Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tieu luận môn tư tưởng HCM giá trị của tác phẩm sửa đổi lối làm việc và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.82 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Bằng trái tim, khối óc tinh tường và mẫn cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhìn thấu suốt những vấn đề đặt ra của một dân tộc vừa giành được độc lập, tự
do; những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Theo Người, “vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu
ngạo, xa hoa,… Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ”. Để
giải quyết tận gốc vấn đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải dựa vào sức
mạnh nội sinh của dân tộc, đó là văn hóa và con người Việt Nam. Trong đó, cần
đặc biệt quan tâm đến con người, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh tồn diện. Chính vì vậy, dù bận trăm
cơng nghìn việc và dành nhiều tâm trí chỉ đạo cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, với bút danh X.Y.Z., đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu
cho tổ chức đảng các cấp và cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng. Tác
phẩm hồn thành tháng 10/1947, đề cập đến cơng tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng; yêu cầu từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải sửa đổi từ tư
tưởng đến hành động, bảo đảm thích ứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng
mới.
Những vấn đề đặt ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho thấy giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà còn cả trong việc xây dựng hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ vai trò quan trọng như trên, đồng thời cũng là nhiệm vụ hồn
thành mơn học, vì vậy, qua việc học tập mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
qua các tác phẩm và văn kiện, người viết lựa chọn đề tài “Giá trị của tác phẩm


“Sửa đổi lối làm việc” và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam” để làm


bài tiểu luận điều kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
rút ra giá trị lý luận và thực tiễn. Từ đó vận dụng vào trong xây dựng Đảng cộng
sản Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là vận dụng tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu những vấn đề đặt ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn
không chỉ đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà còn cả
trong việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện
nay, ở ngay cơ quan đơn vị mà người viết đang công tác
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH VÀ GIÁ TRỊ TRONG TÁC
PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”
1.1. Những nội dung chính của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa, đất

nước, con người Việt Nam cả những mặt mạnh và hạn chế. Chính vì vậy, trong
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã chỉ ra những mặt hạn chế, khuyết điểm,
chứng bệnh, thói tật tiêu cực cụ thể cùng với nguyên nhân và tác hại để cán bộ,
đảng viên nghiên cứu kỹ, nhận thức rõ mà cố gắng sửa chữa. Cụ thể là:
1.1.1. Bệnh chủ quan, bệnh kiêu ngạo
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân của bệnh chủ quan là: “Kém lý
luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận sng”. Vì chủ quan mới sinh ra bệnh kiêu
ngạo, đó là “Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình,
khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành cơng
thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng khơng bằng mình”. Do chủ quan, kiêu
ngạo nên rất sợ phê bình, Người viết: “Khơng thèm học hỏi quần chúng, khơng
muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”; “Sợ phê
bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài
đi””.
1.2. Bệnh hẹp hịi
Hẹp hịi là thường chỉ biết đến mình, khơng có tinh thần hợp tác. Hẹp hịi
cùng với tính gia trưởng sẽ dẫn đến áp đặt ý muốn chủ quan của mình cho người
khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc theo kiểu “sống lâu lên lão làng”. Hẹp hòi còn
sinh ra bệnh bè phái, kéo bè kéo cánh đi đến chia rẽ, gây mất đồn kết, làm cho
bộ máy quản lý bị vơ hiệu; đồng thời, sinh ra bệnh cục bộ địa phương, địa
phương nào vun vén cho địa phương ấy, làm suy yếu sự hợp tác. Chính vì thế,
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi bệnh hẹp hòi là một thứ bệnh nặng trong Đảng, sinh


ra nhiều bệnh khác: “Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đồn
kết. Ngồi, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa
địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh
vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hịi mà
ra!”.
1.1.3. Bệnh khai hội

