Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tình huống: Xung đột sử dụng nước tại hồ thủy điện Đăk Mi 4 trên sông Vũ Gia thuộc lƣu vực sông Vũ Gia – Thu Bồn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.13 KB, 26 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH


LỚP BỒI DƢỠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
CHƢƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH
Tổ chức tại Đà Nẵng. Năm 2013






TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
Tên tình huống: Xung đột sử dụng nƣớc tại hồ thủy điện Đăk Mi 4 trên
sông Vũ Gia thuộc lƣu vực sông Vũ Gia – Thu Bồn






Họ và tên: Quách Thị Xuân
Chức vụ: Phó trƣởng phòng Nghiên cứu Đô thị
Đơn vị công tác: Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH Đà Nẵng










Đà Nẵng, tháng 7 năm 2013

2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH


LỚP BỒI DƢỠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
CHƢƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH
Tổ chức tại Đà Nẵng. Năm 2013
Từ ngày 18 tháng 5 năm 2013 đến ngày 10 tháng 8 năm2013





TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
Tên tình huống: Xung đột sử dụng nƣớc tại hồ thủy điện Đăk Mi 4 trên
sông Vũ Gia thuộc lƣu vực sông Vũ Gia – Thu Bồn






Họ và tên: Quách Thị Xuân
Chức vụ: Phó trƣởng phòng Nghiên cứu Đô thị
Đơn vị công tác: Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH Đà Nẵng




Ngƣời hƣớng dẫn : PGS. TS. Hoàng Văn Chức





Đà Nẵng, tháng 7 năm 2013

3



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 4
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 4
1.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI 4
1.2. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG 6
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 10
2.1. MỤC TIÊU PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 10
2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 10
2.3. PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÌNH HUỐNG 16

2.4. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH HUỐNG 17
2.5. HẬU QUẢ CỦA TÌNH HUỐNG 18
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 21
3.1. MỤC TIÊU XỬ LÝ 21
3.2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 21
3.3. LỰA CHỌN GIẢI PHÁP 23
III. KIẾN NGHỊ 23
4.1. KIẾN NGHỊ VỚI ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC 23
4.2. KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG 24
III. KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
PHỤ LỤC 25

4

Mở đầu
Nước là tài nguyên quý giá đối với sự sống của con người và hoạt động sản
xuất. Hiện nay việc quản lý và khai thác tài nguyên nước trên các lưu vực sông của
Việt Nam nói chung, lưu vực sông Vũ Gia – Thu Bồn nói riêng còn nhiều bất cập.
Mâu thuẫn giữa cấp nước và phát điện thường xuất hiện trong quản lý các hồ chứa đa
mục tiêu. Tuy nhiên, mâu thuẫn này đối với hồ chứa Đắc Mi4 trên sông Vũ Gia lại
cực kỳ phức tạp vì nhà máy thủy điện này sau khi phát điện lại trả nước sang sông
Thu Bồn, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân ở hạ lưu sông Vu Gia
thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng. Đây là vấn đề cần phải được giải quyết
càng sớm càng tốt.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Ngày 21/4/2007, tại xã Phước Xuân, huyện Phước Sơn -Quảng Nam, Tổng
Công ty Đầu tư phát triển đô thị và Khu Công nghiệp Việt Nam (Bộ Xây dựng) đã
khởi công xây dựng thuỷ điện Đăk Mi 4. Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh

Hùng đã đến dự lễ phát lệnh khởi công.
Thủy điện Đăk Mi 4 là một trong những dự án thủy điện quan trọng nằm trong
quy hoạch bậc thang thủy điện hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn (Quảng Nam), có
công suất thiết kế 190 MW, với tổng vốn đầu tư 4.547 tỉ đồng, cung cấp điện lượng
trung bình hằng năm gẩn 1 tỉ KWh.
Tổng công ty IDICO vừa là chủ đầu tư vừa đảm nhiệm vai trò tổng thầu thi
công xây lắp công trình. Sau hơn 5 năm triển khai, dự án có các mốc thời gian quan
trọng như sau: ngày 25/01/2008, ngăn sông phục vụ công tác đào hố móng đập chính
Nhà máy thủy điện Đak Mi 4A, ngày 29/10/2010 thông hầm dẫn nước với tổng chiều
dài 3,3km chính thức, ngày 24/8/2011 hoàn thành toàn bộ công tác đào hố móng, gia
5

cố mái, đổ bê tông các hạng mục đập chính - đập tràn, cửa lấy nước, đường hầm dẫn
nước; thu dọn vệ sinh lòng hồ và tích nước hồ chứa. Ngày 10/01/2012 hoàn thành
đóng điện đường dây 220 KV Đak Mi 4 - Thạnh Mỹ dài 44,471km và nhận điện từ hệ
thống điện Quốc gia phục vụ công tác thử nghiệm nhà máy. Ngày 17/01/2012, tổ máy
đầu tiên H2, công suất 74 MW chính thức hòa lưới điện Quốc gia. Sau đó lần lượt các
tổ máy H3, H4 hòa lưới điện Quốc gia vào ngày 21/02/2012 và 24/02/2012. Và ngày
10/4/2012, tổ máy cuối cùng H1 cũng đã chính thức hòa lưới điện Quốc gia.

