷ cương trị nước. Cịn Phật giáo và Lão giáo thì bị
bỏ rơi. Nhà Lê cai trị đúng một trăm năm thì bị nhà Mạc lật đổ. Tiếp sau là
thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Rồi đến Pháp cai trị nước ta (1862-1945).
Con người sống dưới thời Lê (và cả sau này nữa) thi đua học đạo thánh hiền
(Nho giáo), đa số là những con mọt sách, ngày đêm miệt mài với những pho
kinh sử văn chương hoa mỹ (nhưng vô hồn); chen chân nhau trên bước
đường khoa cử1 để có dịp tiến thân, ra làm quan. Đầu óc họ chất nặng những
mặc cảm tự tơn, tự đại: chỉ nhận có “đạo thánh hiền” mới là chính đạo, ngồi
ra đều coi là tà giáo cả!

15


2.3.4 Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng:
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền,
nước ta rơi vào vịng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay
lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và
dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy
tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua khơng cịn
được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX
nhưng Phật Giáo vẫn là tơn giáo chính của dân tộc, đóng vai trị hịa giải giữa

các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc
lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong khơng khí tưng bừng của
phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung
Hoa, Ấn Độ và Miến Điện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào
chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và
xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra
mắt tại chùa Từ Đàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội
đã mở các Phật Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo
Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Định có hội Phật Học
Bình Định, ở Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại
miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và vận động
phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ ra đời,
đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Năm 1933
Liên Đồn Học Xã ra đời. Năm 1034, hội Phật Học Lưỡng Xuyên ra đời,
xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học đường Lưỡng Xuyên.
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được đào
tạo qua nhiều trường lớp và phát triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây
dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi
chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời
kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Khất Sĩ Việt
Nam, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ..Một yêu cầu thống
nhất Phật Giáo được đặt ta tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế, hội chủ là Hịa thượng Thích
Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung,
Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi
Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và văn hóa, tiếp tục xây dựng con người
và xã hội Việt Nam. Điểm đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX
là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để

thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Giáo Hội này hoạt động
cho đến năm 1981 thì ngưng hoạt động trong nước, nhưng có văn phịng hai
Viện Hóa Đạo đặt tại tiểu bang California, Hoa Kỳ, hoạt động rất mạnh.

16


2.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
Phật giáo Việt Nam không phải là Phật giáo thuần khiết, Phật giáo được
hịa trộn với các tín ngưỡng truyền thống và hịa trộn với các tôn giáo khác
tạo nên một Phật giáo đặc biệt của riêng Việt Nam.
2.5. TÍNH TỔNG HỢP:
Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nơng nghiệp, chính
vì thế tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
2.6. TỔNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGUỠNG TRUYỀN
THỐNG:
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ
Thần trong miếu, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-MưaSấm-Chớp. Hai hệ thống này tổng hợp với nhau ở Việt Nam tạo nên các ngôi
chùa tiền Phật, hậu thần. Đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,
anh hùng dân.

2.7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO CHO NẾN : MỸ NGHỆ,
VĂN CHƯƠNG VÀ TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM:
Từ Trung Hoa Phật giáo được truyền sang Việt Nam lối cuối thế kỷ thứ
hai, nghĩa là cách nay
trên một ngàn bảy trăm
năm, sau Khổng giáo.
Bốn trăm năm sau, liền
khi Việt Nam chấm dứt
quyền đô hộ của người

Tàu, Phật giáo bắt đầu
phát triển mạnh, nhờ sức
hộ trợ của các quốc
vương, và từ đó tiếp tục
bành trướng khơng gián
đoạn ln cả về hai mặt rộng và sâu, dầu rằng đã phải có một đơi khi gặp sự
tranh chấp đố kỵ cũa Khổng giáo và Lão giáo. Trải qua một khoảng thời gian
lịch sử khá lâu, từ năm 968 đến 1314, Phật giáo còn được nâng cao lên đến
hàng quốc giáo. Dưới hai triều Lý, Trần, nhiều vua đứng ra nêu gương tu
hành tinh tấn, thậm chí có vị đã từ ngơi lánh tục, vào núi tham thiền. Chuyện
nghĩ cũng lạ và giá không bị bắt buộc phải đứng yên trong phạm vi bài thuyết
trình này, có lẽ tơi đã thử nghiên cứu trường hợp của các vị đạo tâm cao cả
này và chắc sẽ có nhiều thú vị.
Như đã nói, Phật giáo thời bấy giờ chiếm một địc vị gần như độc tôn.
17