Có thể hiểu đây là bệnh hình thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “bệnh khai
hội”. Người viết: “Khai hội khơng có kế hoạch, khơng sắp sửa kỹ lưỡng, không
thiết thực. Khai hội lâu, khai hội nhiều quá. Cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về
huyện, cán bộ huyện về làng, thì khệnh khạng như “ơng quan”. Lúc khai hội thì
trăm ngàn lần như một… Vì vậy, mà quần chúng sợ khai hội… Đó cũng vì
bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, khai hội lấy lệ, khai hội để mà khai hội,
chớ nào phải vì lợi ích của quần chúng mà khai hội!”.
Liên quan đến bệnh “khai hội”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ ra
bệnh “hữu danh, vô thực” là loại bệnh: “Làm việc không thiết thực, khơng từ
chỗ gốc, chỗ chính, khơng từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi.
Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì
rỗng tuếch”. Điều đó dẫn đến hậu quả: “Thế là khơng làm trịn nhiệm vụ của
mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo
cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”.
Ngày nay, trong xã hội ta, khơng những bệnh hình thức vẫn chưa được đẩy
lùi, mà cịn có thêm bệnh phong trào. Đây là hiện tượng chạy theo người khác,
ngành khác, địa phương khác một cách thiếu cân nhắc vào năng lực, điều kiện,
hoàn cảnh và nhu cầu cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương, do đó, thường
khơng hiệu quả, lãng phí các nguồn lực.
1.1.4. Bệnh nể nang
Đây là thứ bệnh không dám nói thẳng, nói thật, né tránh, ngại va chạm,
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Điều này có ảnh hưởng
từ văn hóa trọng tình của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra căn
bệnh này của cán bộ, đảng viên: “Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh


em, cho nên lúc họ có sai lầm cũng cứ nể nang khơng thiết thực phê bình, thiết
thực sửa đổi, sợ mất lòng”.
Bệnh nể nang cũng là sự thể hiện của bệnh “dĩ hòa vi quý”. Từ “dĩ hòa vi
quý” đến “bệnh nể nang” cũng rất gần nhau khi xử lý cơng việc theo cách x

xoa, hướng đến sự hịa thuận bằng mọi giá, vơ ngun tắc, khơng có chính kiến,
không phân biệt phải trái, không dám đấu tranh cho lẽ phải.
1.1.5. Bệnh tham lam
Những cán bộ, đảng viên được giao giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý, nhất
là những lĩnh vực có nhiều lợi ích, nếu bản lĩnh khơng vững vàng dễ bị cám dỗ,
dễ sinh lòng tham. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người mắc phải
bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó
mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để
theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc
đó ở đâu ra? Khơng xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ
đen bn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của
mình”.
Ngày nay, bệnh tham lam được cho là một trong những nguyên nhân dẫn
đến bệnh tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đang chống căn bệnh này rất quyết
liệt.
1.1.6. Bệnh thiếu kỷ luật
Căn bệnh này nếu xuất hiện ở đội ngũ cán bộ, đảng viên thì hậu quả
nghiêm trọng và nguy hiểm là dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân đối với
Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh thiếu kỷ luật có nguồn gốc từ chủ
nghĩa cá nhân, Người chỉ rõ: “Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động
cũng đặt cá nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng khơng lấy Đảng làm nền tảng.
Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt
cơng kích những đồng chí mình khơng ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những
người mình quen thuộc”.
Bệnh thiếu kỷ luật trong Đảng là một trong những nguyên nhân chính sinh
ra bệnh thiếu ý thức thực thi nghiêm pháp luật trong xã hội.


1.1.7. Bệnh cận thị
Có thể hiểu đây là bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn. Bệnh này làm cho con

người ta thường bỏ qua cái tổng thể, sa đà vào các tiểu tiết, nhìn thấy cái nhỏ mà
bỏ qua cái lớn, nhìn thấy cái trước mắt mà bỏ qua cái lâu dài, nhìn thấy cái gần
mà bỏ qua cái xa, khơng biết tính tốn, định liệu, mọi thứ loay hoay giậm chân
tại chỗ, công việc kém hiệu quả, sinh ra chủ quan, “đến đâu hay đến đó”, “nước
đến chân mới nhảy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Những vấn đề to tát thì khơng
nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ: việc tăng gia sản xuất, việc
tiếp tế bộ đội thì khơng lo đến, mà chỉ lo thế nào để lợi dụng cơm cháy và nước
gạo trong các bộ đội. Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen
mà không thấy sự lợi hại to lớn”.
1.1.8. Bệnh bệnh xu nịnh, a dua
Đối với những căn bệnh này của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thẳng thắn chỉ rõ: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì
ai cũng xấu. Thấy xơi nói xơi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm,
khơng có khí khái”(14). Người yêu cầu: “Kiên quyết chống thói nể nang và che
giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng””.
1.1.9. Bệnh cá nhân
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện của bệnh cá nhân thể hiện dưới
nhiều hình thức, chẳng hạn như “mặc kệ”, mà người dân đã đúc kết thành nhiều
câu, như “ôm rơm rặm bụng”, “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, “sống
chết mặc bay”, “mũ ni che tai”… Người viết: “Nghe những lời bình luận khơng
đúng, cũng làm thinh, khơng biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách
mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ…
Gặp dân chúng thì khơng điều tra, khơng hỏi han, khơng tun truyền, khơng
giải thích. Xem dân chúng như khơng có quan hệ gì với mình… Thấy những
việc có hại đến dân chúng cũng mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản,
khơng giải thích”. Căn bệnh này càng nguy hiểm khi mà đội ngũ cán bộ, đảng