Hình 1. Bản đồ vị trí các trạm thủy điện trên lưu vực sông Vũ Gia – Thu Bồn
Kể từ khi đi vào vận hành công trình này đã gây ra một số khó khăn cho việc
cấp nước của thành phố Đà Nẵng và việc cấp nước tưới cho các huyện Điện Bàn, Đại
Lộc của tỉnh Quảng Nam. Mùa khô năm 2013, “cuộc chiến” đòi nước giữa UBND TP
Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam với thủy điện Đắk Mi 4 (huyện Phước Sơn, Quảng Nam)
6

đã trải qua giai đoạn căng thẳng nhất mà nguyên nhân là do nhà máy thủy điện Đăk
Mi 4 không tuân thủ quy trình vận hành, không xả về hạ du lưu lượng 25 m
3

/giây như
thiết kế.
1.2. Mô tả tình huống
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại Công văn số 2840 ngày
29-4-2010 của Văn phòng Chính phủ với nội dung yêu cầu Đắk Mi 4 xả nước về lại
cho sông Vu Gia với lưu lượng 25 m
3
/giây. Tuy nhiên, Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4
đã không làm như vậy, và mâu thuẫn giữa Đà Nẵng, Quảng Nam và nhà máy đã lên
tới đỉnh điểm.
Quan điểm của thành phố Đà Nẵng
Theo lãnh đạo Đà Nẵng thì việc đảm bảo lợi ích kinh tế của nhà máy là rất quan
trọng nhưng ưu tiên số một bây giờ là nước sinh hoạt cho người dân. Nếu cần thiết
Thành phố sẽ dùng đến pháp luật để buộc thủy điện Đắk Mi 4 trả nước cho sông Vu
Gia. Ông Huỳnh Vạn Thắng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Đà Nẵng nói: “Các
anh lấy của Vu Gia thì phải trả lại cho Vu Gia. Nếu không trả, Thành Phố sẽ gửi công
văn đến Thủ tướng và các bộ, ngành để buộc thủy điện Đắk Mi 4 trả lại dòng chảy cơ
bản vốn có của Vu Gia. Cần thiết phải hy sinh ĐắK Mi 4 để phục vụ nước sinh hoạt,
tưới tiêu cho nhân dân. Chúng tôi kiên quyết đòi thủy điện phải xả 25 m3/giây và
ngừng phát điện để tích nước. Vì mực nước tự nhiên chảy về Đắk Mi 4 vẫn tương đối
cao từ 25 m
3
/giây đến 40 m
3
/giây. Lượng nước này đủ cứu hạn cho Đà Nẵng” - ông
Thắng nhấn mạnh.
Theo ông Thắng, Thành Phố đang phải cật lực chống hạn cho hơn 3.000 ha lúa.
Nguồn nước sinh hoạt phải lấy tại đập An Trạch cách nhà máy Cầu Đỏ 10 km. Đến
thời điểm này, hạn hán đã ở mức độ báo động khẩn cấp. Nước tại sông Ái Nghĩa đang
thấp nhất trong vòng gần 40 năm qua. Khoảng 10.000 ha lúa các huyện bắc Quảng

7

Nam và Đà Nẵng đang có nguy cơ mất trắng, hơn 1 triệu dân đang thiếu nước sinh
hoạt.
“Trước đây, nước từ hệ thống sông Vu Gia đổ về Thu Bồn thông qua sông
Quảng Huế chỉ 20% nhưng sau khi có thủy điện Đắk Mi 4 lượng nước này đã tăng lên
60%. Vì vậy, nước từ sông Ái Nghĩa đổ về hạ du Vu Gia từ 80% đã giảm xuống còn
40%. Bây giờ thì hoàn toàn cạn kiệt. Sông không có nước làm độ mặn ở mức kỷ lục”.
Quan điểm của tỉnh Quảng Nam
Ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam đã tham mưu cho UBND tỉnh Quảng Nam
có văn bản gửi Tổng cục Thủy lợi, Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công thương), Tập
đoàn Điện lực Việt Nam và các nhà máy thủy điện trên địa bàn nhằm đề xuất kế
hoạch điều tiết xả nước các hồ thủy điện trên hệ thống sông Vu gia – Thu Bồn phục
vụ làm đất, gieo, sạ lúa hè thu. Theo đó, các nhà máy thủy điện A Vương, Đăk Mi 4,
Sông Tranh 2, Sông Côn, Sông Bung 5 và Sông Bung 6 ngừng hoàn toàn hoạt động
xả nước phát điện về hạ du kể từ ngày 12/4/2013 đến ngày 14/5/2013 để tích nước
chuẩn bị cho sản xuất vụ hè thu; Kể từ ngày 15/5/2013 đến ngày 31/5/2013, các thủy
điện sẽ thực hiện xả nước liên tục để phục vụ đổ ải và gieo sạ vụ hè thu 2013. Kế
hoạch tích nước và xả nước này cũng đã được các bên liên quan thống nhất tại cuộc
họp do Cục Điều tiết điện lực chủ trì tổ chức ngày 5/4/2013.
“Những tưởng mọi sự cam kết được thực hiện nghiêm túc, nhưng không ngờ
qua thực tế, vẫn có thủy điện coi thường sự quản lý của Nhà nước, không thực hiện
đúng lịch tích nước và xả nước như trên. Cụ thể, ngày 26/4 vừa qua, chúng tôi đã cử
đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra đột xuất và phát hiện Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4
vẫn đang vận hành phát điện bình thường. Phía đại diện Ban quản lý dự án Nhà máy
thủy điện Đăk Mi 4 cho rằng, Nhà máy được huy động vận hành theo sự điều độ của
Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia, phụ thuộc vào an ninh hệ thống điện và
8

theo quy trình vận hành máy phát điện phải chạy sấy máy để đảm bảo độ cách điện.”-