Địa vị ấy, đến ngày nay, Phật giáo còn nắm giữ, đành rằng không phải công
khai như thuở xưa, mà trong thâm tâm của một đa số rất quan trọng. Cứ vào
đây mà xét thì dễ đốn biết ảnh hưởng của Phật giáo lớn lao như thế nào ở
trên đất Việt và những gì q báu mà Phật giáo đã cống hiến cho việc xây
dựng nền luân lý và đạo đức của một dân tộc hiền hịa, chất phác, hình như
sinh ra là để nghing đón đạo Từ bi.
Chính dưới nét đậm Từ bi này của con người đức Phật mà giáo lý của
ngài được người dân Việt hiểu biết và tán thán. Các nghệ sĩ, hiền triết, văn
nhân thời xưa, không ai là không nhuần thấm đạo Từ bi; đến nay vẫn cịn
đơng số người trong ba giới này tiếp tục chịu ảnh hưởng gương xả thân cứu
đời của Phật tổ.
Một tác giả Tây phương, khi vẽ lại con đường lịch sử của nền Triết học
Trung hoa, có viết: "Phật giáo là ảnh hưởng ngoại quốc đầu tiên đã thúc đẩy

mạnh bước tiến triển của dân tộc Trung hoa trên phương diện tâm lý, nhờ đó
chẳng những tơn giáo mà các ngành khác của nền văn minh trong nước đều
được phục sinh, vun bón và phát đạt đến cực độ. Bất luận ai, dầu là người
chưa từng hiểu biết đời sống tinh thần của dân Trung hoa đi nữa, chỉ một liếc
mắt qua những cơng trình tuyệt tác của nghề nặn tượng cũng nhận rằng nền
mỹ nghệ xứ này đã bắt nguồn thâm sâu ở tinh hoa Phật giáo, cho đến nỗi khi
Phật giáo đạt đến mức tối huy hồng, thì mỹ nghệ cũng theo đà mà đơm hoa
kết quả sum mậu lạ thường".1 Chúbng tôi tưởng lời nghiệm xét của tác giả có
thể chuyển sang nguyên vẹn cho việt Nam, khỏi sửa đổi một điều nào, đối
với khoa kiến trúc, điêu khắc và hội họa. Những chùa chiền, tranh tượng cịn
sót sau những tang thương do thời gian và chiến tranh gây ra, cũng như
những cơng trình khảo cổ trước năm 1945, đều chứng tỏ ảnh hưởng to tát của
Phật giáo trong địa hạt này.
Giáo sư Paul Mus cho rằng trongng về một vài phương diện, nhà nghệ
sĩ thường gần các thiện tín hơn là nhà tu sĩ để diễn đạt những gì họ q
chuộng và lo nghĩ hàng ngày. Điều ấy hẳn đã vậy, nhưng ở Việt Nam, vai
tuồng đó, nhà nghệ sĩ hình như đã nhường lại cho nhà văn sĩ, nhứt là thi sĩ, và
những thi sĩ này cũng là những bậc triết gia xuất sắc. Sở dĩ như thế là vì dầu
biết thích ngắm những cái dáng mỹ miều, những màu sắc cân đối, người Việt
vẫn chỉ cảm xúc thật sự trong những rung động của âm thanh. Tại sao thế?
Thật khó mà giải thích. Xu hướng đó làm cho người Việt rất mê thích ca
nhạc, chẳng những lối nhạc của đờn sáo mà thơi, mà cịn và nhứt là lối nhạc
khơng kém du dương và uyển chuyển của câu thi lời phú. Vì vậy, chúng tôi
thiết nghĩ, muốn biết nước Việt đã hưởng được những lợi lạc gì sau mười bảy
thế kỷ quy y Phật pháp, cần phải hướng sự tìm tịi về nẻo văn chương hơn là
về nẻo mỹ nghệ. Sách vỡ mới thật là kho tàng của tư tưởng. Và cũng khơng
cần moi tìm ở đâu nữa, vì trong Văn chương đã có sẵn Triết học, bằng cớ là ít
có một áng văn hay nào mà trong đó khơng lồng một vài triết lý hay luân lý.
Đến đây, cần phải đi lùi lại thế kỷ thứ sáu, lúc các am tự vừa là những
nơi phát huy ánh sáng của đạo Phật, vừa là lò đào tạo các bực tao nhân mặc