viên mắc phải, bởi “mắc phải bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi ích cá nhân lên
trên, để lợi ích của Đảng và dân tộc xuống dưới”. Người đánh giá: “Đó là thái độ

của những đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu ớt”.
1.1.10. Bệnh tị nạnh
Bệnh tị nạnh là khơng muốn cho ai hơn mình, làm triệt tiêu mọi sáng kiến,
sinh ra bệnh kèn cựa, ghen ăn tức ở, đó là: “Con gà tức nhau tiếng gáy”, “Trâu
buộc ghét trâu ăn”, “Khơng ăn được thì đạp đổ”… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ nguyên nhân của thứ bệnh này là do nhiều người không hiểu rõ hai chữ “bình
đẳng”: “Cái gì cũng muốn “bình đẳng”. Thí dụ: cấp trên vì cơng việc phải cưỡi
ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe… Phụ cấp cho thương binh
cũng muốn nhất luật, không kể thương nặng hay nhẹ. Làm việc gì, thì muốn già,
trẻ, mạnh, yếu đều làm bằng nhau. Có việc, một người làm cũng được, nhưng
cũng chờ có đủ mọi người mới chịu làm. Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ
bình đẳng”.
1.1.11. Chống thói ba hoa
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành hẳn phần VI của tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc để nói về việc chống thói ba hoa. Người cho rằng, đây là một trong những
chứng bệnh rất nguy hiểm. Người phân tích chứng bệnh này thể hiện ở cách nói:
Dài dịng, rỗng tuếch; có thói “cầu kỳ”; khơ khan, lúng túng; báo cáo lông bông;
lụp chụp, cẩu thả; bệnh theo “sáo cũ”; nói khơng ai hiểu; bệnh hay nói chữ. Cụ
thể, có ba biểu hiện nặng nhất của thói ba hoa:
Một là, nói mênh mơng: Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy ở một số cán bộ, đảng
viên, nhất là người lãnh đạo, thường mắc căn bệnh thích nói dài, độc thoại, nói
thì rất nhiều nhưng thơng tin mang lại cho người nghe khơng có gì: “Thường
thường đại biểu cấp trên đến khai hội với cấp dưới, trong lúc khai hội, chỉ một
mình “ơng” đại biểu, hay “bà” đại biểu nói, nói hàng hai, ba giờ đồng hồ. Nói
mênh mơng trời đất. Nói gì cũng có. Nhưng chỉ chừa một điều khơng nói đến là
những việc thiết thực cho địa phương đó, những việc mà dân chúng ở đó cần
biết, cần hiểu, cần làm, thì khơng nói đến!”.