ông Nguyễn Thanh Quang, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam nói.
Ngay lúc đó, đoàn kiểm tra đã tiến hành lập biên bản yêu cầu Nhà máy thủy
điện Đăk Mi 4 dừng phát điện. Đồng thời ngày 2/5/2013, Sở NN&PTNT tỉnh Quảng
Nam đã ban hành công văn gửi Cục Điều tiết Điện lực, Tập đoàn Điện lực Việt Nam
và các đơn vị liên quan chỉ đạo Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 dừng xả nước phát điện
để tích nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, liên tiếp những ngày sau, Nhà
máy thủy điện Đăk Mi 4 vẫn tiếp tục vận hành, bất chấp yêu cầu của Đoàn kiểm tra
của Sở NN&PTNT Quảng Nam. Qua số liệu theo dõi hoạt động của Nhà máy Thủy
điện Đăk Mi 4, từ ngày 12/4/2013 đến ngày 4/5/2013, nhà máy đã xả nước phát điện
15 ngày với tổng số 167 giờ và hiện nay vẫn đang tiếp tục vận hành. Phía Sở
NN&PTNT Quảng Nam đã gọi điện trực tiếp đề nghị cho dừng xả nước phát điện,
nhưng lãnh đạo Nhà máy cho biết việc vận hành Nhà máy phải chấp hành theo điều
động của Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia, thuộc Tập đoàn Điện lực Việt
Nam.
Quan điểm của Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 và ngành điện.
Ngày 26/4, Sở NN-PTNT Quảng Nam đã có buổi làm việc với Ban Quản lý
Nhà máy Thủy điện Đắk Mi 4 về việc thủy điện này tự ý phá vỡ cam kết để xả nước
phát điện. Nhưng tại cuộc họp này, ông Võ Tấn Dũng, Phó Ban Quản lý Nhà máy
Thủy điện Đắk Mi 4 cho rằng, Nhà máy được huy động vận hành theo sự điều độ của
Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia.
Ban QL TĐ Đăk Mi 4 cho rằng, khi mực nước hồ đã đạt cao trình 254,5m, trên
mực nước chết 14,5m, và theo ghi nhận, dự báo thì thời tiết có mưa nên vẫn có nguồn
nước về hồ, nếu không xả nước phát điện thì nước về hồ sẽ đến mực nước dâng bình
thường và chảy tự do qua tràn.
9

Phó Tổng Giám đốc thủy điện Đắk Mi 4, ông Đào Minh Tiến, giải trình: “Hiện
lưu lượng nước về hồ Đắk Mi 4 chỉ đạt khoảng 15 m3/giây, dung tích hữu ích của hồ
hiện nay chỉ khoảng 85 triệu m3/158 triệu m3, tương ứng với cao trình cao hơn mực
nước chết khoảng 10 m. Hiện nhà máy chỉ hoạt động cầm chừng theo yêu cầu sử dụng

nước tại hạ du của Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam. Trong tháng 3, thủy điện đã xả
14 lần, mỗi lần 18-20 giờ, lượng xả 50 m3/giây để phục vụ sản xuất. Những điều này
đã ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất điện (chỉ đạt 50% kế hoạch), gây khó khăn
về nguồn tiền trả nợ ngân hàng cho thủy điện”.
“Chúng tôi sẵn sàng phối hợp với hai địa phương nhưng các anh phải cân nhắc
điều tiết nước cho Quảng Nam bao nhiêu, Đà Nẵng bao nhiêu. Phải làm sao có hiệu
quả nhất về tài nguyên nước và giảm thiệt hại cho nhà máy. Khi có số liệu rõ ràng
chúng tôi sẽ chấp hành” - ông Tiến nói.
Trung tâm điều độ quốc gia
Ông Vũ Xuân Khu, Phó Giám đốc Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia,
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), thông tin: “Trong quý IV-2012, lượng nước về
các hồ thủy điện thiếu hụt 15,2 tỉ m
3
nước, trong đó miền Trung thiếu 11,5 tỉ m3. Vì
vậy, thủy điện A Vương, Đắk Mi 4 phải sáu ngày nghỉ, sáu ngày vận hành. Hiện EVN
khó can thiệp buộc các thủy điện phải xả nước vì hầu hết các thủy điện đều hoạt động
theo cơ chế thị trường và không phụ thuộc vào EVN”. Cũng theo ông Khu, thủy điện
Đắk Mi 4 có tuổi đời 30 năm. Vì vậy, người ta đã thiết kế để trong vòng đời đó có thể
thu hồi được vốn. Còn nếu xả theo yêu cầu của TP Đà Nẵng thì nhà đầu tư không thể
thu hồi lại vốn. “Nếu các thủy điện xả cứu hạn trong vòng 15 ngày thì nhà đầu tư đã
lỗ 50 tỉ đồng” - ông Khu nói.
10

II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Căn cứ vào các văn bản qui phạm pháp luật và các qui định hiện hành của Trung ương
và Địa phương trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về tài nguyên nước để làm rõ
hành vi tùy ý xả nước của Ban quản lý hồ thủy điện Đắc Mi 4; đồng thời chỉ ra được
những yếu kém trong công tác quản lý tài nguyên nước; Từ đó đưa ra những giải pháp
xử lý hợp tình, hợp lý và những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý

tài nguyên nước lưu vực sông nhằm đáp ứng hài hòa các mục tiêu.
2.2. Cơ sở lý luận
Việc phân tích và giải quyết tình huống dựa vào các luật, nghị định và quy định
sau:
1. Luật bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005
2. Luật tài nguyên nước số 17/2012/QH13 đã được Quốc hội nước CHXHCNVN
khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012.
3. Căn cứ Luật Điện lực ngày 14 tháng 12 năm 2004;
4. Căn cứ Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi ngày 04 tháng 4 năm
2001;
5. Căn cứ Nghị định số 72/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2007 của Chính
phủ về quản lý an toàn đập;
6. Căn cứ Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính
phủ về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ
chứa thủy điện, thủy lợi;
7. Thông tư số 34/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương ban hành ngày 7/10/2010.
Điều 64 Luật Tài nguyên Môi trƣờng quy định về bảo vệ môi trƣờng hồ
chứa nƣớc phục vụ mục đích thuỷ lợi, thủy điện
11

1. Việc xây dựng, quản lý và vận hành hồ chứa nước phục vụ mục đích thủy lợi,
thuỷ điện phải gắn với bảo vệ môi trường.
2. Không được lấn chiếm diện tích hồ; đổ chất thải rắn, đất, đá, nước thải chưa
qua xử lý vào lòng hồ.
3. Môi trường nước trong hồ chứa nước phục vụ mục đích thủy lợi, thuỷ điện
phải được quan trắc định kỳ nhằm dự báo diễn biến chất lượng nước, chế độ thuỷ văn
để điều hoà nguồn nước và bảo vệ môi trường.
4. Cơ quan quản lý hồ chứa nước phục vụ mục đích thủy lợi, thuỷ điện có trách
nhiệm thực hiện quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.