khác. Nên nhớ rằng thời ấy khơng có trường cơng, và trong đám thanh niên ít
người học Nho, ngoại trừ nhà Sư. Camn thấy trong giáo pháp Phật đà có
18


những đạo lý cao siêu, huyền diệu, các tu sĩ, bất mãn với lối khẩu truyền, bèn
cố gắng học Hán tự để tham khảo kinh điển cho đến chỗ tinh vi. Đời này
sang đời khác đã thành một cái lệ, kịp đến khoảng giữa năm 1010 và 1225,
dưới triều nhà Lý, ngồi chốn Thiền mơn, thật khó mà tìm một thi sĩ có tài.
Thiền mơn thật, vì các văn gia nổi tiếng thời ấy đều là những Thiền sư do các
Tổ Thiền tông từ Trung hoa sang đào luyện. Tuy sâu xa khó hiểu cho đại
chúng, văn phẩm của các ngài khơng vì lẽ đó mà khơng làm tăng uy thế của
Phật giáo lúc ấy đã lan tràn gần khắp nơi.
Từ thế kỷ mười lăm, tình thế bị đảo lộn: Nho giáo đã thắng Phật giáo và
được nhà vua tin dùng, ủng hộ. Tuy thất bại chốn triều trung, Phật giáo vẫn
sống vững torng tâm hồn của dân chúng đã được mấy trăm năm giáo hóa, để
rồi nhân phong trào "Tam giáo qui nhứt" ở Tàu mà phục phát một cách mạnh
mẽ như trước. Các Nho gia hình như cũng nhận chịu phong trào ấy, cho nên
sau một lúc do dự, đã cùng các bực tiền bối Trung hoa, cho rằng muốn có
một thực học, cần phải tham bát tam giáo là Nho, Thích, Đạo. Nhờ phong
trào ấy, mà phạm vi hoạt động của văn chương và triết học được nới rộng ra
nhiều.
Những tiến bộ về mặt văn chương trong thời kỳ vừa nói thật đáng kể,
nhưng chưa quan trọng bằng những kết quả thâu lượm được ở hai thế kỷ 17
và 18, sau khi "chữ nôm" được sáng tạo. Còn lúc nào thuận hơn cho việc
truyền bá tư tưởng? Tác giả và độc giả chúng nói một thứ tiếng, tất cả những
trở ngại vì âm thanh bất đồng, vì lối nói xi ngược do chữ Nho tạo ra, đều bị
chữ nôm dẹp hết, thành ra sự học hỏi được dễ dàng và mau lẹ hơn một phần
nào. Sự kiện ấy đã giúp rất nhiều cho công cuộc bành trướng phong trào Tam
giáo qui nhứt.

Nay xin xét sơ phong trào này. Trước hết nên ghi rằng, tuy có sự tin
tưởng sai khác giữa ba mối đạo, ở Trung hoa cũng như ở Việt Nam, chưa hề
có một sự cuồng tín đến đổi gây họa đổ máu như ở một vài nơi trên thế giới.
Lại nữa, trong khi tìm hiểu giáo lý của đối phương để dễ chiến thắng, mỡi
đạo có lẽ đã thấy, tuy ngồi có chỡ trái ngược nhau, ba giáo tựu trung vẫn
đồng trên một căn bản. Thí dụ: Nho giáo tin ở quyền thưởng phạt của Trời,
nhưng cũng nhìn nhận trách nhiệm của người. Thế thì giữa thuyết này và luật
nghiệp báo, sự sai khác quá mỏng manh khiến cho đơi bên khơng thể nào
khơng dung hịa được. Vả lại, dầu ai nói gì đi nữa, cái thực dụng chủ nghĩa
của Nho giáo quá thiên về vật chất cho nên không làm sao thỏa mãn được
những khát khao về mặt thiêng liuêng, huyền bí là sự khao khát chung của
nhân loại. Thật thế, thử hỏi trên thế gian này, dân tộc nào khơng tìm tịi xem
biết coi cảnh bên kia thế giới là như thế nào, chết rồi sẽ ra sao, tương lai có
những gì, v.v.., tồn là những câu hỏi mà không sao kiếm được câu trả lời dứt
khoát torng giáo lý của họ Khổng. Các văn gia thi sĩ của Việt Nam chắc
không tránh khỏi những thắc mắc vừakể . Thiết nghĩ có giải thích như thế
này mới hiểu được nguyên ủy việc xáo trộn những tư tưởng rất cách biệt
nhau ở chỗ nguồn cội. Đứng về mặt thực hành, phải nhìn nhận rằng chủ
trương Tam giáo qui nhứt rất là hợp lý, vì bề ngồi là hợp mà bề trong có
chia, và chia đây chỉ là chia phạm vi hoạt động và ảnh hưởng thế nào cho cân