Hai là, báo cáo lông bông: Đây là biểu hiện làm thì ít, nói thì nhiều, giấu đi

những khuyết điểm mà chỉ nói về thành tích: “Thành cơng ít, thì st ra nhiều.
Cịn khuyết điểm thì giấu đi, khơng nói đến. Thành thử cấp trên khơng hiểu rõ
tình hình mà đặt chính sách cho đúng”.
Ba là, nói khơng ai hiểu: Đây là biểu hiện rất nguy hiểm của thói ba hoa
khi tuyên truyền mà quần chúng không hiểu: “Nhiều tờ truyền đơn, nhiều bản
nghị quyết, nhiều khẩu hiệu của Đảng, mục đích và ý nghĩa rất đúng. Nhưng viết
một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng khơng hiểu, mà cả
cán bộ cũng khơng hiểu”.
Có thể nói, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đã nêu ra hầu hết các khuyết
điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên thường mắc
phải và cách khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo, chỉ cần mắc một bệnh
là hỏng việc và gây tác hại cho Đảng, cho Chính phủ và nhân dân. Chính vì vậy,
Người yêu cầu: “Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng
viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí
mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình
sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, cơng việc mới chóng thành
cơng”. Điều đó cũng có nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề cần xây
dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam trong xã hội mới.
1.2. Giá trị của tác phẩm
1.2.1. Giá trị lý luận
“Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt sâu sắc. Nó
thể hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong
cách Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống các nguyên tắc,
nguyên lý, quy luật cơ bản thành một tổng thể về công tác xây dựng, chỉnh đốn
đảng trong điều kiện trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhân dân trong đấu
tranh giành độc lập, xây dựng đất nước. Đó là các nguyên tắc xây dựng đảng về
tư tưởng, tổ chức, công tác cán bộ, về đạo đức cách mạng, tư cách của cán bộ,
đảng viên, về phương thức, phương pháp, phong cách lãnh đạo của đảng, quan
hệ giữa tổ chức, các nhân, cán bộ đảng viên với quần chúng Nhân dân.



Nội dung lý luận trong “Sửa đổi lối làm việc” vừa kế thừa lý luận Mác Lênin về xây dựng đảng, kế thừa đạo đức nho giáo của các nước phương Đơng
và từ truyền thống văn hóa dân tộc, vừa bổ sung, phát triển, làm phong phú lý
luận đó nên nhiều vẫn đề quan trọng nhằm nâng cao uy tín, sức mạnh, sức chiến
đấu của đảng cũng như từng cán bộ đảng viên.
Các quan điểm lý luận đó của tác phẩm có tác dụng giáo dục, định hướng,
chỉ đạo trong công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh qua mọi thời kỳ
phát triển, đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước.
1.2.2. Giá trị thực tiễn
“Sửa đổi lối làm việc” là cuốn cẩm nang học tập có giá trị thiết thực, bổ ích
trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, nó nhằm giúp cho
mỗi cán bộ đảng viên nhận thức được những chuẩn mực, vạch cho mỗi người
thấy được những “bệnh” hay mắc phải và giúp họ nắm các giải pháp để nhận
thức, sửa chữa, giúp họ trở thành những người cách mạng chân chính, trung
thành với sự nghiệp cao cả của đảng và của Nhân dân góp phần giành, giữ chính
quyền, lãnh đạo Nhân dân xây dựng đất nước, tiến tới hoàn thành yêu cầu cách
mạng giai đoạn hiện nay là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đến nay, “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ chủ tịch vẫn còn nguyên giá trị nội
dung để đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, đẩy
lùi các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, độc đốn, chun quyền,
ba hoa, hẹp hịi, ích kỷ. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
nói chung, “Sửa đổi lối làm việc” nói riêng càng góp phần nâng cáo năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự trở thành một đảng
cầm quyền “Là đạo đức, là văn minh” góp phần làm cho từng cán bộ đảng viên
thấm nhuần hơn nữa tư tưởng của Người, để tự rèn giũa mình trợ thành những
người cách mạng chân chính.