- Để việc phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo có hiệu quả thì hồ
chứa phải có quy trình vận hành được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích
nước. Hồ chứa lớn, quan trọng trên lưu vực sông phải vận hành theo quy trình vận
hành liên hồ chứa đã được phê duyệt. Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa phải
bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu, phòng, chống lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước cho hạ
du và bố trí dung tích để thực hiện các nhiệm vụ của hồ chứa, bao gồm cả dung tích
để phòng, chống lũ, an toàn cấp nước trong điều kiện thời tiết bình thường và bất
thường.
Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt quy trình vận hành liên hồ chứa do Bộ Tài
nguyên và Môi trường lập danh mục, xây dựng và trình.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa sẽ xây dựng, trình cấp có thẩm
quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền quy trình vận hành hồ chứa. Tất cả
những điều này được quy định trong Luật Tài nguyên nước, chương V, điều 60, 61.
Điều 60. Phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo, Luật Tài
nguyên nƣớc:
1. Hồ chứa phải có quy trình vận hành hồ chứa được cấp có thẩm quyền phê
duyệt trước khi tích nước.
2. Hồ chứa lớn, quan trọng trên lưu vực sông phải vận hành theo quy trình vận
12

hành liên hồ chứa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
3. Quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa phải bảo đảm
duy trì dòng chảy tối thiểu, phòng, chống lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước cho hạ du và bố
trí dung tích để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ của hồ chứa, bao gồm cả dung tích
để phòng, chống lũ, an toàn cấp nước trong điều kiện thời tiết bình thường và điều
kiện thời tiết bất thường, biến động về chất lượng nước có tính đến yếu tố biến đổi khí
hậu.
4. Quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực
sông phải được lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, tổ chức lưu vực sông, tổ chức

liên quan khác trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
5. Trách nhiệm xây dựng quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên
hồ chứa được quy định như sau:
a) Bộ Tài nguyên và Môi trường lập danh mục các hồ chứa phải vận hành theo
quy trình vận hành liên hồ chứa và xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa trên các
lưu vực sông, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
b) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban
hành theo thẩm quyền quy trình vận hành hồ chứa.
6. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải xây dựng phương án để đối
phó với tình huống vỡ đập, các tình huống đe dọa nghiêm trọng đến an toàn công
trình, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Điều 61. Phòng, chống xâm nhập mặn, Luật Tài nguyên nƣớc.
1. Việc quản lý, vận hành các cống ngăn mặn, giữ ngọt và các hồ chứa nước,
công trình điều tiết dòng chảy phải tuân theo quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
bảo đảm phòng, chống xâm nhập mặn.
2. Việc thăm dò, khai thác nước dưới đất ở vùng đồng bằng, ven biển phải bảo
đảm phòng, chống xâm nhập mặn cho các tầng chứa nước dưới đất.
3. Việc khai thác nước lợ, nước mặn để sử dụng cho sản xuất không được gây
xâm nhập mặn các nguồn nước và làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp.
4. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước để sản xuất nông
nghiệp phải có biện pháp phòng, chống chua, mặn, xói mòn đất và bảo đảm không
13

gây ô nhiễm nguồn nước.
Điều 54. Điều hòa, phân phối tài nguyên nƣớc
1. Việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước cho các mục đích sử dụng phải căn
cứ vào quy hoạch tài nguyên nước, khả năng thực tế của nguồn nước, kế hoạch điều
hòa, phân phối tài nguyên nước và bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Bảo đảm công bằng, hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân sử dụng nước trên
cùng một lưu vực sông, giữa thượng lưu với hạ lưu, giữa bờ phải với bờ trái;
b) Ưu tiên về số lượng, chất lượng nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp
góp phần bảo đảm an ninh lương thực và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân;
c) Bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng khai thác nước dưới
đất;
d) Kết hợp khai thác, sử dụng nguồn nước mặt với khai thác, sử dụng nguồn
nước dưới đất, nước mưa; tăng cường việc trữ nước trong mùa mưa để sử dụng cho
mùa khô.
2. Trong trƣờng hợp thiếu nƣớc, việc điều hòa, phân phối phải ƣu tiên cho
mục đích sinh hoạt; các mục đích sử dụng khác phải được điều hòa, phân phối theo
quy định trong quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông và bảo đảm nguyên tắc công
bằng hợp lý.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng tổ chức thực hiện việc điều hòa, phân phối
tài nguyên nƣớc trên lƣu vực sông liên tỉnh. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực
hiện điều hòa, phân phối tài nguyên nước trong phạm vi địa phương.
Điều 12, 13 Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của
Chính phủ về quản lý bảo vệ khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trƣờng các hồ
chứa thuỷ điện, thuỷ lợi.
Điều 12. Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng
1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi
trường các hồ chứa.
2. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan xây dựng quy
định về dòng chảy tối thiểu ở hạ du các hồ chứa và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa
phương thực hiện.
14

3. Chỉ đạo xây dựng, quản lý thống nhất số liệu và hệ thống quan trắc tài
nguyên và môi trường các hồ chứa lớn.

4. Tổng hợp, xác định nhu cầu sử dụng nước của các ngành, địa phương, các tổ
chức kinh tế ở hạ du và giám sát việc bảo đảm thông tin, dữ liệu, dự báo khí tượng
thủy văn và tài nguyên nước đến các hồ chứa lớn.
5. Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn lập kế hoạch điều tiết nước liên hồ chứa đối với các hồ chứa có tầm quan trọng
quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ quyết định khi xảy ra hạn hán, thiếu nước, ô
nhiễm nguồn nước nghiêm trọng hoặc khi xảy ra các sự cố, tai biến môi trường
nghiêm trọng khác trên lưu vực sông.
6. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục các hồ thủy lợi, thủy điện
trên lưu vực sông phải xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa.
7. Chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư liên quan xây
dựng quy trình vận hành liên hồ chứa các hồ chứa thủy lợi, thủy điện đã xác định
trong Danh mục nêu tại khoản 6 Điều này. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
hoặc phê duyệt quy trình khi được ủy quyền.
8. Hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương, đơn vị kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật về quản lý, bảo vệ, khai thác tài nguyên và môi trường các hồ chứa.
Điều 13. Trách nhiệm của Bộ Công Thƣơng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật bảo đảm sử dụng tài nguyên hồ chứa tiết kiệm, đa mục tiêu,
bảo vệ cảnh quan, môi trường các hồ chứa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
2. Chỉ đạo xây dựng, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,
ngành và các địa phương liên quan thẩm định quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ
chứa (nếu có) thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; phê duyệt theo thẩm quyền
quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa (nếu có) thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định của pháp luật.
3. Chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch điều tiết nước hồ chứa; chỉ đạo việc điều tiết
nước các hồ chứa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ trong trường hợp xảy ra
hạn hán, thiếu nước, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng hoặc khi xảy ra các sự cố, tai
biến môi trường nghiêm trọng khác trên lưu vực sông.