19


xứng với tính cách của mỡi đạo. Đại khái, Nho giáo thì lo về nhân sự, tu tề
như thế nào để đi đến chỡ trị bịnh, cịn Phật giáo và Đạo giáo thì lo giải quyết
những vấn đề cao siêu hơn.
Đứng về mặt thuần túy mà xét, sự xáo trộn ba đạo như vừa nói, thật
khơng phải là một việc đáng mong, nhưng nếu đứng về kết quả mà luận, thì
thấy rằng nhờ có sự xáo trộn đó mà lịng người dường như bớt xao xuyến lo

âu, tánh tình phong tục mới được tốt đẹp, chưa kể cái việc giúp cho quảng đại
quần chúng thâm nhiểm được đôi phần những giáo lý phổ thông mà mỗi đạo
cần phải truyền bá vì sự lợi ích riêng của chính mình.
Khảo cứu tỉ mỉ được những áng thi ca bằng chữa nôm – chúng tơi
khơng nói đến những văn xi, vì thời bấy giờ loại văn này rất ít – chắc chắn
sẽ làm sáng tỏ phương diện lợi lạc của cái mà người bất thức thường xem
như một món "tả bính lù" hay như một tà giáo khó tha thứ. Ở đây chúng tơi
xin phép dẫn Truyện Kim Vân Kiều làm thí dụ. Truyện Kiều là một áng văn
vần tuyệt tác, không tiền khoán hậu, âm thanh tao nhã, thi vận êm đềm, khiến
cho người đọc dễ cảm, huống chi từng hồi lại còn thêm những ý tứ cao siêu
đượm nhuần hương từ bi giác ngộ. Thật khơng q đáng mà nói rằng, với bao
nhiêu nhân tình thế thái rất gần với đời sống xã hội thực tế đã được diễn tả
thần tình trong đó, Truyện Kiều có một hiệu lực bằng cả ngàn sách luân lý
hay triết học trong công cuộc chiến đấu để đem thắng lợi về cho Từ bi, Hỷ
xả, Thanh cao. Ngay đến thời bây giờ, dầu xa cách hàng trăm năm và dầu dân
trí có hướng về tân học, Truyện Kiều vẫn còn được kẻ này xem như một
quyễn Việt ngữ bách khoa hay như một kinh văn tơn q, người khác như một
khn vàng thước ngọc cho việc xử thế tiếp vật. Còn đối với tất cả, có thể nói
đó là một quyển Phật giáo yếu lược cho hạng sơ cơ rất là tiện lợi. Được mọi
giai cấp xã hội nồng nhiệt đón tiếp, nam thích mà nữ cũng ưa, Truyện Kiều
đã đem đến và còn tiếp tục thức tỉnh về luật nghiệp báo nghiêm minh, lòng
hâm mộ sự an lạc của những tâm hồn vô dục và…. Khuyên bảo mọi người
phải dè dặt, đừng làm thất nhân tổn đức mà phải chịu tái sanh trong đau khổ.
Có người sẽ bảo: như thế thì q tầm thường, chưa phải là Phật giáo. Vâng,
nhưng những tâm hồn thơ ngây có địi hỏi nhiều hơn đâu và chính họ mới là
những người đáng để ý, vì hình như tại có họ mới có tơn giáo…
Trước khi chấm dứt bài thuyết trình ngắn ngủi này, xin nói thêm rằng,
cho đến ngày nay, Phật giáo vẫn còn là nguồn cảm hứng cho kịch giới, nhiều
thuần phong mỹ tục đều nhờ Phật giáo mà tồn tại, nhiều truyện xưa tích cũ
chịu ảnh hưởng đạo Phật cịn được người trong xứ ứ thích, nhiều ca dao, cách