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” VÀO
XÂY DỰNG ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam qua tác phẩm
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết xong
tháng 10 năm 1947 ký tên XYZ - nhà xuất bản Sự Thật xuất bản lần đầu tiên
năm 1948, đến năm 1959 đã tái bản lần thứ 7, sau đó cuốn sách này được tái bản
nhiều lần nữa. Chỉ với trên 26.700 chữ, nhưng từ khi ra đời đến nay, “Sửa đổi lối
làm việc” luôn là một văn kiện quan trọng về công tác xây dựng Đảng.
Tác phẩm được viết trong một thời kỳ đặc biệt, đất nước đang trong “ngàn
cân treo sợi tóc”, trong 2 ngày kẻ thù đã gửi cho ta 3 tối hậu thư buộc hạ vũ khí,
nhưng rõ ràng, chúng đã buộc chúng ta cầm súng để bảo vệ độc lập và chính
quyền non trẻ của mình. Cuộc kháng chiến trường kỳ càng khó khăn, gian khổ
thì u cầu về sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Để kịp thời chỉnh đốn
đảng, phê bình những khuyết điểm, sai lầm, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã
kịp thời ra đời để sửa đổi lối làm việc của Đảng. Hay nói cách khác, Đảng và
cán bộ đảng viên học tập các nội dung mang tính chuẩn mực của tác phẩm, soi
rọi vào đó để thấy các “bệnh”, các khyếm khuyết của mình để có các biện pháp
sửa chữa nhằm xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân
ngang tầm nhiệm vụ, đủ sức chiến đấu với thù trong giặc ngồi, đủ lực để diệt
giặc đói, giặc dốt, đủ trí tuệ, đạo đức để lãnh đạo tồn dân kháng chiến kiến
quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Được viết cách đây 73 năm. Nhưng đến nay nội dung, tư tưởng của tác
phẩm vẫn còn nguyên giá trị vận dụng, học tập cho toàn đảng và cho mỗi cán bộ
đảng viên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Có một thực tế làm cho mọi người đều thán phục, ngạc nhiên “Sửa đổi lối
làm việc” Bác viết cách đây 73 năm nhưng toàn bộ những vấn đề Bác chỉ ra
trong tác phẩm dường như Người viết cho hơm nay, đó là những thực trạng cấp


bách, gay gắt, phức tạp, và vô cùng nan giải trong công tác xây dựng Đảng,
công tác cán bộ hiện nay. Những “căn bệnh” trong Đảng mà Người viết đều
đúng như nhận định của Nghị quyết TW IV Khoá XI: “Một bộ phận khơng nhỏ

cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý,
kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa các
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc…”.
Chính vì vậy Đảng đã vận dụng và đưa ra 4 nhóm giải pháp (Nghị quyết
TW IV) trong “Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay”, đó là tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiên phong gương mẫu của cấp
trên, các giải pháp về tổ chức cán bộ và sinh hoạt đảng, các giải pháp về cơ chế
chính sách và các giải pháp về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Bên cạnh
việc thực hiện đồng bộ 4 nhóm giải pháp trên, Đảng ta cũng phát động phong
trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách sâu rộng,
đây là phương cách thiết thực, trọng tâm trong cuộc chỉnh đốn đảng lần này, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương
đạo đức của Người, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội XI của
đảng.
Qua một năm thực hiện Nghị quyết Đại Hội TW IV khóa XI “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”, tại hội nghị TW VII khóa XI, ban chấp
hành trung ương Đảng đã nghe, thảo luận và nhận định; việc thực hiện Nghị
quyết TW IV - khóa XI diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động rất
phức tạp, khó khăn nhiều hơn, tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp so với dự báo,
thương mại sụt giảm mạnh. Các nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, EU, Nhật
Bản, có vị thế quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ta, tăng trưởng
chậm, đã tác động không thuận đến sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Ở trong
nước kinh tế vĩ mô chưa ổn định, việc thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế
lạm phát là cần thiết nhưng hệ quả là cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho lớn,


sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua

nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với đảng…Bên cạnh đó, chúng ta phải dành nhiều thời gian và cơng sức để đối
phó với thiên tai, dịch bệnh, các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch gây
mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia trên biển Đông….
Trong bối cảnh đó, với nỗ lực, trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao của
tồn đảng đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng như: Về nhận thức,
các cấp ủy, tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên
đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của cơng tác xây
dựng Đảng trong tình hình mới, thấy rõ tính cấp bách và sự cần thiết phải tiếp
tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh.
Thứ hai là, đã giải quyết một số vấn đề nổi cộm, bức xúc trong Đảng
và Nhân dân, đạt được kết quả bước đầu quan trọng.
Thứ ba là, Bước đầu tự sửa chữa, điều chỉnh để nâng cao năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc, nghiêm khắc với mình hơn, giữ
gìn đạo đức, lối sống.
Thứ tư là, cơng tác kỷ luật, kỷ cương được quan tâm, nghiêm túc hơn.
Thứ năm là bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, hoàn thành mục
tiêu, nhiệm vụ cơ bản đề ra, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,
đảm bảo an sinh xã hội, củng cố an ninh quốc phịng, an ninh, giữ vững trật tự
an tồn xã hội, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế đất nước.
Và thứ sáu, bước đầu tích lũy thêm kinh nghiệm trong cơng tác xây dựng
đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng, sự đoàn kết
thống nhất trong đảng, sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin trong đảng
và Nhân dân.
Tuy nhiên, Đảng ta cũng mạnh dạn thừa nhận những hạn chế “một số
đồng chí” chưa nhìn nhận đúng khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước
những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực được giao phụ trách, còn nể nang, né
tránh, ngại va chạm. trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng



các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn “chưa làm rõ được tính chất, mức độ
nghiêm trọng” của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm…Những khuyết
điểm trên là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ, đị hỏi
phải có nhiều thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết được.
Và để tiếp tục thực hiện có hiệu quả về xây dựng Đảng trong những năm
tiếp theo, với tinh thần kiên quyết, kiên trì, từng bước vững chắc, cấp ủy, tố chức
đảng các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thự hiện tốt các nhiệm vụ trọng
tâm.
Một là, tiếp tục sửa chữa khuyết điểm, yếu kém một cách nghiêm túc.
Hai là, tiếp tục thực hiện và hồn chỉnh cơ chế, chính sách.
Ba là, tiếp tục thực hiện các chủ trương về công tác cán bộ, công tác quy
hoạc và chuẩn bị nhân sự cho Đại hội.
Bốn, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Năm, tiếp tục thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
Sáu là, tiếp tục làm tốt hơn nữa cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Sửa đổi lối làm việc” năm 1947 tại chiến khu
Việt Bắc. Đã 73 năm trôi qua, được học, được đọc lại “Sửa đổi lối làm việc” của
Người là niềm vinh dự, tự hào cho mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta, để mỗi cán
bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam có thể ấm áp cảm nhận được những
tình cảm trìu mến, chân thành nhưng nghiêm khắc của Người, như Bác đang nói
với chúng ta về các vấn đề cấp thiết mà Đảng, dân tộc, mỗi cán bộ, đảng viên đã
và đang cùng nhau giải quyết. Để hiểu rõ ý nghĩa to lớn của tác phẩm, cần đặt
nó trong hàng loạt các tài liệu có liên quan mà Người đã dành hết tâm huyết
trong mấy chục năm trời. Năm 1927, nhằm đào tạo những người cộng sản đầu
tiên cho đất nước Bác viết “Đường cách mệnh” để xác định tư cách của người
cách mạng. Năm 1940, trong số 6 bài Bác viết để huấn luyện cán bộ thì có một
bài chun bàn về tư cách của người cách mạng. Năm 1946, khi chính quyền
cách mạng non trẻ ra đời, Bác viết thư gửi các đồng chí Nghệ Tĩnh, các đồng chí
Bắc Kỳ và các đồng chí Trung Kỳ. Trong các bức thư tâm huyết đó, Bác dặn các