4. Chỉ đạo, quản lý, cấp phép các hoạt động sản xuất, kinh doanh khai thác tài
15

nguyên hồ chứa theo thẩm quyền.
5. Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc xây dựng, quản lý hệ
thống quan trắc tài nguyên và môi trường các hồ chứa lớn.
6. Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh nơi có hồ chứa kiểm tra việc thực
hiện pháp luật về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ
chứa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Điều 10 chƣơng V về bảo đảm an toàn đập và vùng hạ du đập quy định về
Quy trình vận hành hồ chứa thủy điện
1. Quy trình vận hành do chủ đập lập theo nội dung quy định tại Quyết định số
285/2006/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về nội dung
thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện quy trình vận hành hồ chứa thuỷ điện, trình
cấp thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước vào hồ chứa.
2. Thẩm quyền phê duyệt quy trình vận hành hồ chứa thủy điện
a) Bộ Công Thương phê duyệt quy trình vận hành các hồ chứa thủy điện có quy
mô dung tích một triệu mét khối (1.000.000 m
3
) trở lên hoặc hồ chứa nằm trên địa bàn
từ 2 tỉnh trở lên, ngoại trừ quy trình vận hành liên hồ chứa thuỷ điện thực hiện theo
quy định tại Điều 12 Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của
Chính phủ về quản lý bảo vệ khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa
thuỷ điện, thuỷ lợi;
b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyêt quy trình vận hành các hồ chứa thủy
điện còn lại trên địa bàn.
3. Việc điều tiết nước hồ chứa phải tuân theo các quy định trong Quy trình vận
hành đã được phê duyệt.
4. Vận hành thử cửa van các công trình
a) Chế độ vận hành thử khô các cửa van do chủ đập lập tùy theo đặc điểm của

công trình và tiến hành thử ít nhất mỗi năm một lần vào thời điểm trước mùa lũ. Công
tác khắc phục các khiếm khuyết các cửa van sau khi chạy thử khô phải được thực hiện
xong trước mùa lũ hàng năm;
b) Chế độ vận hành thử ướt các cửa van do chủ đập lập. Tùy theo điều kiện
thủy văn và theo đặc điểm của từng công trình có thể tiến hành thử ướt các cửa van
vào đầu mùa lũ nhưng không được gây ảnh hưởng cho hạ du do xả nước qua đập tràn.
16

2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Tình huống bắt đầu xuất hiện từ ngày 10/4/2012 khi Hồ Đăk Mi 4 chính thức
đưa vào vận hành. Nhưng mâu thuẫn về dùng nước giữa phát điện và tưới khu vực hạ
du sông Vũ Gia lên tới đỉnh điểm trong tháng 5 năm 2013.
Kế hoạch tích nước và xả nước hồ đã được các bên liên quan thống nhất tại
cuộc họp do Cục Điều tiết điện lực chủ trì tổ chức ngày 5/4/2013. Theo đó, kể từ ngày
12/4/2013 đến ngày 14/5/2013 các nhà máy phải ngừng hoàn toàn hoạt động xả nước
phát điện để tích nước chuẩn bị cho sản xuất vụ hè thu và từ ngày 15/5/2013 đến ngày
31/5/2013, các thủy điện sẽ thực hiện xả nước xuống hạ du liên tục để phục vụ đổ ải
và gieo sạ vụ hè thu 2013.
Yêu cầu của Quảng Nam và Đà Nẵng là chính đáng vì nước là tài sản của toàn
dân, việc khai thác cần phải đảm bảo hài hòa lợi ích các bên. Trước khi có Đăk Mi 4
thì mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân đều bình thương, nhưng từ khi
Đăk Mi 4 đi vào hoạt động thì xuất hiện các vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi
ích của các hộ dùng nước ở hạ lưu sông Vũ Gia. Như vậy, thủ phạm gây ra những vấn
đề nghiêm trọng này có thể khẳng định chắc chắn rằng đó là hồ thủy điện và Ban quản
lý thủy điện Đăk Mi 4.
Lẽ ra Ban quản lý hồ thủy điện Đăk Mi 4 phải đáp ứng yêu cầu của Quảng Nam
và Đà Nẵng theo như thỏa thuận giữa các bên vào ngày 5/4/2013. Thế nhưng, ngày
26/4/2013, Quảng Nam tiến hành kiểm tra đột xuất và phát hiện Nhà máy thủy điện
Đăk Mi 4 vẫn đang vận hành phát điện bình thường. Đoàn kiểm tra đã tiến hành lập
biên bản yêu cầu Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 dừng phát điện.