ngơn cịn căn cứ tren6 nền tảng Phật giáo. Nếu Phật giáo là nguồn nước để
giải khát cho hàng trí thức, Phật giáo cũng là giọt sữa để nuôi dưỡng những
đạo tâm nồng nhiệt, là ngọn đuốc soi đường cho kẻ say mê lạc lối, là bờ giác
đề cho người đắm đuối quay về. Cửa Thiền là nơi mà các bực tín tâm đến
chiêm ngưỡng mà cũng là đám vườn xanh giữa bãi sa mạc chờ đón những ai
q khổ vì nóng bức.
Vì thấm nhuần đời sống hằng ngày của dân chúng một cách mật thiết
như thế, đạo Phật hiện nay đã trở thành một nhu cầu tối yếu cho người dân
Việt. Trước kia là một đạo của xứ ngoài, Phật giáo nay là một đạo của dân
20


tộc.
2.8. THỐNG KÊ MỘT SỐ THÀNH QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT
NAM:
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật Giáo Việt Nam đã trải qua bao thăng
trầm, lúc thịnh lúc suy, có lúc thống
nhất, có lúc phân tán, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật
Giáo Việt Nam đã được thống nhất
từ Bắc chí Nam. Các hệ phái phật
giáo vẫn được bảo lưu, nét đặc
trưng trong pháp môn tu hành vẫn
được tôn trọng, hệ thống chùa
chiền, tăng ni đã được thống kê,
quản lý thống nhất. Theo số thống
kê được công bố trong hội nghị thường niên của Giáo Hội Phật giáo Việt
Nam (13) thì số tự viện Phật Giáo và số tăng ni mà giáo hội đã thống kê được
(14) là 14.303 ngơi tự viện, trong đó gồm 13.312 tự viện Bắc tông, 469 tự
viện Nam tông nguyên thủy và Khmer, 142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và

185 niệm Phật đường. Về tăng ni thì có 26.268 vị, có ba Học Viện Phật Giáo,
một Trường cao đẳng chuyên khoa phật học, 30 trường cơ bản phật học, một
Trường đào tạo đội ngũ giảng viên hoằng pháp. Ngoài ra giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã thành lập được Viện Nghiên Cứu Phật Học tại thành phố Hồ Chí
Minh và phân viện nghiên cứu tại thủ đô Hà Nội. Và đặc biệt là hội đồng
phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng đã được thành lập, tính
đến nay hội đồng đã phiên dịch ấn hành 30 tập kinh được dịch từ chữ Hán và
chữ Pali, đây là một thành quả đáng kể của Phật giáo Việt Nam. Vì đây là lần
đầu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam người Phật tử trong xứ sở này có được
một bộ đại tạng kinh bằng tiếng Việt.

21


PHẦN KẾT LUẬN
3.1. NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN:
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân
tộc Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Trong bài xã luận của tạp chí Phật giáo Việt Nam đã viết : "Trong tâm hồn
dân tộc Việt Nam thật đã sẵn có mầm móng tinh thần Phật giáo. Hèn gì mà
Đạo Phật với dân tộc Việt Nam trong gần hai ngàn năm nay, bao giờ cũng
theo nhau như bóng với hình trong cuộc sinh hoạt tồn cầu. Đã là viên đá nền
tảng cho văn hóa dân tộc, cố nhiên Phật giáo Việt Nam vĩnh viễn phải là một
yếu tố bất ly của cuộc sống toàn diện. Ngày nay những hào nhoáng của một
nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt một số đông người, nhưng cơ bản của
nền văn hóa dân tộc đang cịn bền chặt, khiến cho người Việt Nam dù có bị
lơi cuốn phần nào trong một thời gian, rồi cũng hồi đầu trở lại với cội nguồn
yêu dấu ngàn xưa...".
Thật vậy, Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ
triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán,