đồng chí của mình phải giữ vững tư cách của người cách mạng, phải kiên quyết


khắc phục được những sai lầm, khuyết điểm của người cán bộ lãnh đạo, người
cầm quyền. Trước lúc đi xa, Người viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân” và trong di chúc để lại Bác căn dặn phải làm thật tốt
công tác chỉnh đốn Đảng, phải giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ nhũng chủ nhân tương lai của đất nước. Và đặc biệt, trong “Sửa đổi lối làm
việc”, tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ đảng viên là công việc quan
trọng hàng đầu của Đảng. Người căn dặn chúng ta rằng người cán bộ, đảng viên
là người đưa chính sách của đảng và Nhà nước với Nhân dân. Họ phải giải thích,
thuyết phục quần chúng để quần chúng hiểu, tin và làm theo. Cán bộ, đảng viên
còn là người phản ánh với Đảng và chính phủ những tâm tư khát vọng, điều kiện
sống của Nhân dân để Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương đúng đắn. Với vai
trò đó, Bác gọi cán bộ là gốc của mọi cơng việc và việc huấn luyện, giáo dục cán
bộ phải là công việc gốc của Đảng, và việc giáo dục tư cách đạo đức cách mạng
phải đặt lên hàng đầu.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, nếu thiếu tư cách và đạo đức cách mạng, cán bộ
sẽ khó nhận thức được chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, nhiều
trường hợp họ cịn bóp méo chủ trương chính sách đó, làm cho Nhân dân hiểu
sai về Đảng, chính phủ. Cũng từ đó, không phản ánh trung thực tâm tư, khát
vọng, điều kiện sống của Nhân dân, làm cho Đảng, chính phủ khơng đề ra được
chủ trương, chính sách phù hợp, làm cho Nhân dân thiếu tin tưởng Đảng, chính
phủ. Do vậy, việc giáo dục tư cách đạo đức cách mạng phải là công việc thường
xuyên, liên tục, thường trực của Đảng, đặc biệt khi cách mạng có những bước
ngoặc lớn. Đây là bài học lớn, cơ bản, xuyên suốt từ tác phẩm.
Có thể nói “Sửa đổi lối làm việc là một cương lĩnh chính trị sống động, là
một tác phẩm kinh điển có giá trị cao về lý luận và thực tiễn, là cẩm nang quý để
mỗi cán bộ, đảng viên tự xem xét, đánh giá, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, phong cách làm việc và phương pháp, cách ứng xử hằng ngày. Tác
phẩm ngắn gọn nhưng súc tích, đề cập đến nhiều vấn đề mang tính sống còn của

Đảng nhằm đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo cách mạng, yêu cầu tự đổi mới, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, yêu cầu đổi mới, nâng cao


hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng.
2.2. Học tập và làm theo Bác qua tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
hiện nay
Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang triển khai thực hiện
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đó cũng là
vận dụng tư tưởng của người trong “Sửa đổi lối làm việc”, việc huấn luyện giáo
dục tư cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là công việc gốc của
Đảng. Việc tổ chức nghiên cứu, học tập một cách sâu sắc và toàn diện nội dung
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều bài
học bổ ích, thiết thực trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy
hành chính, để Đảng ta thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của
dân tộc và nhà nước của chúng ta thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tồn Đảng, tồn dân, toàn
quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực nghiên cứu, học tập, quán
triệt những chỉ dẫn của Người trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, từ đó, có
những nhận thức, hành động thiết thực, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi những
khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực, hình thành những giá trị, chuẩn mực
mới thích ứng với yêu cầu trong bối cảnh mới.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bên cạnh những
thành tựu to lớn đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta vẫn cịn
một số hạn chế, đặc biệt là tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định: “Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
cịn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng khẳng định: “Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận cịn diễn biến phức tạp hơn”. Văn kiện


Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai
nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.
Một trong những ngun nhân chính của tình trạng này là do việc xây
dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam cịn chậm chuyển biến,
chưa được các cấp ủy, chính quyền, đồn thể thật sự quan tâm, chưa được cụ thể
hóa, chưa kết hợp được những giá trị văn hóa, chuẩn mực truyền thống tốt đẹp
với những giá trị văn hóa, chuẩn mực mới, hiện đại, tiên tiến. Để khắc phục tình
trạng này, cần phải kế thừa, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn
mực con người Việt Nam thời kỳ mới.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị quan trọng của văn hóa trong cơng cuộc
vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Người cho rằng, động lực của kháng chiến và
kiến quốc phải được tìm trong văn hóa, trong các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời, cần tìm trong nguồn lực,
tiềm năng sáng tạo của con người. Vì vậy, Người khẳng định: “Văn hóa soi
đường cho quốc dân đi”. Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh, mỗi cán bộ,
đảng viên ở các cấp, các ngành phải là tấm gương để mọi người noi theo:
“Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
“Mực thước” ở đây có nghĩa là cán bộ, đảng viên phải là hiện thân của những
giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, để làm gương và lan tỏa những giá
trị văn hóa tốt đẹp đó đến mọi người.
Dưới ánh sáng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, con người

Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã chỉ rõ bản sắc văn
hóa của Việt Nam: “Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Đồng
thời, Đảng ta xác định: Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là chủ


thể sáng tạo lịch sử, là mục tiêu và động lực của đổi mới của chủ nghĩa xã hội.
Vì thế, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln chủ trương xây dựng
hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các định hướng giá trị
con người Việt Nam được nhấn mạnh trong thời kỳ đổi mới là con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Trong giai đoạn phát triển mới, nước ta cịn phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, thách thức, như nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế,
yếu kém; hậu quả của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu; xu
hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa
tăng mạnh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ
ra cịn tồn tại, có mặt cịn gay gắt hơn. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu
mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi
hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải phát huy ý chí, sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc, sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Muốn
vậy, trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam, cần phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, bổ sung
một số giá trị mới, đi liền với loại bỏ những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật
tiêu cực (được ghi trong ngoặc đơn), đó là: Ý thức tơn trọng pháp luật (bệnh
thiếu kỷ luật); tinh thần trách nhiệm (bệnh cá nhân, mặc kệ, hữu danh vơ thực);

tính chun nghiệp (bệnh khai hội, hình thức); tinh thần hợp tác (bệnh cá nhân,
tham lam, hẹp hòi); tinh thần dân chủ (bệnh chủ quan, kiêu ngạo, tỵ nạnh); tính
ngun tắc (thói ba hoa); lịng tự trọng (thói ba hoa, bệnh xu nịnh, a dua); tinh
thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (bệnh cận thị, nể nang)…
Các giá trị bổ sung này đều đã có trong mỗi con người Việt Nam, vấn đề
chỉ là khơi dậy và phát huy. Vì vậy, việc cụ thể hóa các giá trị truyền thống tốt
đẹp và phát huy thành những giá trị chuẩn mực để giáo dục, thực hành, rèn
luyện thường xuyên trong đời sống hằng ngày cho cán bộ, đảng viên và nhân


dân ta là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội hiện đại, nền sản
xuất công nghiệp, xu hướng phát triển kinh tế tri thức trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:
“Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng
con người Việt Nam để “từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con
người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ,
hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.


KẾT LUẬN
*
“Sửa đổi lối làm việc” là một tác phẩm chính trị quan trọng của Hồ Chí
Minh về cơng tác xây dựng Đảng. Đây là tác phẩm có tính chiến đấu, tính Đảng,
tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tác phẩm ngắn gọn nhưng bao quát nhiều vấn
đề quan trọng, những nguyên tắc tối cần thiết trong cách thức, phương pháp, lề
lối, tổ chức, thực hiện…của Đảng, Nhà nước, chính quyền và của từng cán bộ,

đảng viên. Tác phẩm đưa ra những khiếm khuyết, những giải pháp trong quan hệ
giữa hệ thống chính trị, cán bộ, cơng chức, đảng viên với quần chúng nhân dân.
Tồn bộ tác phẩm tốt lên những tư tưởng lớn lại, những tư duy biện chứng,
khoa học mang tính quy luật, tính nguyên tắc, và những tư tưởng ấy vẫn nóng
hổi hơi thở thời đại, vẫn còn sáng người giá trị giáo dục, định hướng trong quá
trình xây dựng, phát triển từng ngày của đất nước. Có thể nói “Sửa đổi lối làm
việc là một cương lĩnh chính trị sống động, là một tác phẩm kinh điển có giá trị
cao về lý luận và thực tiễn, là cẩm nang quý để mỗi cán bộ, đảng viên tự xem
xét, đánh giá, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, phong cách làm
việc và phương pháp, cách ứng xử hằng ngày.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang triển khai thực hiện cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đó cũng là vận
dụng tư tưởng của người trong “Sửa đổi lối làm việc”, việc huấn luyện giáo dục
tư cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là công việc gốc của Đảng.
Việc tổ chức nghiên cứu, học tập một cách sâu sắc và toàn diện nội dung tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều bài học
bổ ích, thiết thực trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành
chính, để Đảng ta thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc
và nhà nước của chúng ta thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Học và
làm theo tư tưởng của Bác qua “Sửa đổi lối làm việc” là học và làm theo chuẩn
mực của đạo đức cách mạng để phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, hướng
đến một mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.
5.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương

Đảng, Hà Nội, 2016.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
5. Dẫn theo: “Vì tình thế Hội nghị văn hóa tồn quốc đã bế mạc sau một
ngày thảo luận”, Báo Cứu quốc, số ra ngày Thứ Hai, 25-11-1946 (số 416).
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6.
7. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
8. Xem: Trần Ngọc Thêm: Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2017.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I.



×