Ngày 2/5/2013, Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam đã ban hành công văn gửi Cục
Điều tiết Điện lực, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị liên quan chỉ đạo Nhà
17

máy thủy điện Đăk Mi 4 dừng xả nước phát điện để tích nước, phục vụ sản xuất nông
nghiệp.
Tuy nhiên, liên tiếp những ngày sau, Nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 vẫn tiếp tục
vận hành, bất chấp yêu cầu của Đoàn kiểm tra của Sở NN&PTNT Quảng Nam (xem
phụ lục).
Có thể thấy rằng Ban quản lý nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 đã phá vỡ cam kết mà
họ đã ký, phát điện xả nước sang sông Thu Bồn gây thiệt hại cho các hộ dùng nước hạ
lưu sông Vũ Gia. Đăk Mi 4 đã vì lợi ích của riêng mình, đặt lợi ích của mình lên trên
lợi ích chính đáng của công dân Đà nẵng và Quảng Nam. Có thể khẳng định một điều
rằng Ban quản lý thủy điện Đăk Mi 4 đã vi phạm các điều khoản sau đây: Khoản 1 và
Khoản 4 Điều 64 Luật Tài nguyên Môi trường quy định về bảo vệ môi trường hồ chứa
nước phục vụ mục đích thuỷ lợi, thủy điện; Khoản 6 Điều 60 và Khoản 1 Điều 61 của
Luật Tài nguyên nước; Khoản 2 Điều 54 Luật Tài nguyên nước về ưu tiên sử dụng
nước trong trường hợp thiếu nước.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Xảy ra mâu thuẫn này là do: thư nhất công trình đã đi vào hoạt động nhưng lại
chưa có quy trình vận hành liên hồ chứa; thứ hai việc thiết kế nhà máy thủy điện Đăk
Mi 4 chưa hợp lý. Với những công trình thủy điện khác, sau khi phát điện, nước sẽ
vẫn chảy về cùng một dòng sông phía hạ lưu đập. Như vậy, dòng chảy về phía hạ lưu
đập trước và sau khi có đập không có sự thay đổi về tổng lượng, đồng thời còn góp
phần làm tăng dòng chảy về mùa kiệt. Tuy nhiên, đối với trường hợp của Đăk Mi 4
thì khác, sau khi phát điện, nước không được trả về hạ lưu sông Vũ Gia như trước đây
mà được chuyển sang sông Thu Bồn. Theo thiết kế (theo quy định của Chính Phủ) thì
nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 phải xả liên tục về hạ lưu Vũ Gia là 25 m
3
/s. Ban quản lý

Hồ Đăk Mi 4 không tuân thủ nên dòng chảy về hạ du Vũ Gia gần như bằng không.
Điều này ảnh hưởng không chỉ tới sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt mà còn
18

de dọa nghiêm trọng tới hệ sinh thái của dòng sông, đặc biệt là tình hình nhiễm mặn
tại sông Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Đúng ra thì các bên phải bàn bạc thống nhất, không ai trong các bên, địa
phương hay chủ hồ có quyền quyết định thay cho bên kia, địa phương không có thẩm
quyền quyết định việc xả nước hay tích nước của hồ thủy điện dù nó ở ngay trên địa
bàn quản lý của mình, Ban quản lý thủy điện cũng không có quyền xả nước theo mục
tiêu của riêng họ bất chấp việc gây khó khăn cho các ngành khác. Ở đây, các bên đã
có biên bản thống nhất về lịch tích và xả nước nhưng Ban quản lý thủy điện đã không
thực hiện đúng cam kết mà họ đã ký.
Nguyên nhân sâu xa thứ nhất là do ý thức của các bên tham gia đặc biệt là sự
thiếu hợp tác của Ban quản lý thủy điện Đăk Mi 4. Thứ hai do quản lý nhà nước về tài
nguyên nước còn lỏng lẻo. Thứ ba là do chưa thực hiện nghiêm minh Luật và các quy
định pháp lý về tài nguyên nước. Cơ quan chưa hoàn thành nhiệm vụ là Bộ Tài
Nguyên và Môi trường, Bộ này chưa thực hiện trách nhiệm được giao theo Khoản 3
Điều 54 Luật tài nguyên nước rằng “ Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện
việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông liên tỉnh”.
2.5. Hậu quả của tình huống
Đối với tƣới
Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Thuỷ lợi tỉnh Quảng
Nam, nếu nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 còn tiếp tục phát điện, xả nước như hiện nay
thì trong cao điểm của mùa khô (từ nay đến hết tháng 8), nguồn nước của hồ chứa
thủy điện này sẽ cạn kiệt, không thể hỗ trợ sản xuất cũng như đẩy mặn ở khu vực hạ
du sông Thu Bồn; toàn bộ hệ thống các trạm bơm được xây dựng để chống hạn cũng
sẽ hoạt động không hiệu qủa, gây thiệt hại rất lớn cho ngành nông nghiệp địa phương.
19


Khoảng 3.000 ha lúa, 5.000 ha hoa màu và nhiều loại cây trồng khác dọc hạ lưu
sông Thu Bồn (Quảng Nam ) có nguy cơ thiếu nước trầm trọng trong vụ hè thu 2013.
Đó là những thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Nam nếu nhà máy thủy
điện Đăk Mi 4 không chịu phối hợp thực hiện thời gian tích nước và xả nước như cam
kết.
Đối phó với tình hình hạn hán trầm trọng trong vụ hè thu năm nay, cùng với
triển khai nạo vét các bãi bồi dưới lòng sông, tạo dòng chảy vào các trạm bơm, huyện
Điện Bàn đang tiến hành đắp một đập tạm trên sông Vĩnh Điện (đoạn qua Tứ Câu, xã
Điện Ngọc) để ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ nước tưới cho hơn 1.000 ha lúa của các xã
vùng hạ du hệ sông Thu Bồn.
Tỉnh đã phải bỏ tiền ra để xây đập tạm. Đập tạm Tứ Câu có chiều dài 104m,
chiều cao từ chân trụ đến đỉnh đập 8,5m, chiều rộng đáy 30m và đỉnh đập 4m. Dự
toán vốn đầu tư công trình hơn 1,5 tỷ đồng từ nguồn kinh phí chống hạn năm 2013
của tỉnh. Công trình do công ty Khai thác thủy lợi Quảng Nam thiết kế và công ty Phú
Quang thi công từ ngày 24/5. Đơn vị thi công huy động tối đa phương tiện, nhân lực
và tranh thủ triều kiệt đẩy mạnh thi công đập, phấn đấu từ 5 đến 7 ngày nữa phát huy
hiệu quả công trình. Đây là công trình đập tạm Tứ Câu đầu tiên kể từ trước đến nay
phục vụ chống hạn hè thu.
Với giải pháp này, huyện Điện Bàn và ngành nông nghiệp tỉnh hy vọng trạm
bơm Tứ Câu sẽ kịp phục vụ nước tưới đưa vào sạ cấy hơn 230ha lúa hè thu của các xã
Điện Ngọc, Điện Nam và Điện Dương trong vòng 1 tuần đến. Bởi đến thời điểm
này, trạm Tứ Câu vẫn bị nhiễm mặn chưa thể hoạt động được. Đồng thời công trình
cũng giữ ngọt để các trạm bơm Vĩnh Điện, Cẩm Sa… tưới dưỡng gần 1.000ha trong
suốt vụ. Đập Tứ Câu cũng sẽ hỗ trợ cho các địa phương Duy Xuyên, Hội An có nước
sản xuất và sinh hoạt trong mùa khô hạn.