nếp sống nếp nghỉ... tìm hiểu và nghiên cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống người Việt", chúng ta càng thấy rõ nhận định trên. Từ quan
niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến lời ăn tiếng nói
của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý và tư
tưởng Phật giáo. Những câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội nghiệp",
"hằng hà sa số", "ta bà thế giới"... là điều phổ biến trong quan hệ ứng xử giữa
mọi người, các ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng một hay lễ tết dân tộc
mọi người dân dù bận rộn đến mấy cũng vài lần trong đời đến viếng cảnh
chùa để chiêm bái chư Phật, chung vui lễ hội hoặc để gần gũi, tìm hiểu những
di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, Chùa làng một thời đã đóng vai trị trung
tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng làng xã của người Việt và
chúng ta không thể phủ nhận ý kiến trong quyển "văn hóa Việt Nam tổng hợp
1985 - 1995" : "Nếu khơng có những hoạt động Phật giáo lịch đại thì chúng
ta sẽ mất đi hơn nửa số di tích và danh lam thắng cảnh mà hiện nay ta tự hào"
. Tại sao Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm,
trong phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam như vậy ? Nhìn
lại lịch sử và văn hóa dân tộc, ta thấy rằng ngay từ những thế kỷ đầu công
nguyên Phật giáo đã truyền vào Việt Nam và tư tưởng, triết học Phật giáo có
nhiều điểm phù hợp với tâm tư, tình cảm, đạo lý dân tộc nên đã được người
Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận và dung hóa. Người Việt vốn hiền lành,
hiếu hòa, hiếu sinh, chân thật, yêu thương đồng loại. Đạo Phật thì dạy con
người biết ăn ở hiền lành, thấy rõ lẽ phải trái, bỏ ác làm lành, cải tà quy
chánh trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, cho nên được quảng đại quần
chúng chấp nhận. Qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến đổi thăng trầm
của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỡ đứng vững chắc
trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật
giáo đã đóng góp cho dân tộc ta nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội. Lịch sử đã chứng minh những giai đoạn hiểm nghèo của

22



đất nước trước họa xâm lăng; nhiều vị thiền sư Phật giáo, đồng bào Phật tử
đã chung lưng đấu cật với dân tộc, chống giặc, bảo vệ non sông, tranh đấu
cho công bằng và tự do. Gương sáng của thiền sư Khng Việt thiền sư Vạn
Hạnh cịn kia, cơng lao lớn của vua Trần Nhân Tông đối với đất nước và dân
tộc cịn đó, tiếng chntg thức tỉnh của Hịa thượng Thích Quảng Đức vẫn
cịn vang vọng đâu đây... Phật giáo đã từng đóng một vai trị trong việc củng
cố tinh thần đoàn kết của toàn dân và đấu tranh bảo vệ đất nước. Khi đất
nước hịa bình, văn hóa và dân tộc có điều kiện phát triển, Phật giáo cũng góp
phần khơng nhỏ làm nên những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Những mái
chùa cong vút gần gũi, dun dáng, những tượng đài Thích Ca, tượng Quan
Âm nghìn mắt, nghìn tay, các bộ tượng La Han với những đường nét tinh
xảo, sống động dưới con mắt thán phục và cung kính của du khách quốc tế,
những lễ hội rộn ràng, những áng văn chương trác tuyệt... mãi mãi là niềm tự
hào của người Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhìn nhận rằng chính tinh thần khai phóng,
dung hòa và phương tiện của Phật giáo VN đã bị một số người lợi dụng và cố
tình hiểu sai lạc đi, biến Phật giáo, chùa chiền thành một nơi xa lánh, tách
biệt với xã hội, cúng kiến mê tín và bị kẻ xấu lợi dụng để xin xăm, bói quẻ,
đốt vàng mã, là những sinh hoạt biến dạng vốn không phải của Đạo Phật.
Người viết bài này đã hơn một lần cảm thấy hổ thẹn, khi nghe các nhà nghiên
cứu tơn giáo nước ngồi đề cập đến nhiều loại hình mê tính dị đoan mà họ đã
mục kích được khi đến thăm các chùa ở Việt Nam. Do đó, người viết thiết
nghĩ, đánh giá về tầm ảnh hưởng về vị trí và vai trị Phật giáo trong nền văn
hóa và lịch sử dân tộc cần phải dựa trên tinh thần khoa học và khách quan để
thấy những mặt thiếu sót, lạc hậu, tệ nạn để có thể hạn chế, loại bỏ cũng như
mặt tích cực, hữu ích để duy trì và phát triển.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình để hòa nhập vào trào lưu
phát triển với thế giới, Việt Nam cần phải mở cửa để giao lưư với bạn bè