20

Đối với cấp nƣớc
Từ năm 2010 đến tháng 04/2013 do nước về sông Vu Gia rất ít, nguồn nước tại

Cầu Đỏ liên tục bị nhiễm mặn vượt quy chuẩn, nên đã vận hành trạm bơm phòng mặn
An Trạch.
 Năm 2010: 52 ngày. Độ mặn cao nhất: 1080 mg/l; Lưu lượng nước bơm:
1.649.100m
3
với số giờ vận hành Trạm bơm phòng mặn An Trạch: 426h 33’.
 Năm 2011: 11 ngày. Độ mặn cao nhất: 655 mg/l; Lưu lượng nước bơm:
370.183m
3
với số giờ vận hành Trạm bơm phòng mặn An Trạch: 95h 30’
 Năm 2012: 99 ngày. Độ mặn cao nhất: 6.084 mg/l; Lưu lượng nước bơm:
9.801.450m
3
với số giờ vận hành Trạm bơm phòng mặn An Trạch: 1724h 20’.
 Năm 2013 (Từ tháng 1 đến tháng 4/2013: 95 ngày. Độ mặn cao nhất:
6.9615mg/l; Lưu lượng nước bơm: 12.151.150m
3
với số giờ vận hành Trạm bơm
phòng mặn An Trạch: 2183 giờ.
Từ năm 2012 đến nay, nguồn nước tại Cầu Đỏ liên tục bị nhiễm mặn, làm ảnh
hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của Dawaco. Ông Nguyễn Hữu Ba cho biết,
năm 2012 có 87 ngày nước bị nhiễm mặn, có thời điểm độ mặn lên đến 6.084mg/l.
Trạm bơm phòng mặn An Trạch phải vận hành 24/24 giờ liên tục trong ngày và hiện
nay vẫn duy trì chế độ này. Năm qua, thời gian vận hành của Trạm bơm An Trạch là
1.721 giờ 20 phút, tất cả các máy bơm chạy 5.444 giờ 55 phút, lượng nước thô lấy từ
đập An Trạch 9,8 triệu m3. Chi phí sản xuất nước do vận hành Trạm bơm An Trạch
tăng trong năm 2012 khoảng 4,5 tỷ đồng.
Ngay từ đầu năm 2013, độ mặn nguồn nước sông tại Cầu Đỏ càng trở nên
nghiêm trọng, có lúc lên gần 3.000mg/lít, không thể sử dụng để xử lý thành nước sinh
hoạt. Nguyên nhân khiến nước sông Cầu Đỏ nhiễm mặn là do nguồn nước từ sông Vu

Gia và Thu Bồn phía thượng nguồn tỉnh Quảng Nam đổ về ít, khiến nước biển lấn sâu
vào đất liền. Trước tình hình này, Dawaco phải bơm dẫn nước từ đập phòng mặn An
Trạch trên sông Yên cách Nhà máy nước Cầu Đỏ khoảng 8km về xử lý. Tại đập An
Trạch, 3 tổ máy bơm luôn hoạt động hết công suất 24/24 giờ.
21

Ông Nguyễn Hữu Ba nói, việc sử dụng nguồn nước thay thế từ nguồn An Trạch
rất tốn kém, mỗi mét khối nước Dawaco chi phí thêm 550 đồng. Không chỉ tốn kém
về chi phí, mà điều đáng lo hơn là nếu hạn hán khắc nghiệt hơn trong mùa hè này sẽ
làm cho nguồn nước ngọt tại đập An Trạch thiếu hụt. Do đó, Dawaco đang chủ động
phối hợp với các đơn vị liên quan ở tỉnh Quảng Nam để chia sẻ nguồn nước sông Vu
Gia một cách hiệu quả và hợp lý nhất. Dawaco đang tập hợp các thông tin thủy văn để
đề xuất các biện pháp nhằm duy trì ổn định nguồn nước tại An Trạch cũng như lập
các phương án xử lý với các trường hợp nguồn nước bị suy giảm.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý
Mục tiêu của việc xử lý tình huống là nhằm giải quyết dứt điểm mâu thuẫn về
tranh chấp nguồn nước giữa các bên liên quan chính là Đà Nẵng, Quảng Nam và Ban
quản lý nhà máy thủy điện Đắk Mi 4. Ngoài ra, cũng cần phải duy trì dòng sông (ở
mức dòng chảy tối thiểu) để đảm bảo mục tiêu về môi trường sinh thái. Việc giải
quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có sự tham gia của các Sở ban ngành bao gồm:
UBND tỉnh Quảng Nam, UBND thành phố Đà Nẵng, Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn tỉnh Quảng Nam (Dard-QN), Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
thành phố Đà Nẵng (Dard-ĐN), Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam
(Donre-QN), Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng (Done-ĐN), Bộ Tài
nguyên và Môi trường (Monre), Ban quản lý nhà máy thủy điện Đắk Mi 4, Trung tâm
điều độ hệ thống điện Quốc gia (A0), Tập đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN), và Bộ
Công thương (MIT).
3.2. Đề xuất giải pháp
Hai giải pháp chính được đề xuất bao gồm:

1. Xây dựng quy trình vận hành hồ chứa
22

A. Lựa chọn A: xây dựng lại quy trình vận hành liên hồ (cả năm: cả mùa lũ
và mùa kiệt) trên cơ sở hài hòa tất cả các ngành: bao gồm tưới, cấp nước,
phát điện, phòng lũ và môi trường với ưu tiên là cấp nước sinh hoạt trong
trường hợp thiếu nước. Sau khi quy trình được phê duyệt thì các bên sẽ
phải tuân thủ nghiêm.
B. Lựa chọn B: xây dựng quy trình vận hành (cả năm) chỉ nhằm tối đa hóa
lượng phát điện của các nhà máy thủy điện và đảm bảo yêu cầu tối thiểu
về môi trường (để duy trì dòng chảy): tức là nhà máy được phép vận
hành theo quy trình này nhưng với điều kiện Ban quản lý nhà máy thủy
điện Đăk Mi phải bồi thường chi phí gia tăng, hoặc chi phí thiệt hại gây
ra do thiếu nước đối với tưới và cấp nước của các khu tưới và cấp nước
được đảm nhiệm bởi sông Vu Gia cho tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà
Nẵng (lưu ý rằng với mỗi lựa chọn A hoặc B ở trên thì có nhiều phương
án, ví dụ với lựa chọn B thì có nhiều phương án bồi thường ở các mức độ
khác nhau).
Việc xây dựng quy trình này cần phải được làm với sự tham gia đầy đủ, tích
cực của các bên liên quan ở tất cả các bước từ khảo sát đến xây dựng mô hình,
thiết kế và lựa chọn các phương án, trong đó bước tiếp theo được tiến hành khi
và chỉ khi đạt được sự đồng thuận của tất cả các bên ở bước trước đó.
2. Theo dõi, giám sát chặt chẽ quá trình vận hành hồ và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm.
Việc theo dõi cũng cần được làm với sự tham gia của người dân và các cơ quan
hữu quan. Trong trường hợp có vi phạm thì chủ thể vi phạm cần được xử lý
nghiêm minh theo các quy định, pháp luật của Nhà Nước.
23

3.3. Lựa chọn giải pháp

Cả hai giải pháp trên đều cần phải thực hiện. Nhưng với giải pháp 1 thì việc lựa
chọn phương án nào là tùy vào kết quả đàm phán giữa các bên liên quan (Ban Quản lý
thủy điện Đăk Mi 4, Tỉnh Quảng Nam, Thành phố Đà Nẵng, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, Tập Đoàn Điện
Việt Nam). Với lựa chọn B thì ngoài việc duy trì dòng chảy tối thiểu về môi trường,
Ban quản lý nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 sẽ có toàn quyền trong việc quyết định vận
hành nhà máy: hoặc xả đáp ứng nhu cấu nước tưới và nước sinh hoạt của tỉnh Quảng
Nam và thành phố Đà Nẵng, hoặc xả nước phát điện sang sông Thu Bồn và chấp nhận
bồi thường thiệt hại gây ra bởi hành động này cho tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà
Nẵng.
Tóm tại cần có đàm phán giữa các bên liên quan để lựa chọn phương án.
Phương án nào đạt được sự đồng thuận của tất cả các bên liên quan thì phương án đó
sẽ được chọn.
III. KIẾN NGHỊ
4.1. Kiến nghị với Đảng và Nhà Nƣớc
Những dự án lớn thường có tác động nghiêm trọng tới kinh tế, xã hội và môi
trường, đặc biệt là các dự án thủy điện. Kiến nghị nhà nước cần có đánh giá tác động
kinh tế, xã hội và môi trường khách quan, chính xác để đảm bảo phát triển bền vững.
Đồng thời cần tăng cường giám sát để đảm bảo công trình hoạt động đúng theo thiết
kế đã được phê duyệt, tránh tình trạng xảy ra các mâu thuẫn, và tác động tiêu cực tới
xã hội và môi trường.
Đối với các dự án phải di dời, tái định cư, đề nghị nhà nước cần có phương án
tái định cư, tái định canh phù hợp, khả thi trước khi tiến hành giải phóng mặt bằng.
Thường những người bị tái định cư là những người nghèo, do vậy việc đảm bảo sinh
24

kế cho họ sau khi di dời là rất quan trọng. Tiền đền bù có nhiều đến đâu đi chăng nữa
thì họ cũng tiêu hết nếu như không có ruộng đất, hay nghề nghiệp để tiếp tục sản xuất.
Nói chung thì chính sách tái định cư phải đảm bảo cho người dân sau tái định canh,
định cư có cuộc sống không tồi hơn trước khi có dự án.

Kiến nghị khác: kiến nghị nhà nước không sử dụng các nhà thầu Trung Quốc,
đặc biệt là trong xây dựng đập và nhà máy thủy điện.
4.2. Kiến nghị với các cơ quan chức năng
Trong thời gian chờ đợi quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Vu gia –
Thu Bồn, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm điều hòa nguồn nước
của hồ thủy điện Đăk Mi 4, đề nghị Ban quản lý nhà máy thủy điện Đăk Mi 4 nghiêm
chỉnh chấp hành quy trình vận hành theo thiết kế đã được phê duyệt.
Các bên liên quan, đặc biệt là UBND thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam
cần phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, thúc đẩy nhanh
việc xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn và
trình Chính Phủ phê duyệt.
III. KẾT LUẬN
Nước là nguồn tài nguyên quan trọng đối với đời sống và sản xuất. Mâu thuẫn
dùng nước xẩy ra thường xuyên. Nước nói riêng và tài nguyên thiên nhiên nói chung
là sở hữu toàn dân. Hầu hết các dự án đều ít hay nhiều sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên này. Do vậy, sự tham gia của người dân, của các bên liên quan trong quá trình
ra quyết định đối với tất cả các dự án là rất quan trọng. Các cơ quan chức năng trong
quá trình ra quyết định cần đảm bảo nguyên tắc có sự tham gia này.

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO


/>-Phat-trien-nong-thon-bo-tay/144/10994715.epi
/>2
Luật tài nguyên nước, Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp lý có liên quan.

PHỤ LỤC





Một số hình ảnh về hồ Đắc Mi 4
Dưới chân cửa xả đập thủy điện Đắk Mi 4, nước sông cạn kiệt. Ảnh: LÊ PHI

×