quốc tế ngỏ hầu tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại.
Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó có
cái tốt, có cái xấu, làm sao chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải
trừ cái xấu ? Đây là một câu hỏi lớn cho các nhà giáo dục, đạo đức, xã hội,
tơn giáo... và nó đã trở thành một vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là
chuyên cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có
một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng
truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định, chắc lọc và cũng là liều
thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc
văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực của Phật giáo là
một phần tư tưởng văn hóa Việt sẽ cùng với văn hóa dân tộc Việt làm nhiệm
vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc trong thời
điểm hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
3.2. KIẾN NGHỊ:
Chúng ta phải cố gắng phát huy và lưu truyền những cái tốt đẹp của
phật giáo. Làm cho phật giáo trở thành tơn giáo chính ở Việt Nam.
23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
A-TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.TOAN ÁNH, (1969) , Nếp cũ-tín ngưỡng Việt Nam, NXB Hoa Đăng, Sài
Gịn,.
2. MINH CHI, (1995) , Các vấn đề Phật học, Viện Nghiên Cứu Phật Học
VN, XB.
3. MINH CHI, (tháng 12/1995), Về sự hội nhập của Phật giáo vào nên văn
hóa VN, tạp chí Giao Điểm, Hoa Kỳ,.
4. NGUYỄN HIỀN ĐỨC, (1995) , Lịch sử Phật giáo đàng trong, NXB TP.
HCM,.
5. TRẦN VĂN GIÁP, (1968) , Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ

thứ 13 (tiếng Pháp) Tuệ Sỹ dịch, Vạn Hạnh XB,.
6. NGUYỄN LANG, (1994) , Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, II và III,
NXB Hà Nội,.
7. TRẦN HỒNG LIÊN, (1996) , Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975,
NXB TP. HCM,.
8. THÍCH NHẤT HẠNH, (1965) , Đạo Phật Hiện Đại hóa, lá bối XB, Sài
Gịn,.
9. THÍCH THIỆN HOA, (1970) , 50 năm chấn hưng Phật giáo, tập I, Viện
Hóa Đạo XB, Sài Gịn,.
10. LÊ VĂN SIÊU, (1964) , Văn minh Việt Nam, Nam chi tùng thư Sài Gòn,.
11. NGUYỄN TÀI THƯ, (chủ biên), (1988) , Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
NXB KHXH, Hà Nội,.
12. THÍCH MẬT THỂ, (1960) , Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức XB,
Sài Gịn.
13. THÍCH TÂM THIỆN, (1995 ), Tư tưởng Mỹ học Phật giáo, Thành hội
Phật giáo TP. HCM xb,.
14.THUYỀN UYỂN TẬP ANH(khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), dịch:
NGÔ ĐỨC THỌ - NGUYỄN THÚY NGA, NXB văn học Hà Nội - 1990)
15. DƯƠNG KINH THÀNH (Giác Đạo), (tháng 01/1995) , Bàn về nghệ thuật
sân khấu Phật giáo (cải lương), Tập văn Thành Đạo, số 31, TP. HCM.
16. THÍCH THANH TỪ, (1992) , Thiền tơng Việt Nam cuối thế kỷ 20,
Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,.
17. THÍCH THANH TỪ, (1992) , Bước đầu học Phật, Thành hội Phật giáo
TP. HCM xb,.
18. THÍCH THANH TỪ, (1991) , Bước đầu học Phật, Thành hội Phật giáo
TP. HCM xb,.
19. THÍCH MINH TUỆ, (1993.) , Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội
Phật giáo TP. HCM xb,

24



B-TẠP CHÍ THAM KHẢO:
20. TẠP CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM, (từ năm 195 đến năm 1996).
21. TẠP CHÍ VẠN HẠNH (từ năm 1965 đến năm 1966).
22. TẠP CHÍ TỪ QUANG (từ năm 1967 đến năm 1973).
23. TẠP CHÍ HOẰNG PHÁP (từ năm1973 đến năm 1975).
24. TẬP VĂN PHẬT GIÁO (từ năm 1989 đến năm 1975).

25


×