LỜI NĨI ĐẦU
Sự phát triển vượt bậc của cơng nghệ thông tin trong thế kỷ 20 và việc
ứng dụng những thành tựu của nó vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội đã tạo nên những sản phẩm tiện ích đối với con người. Thẻ ngân
hàng đã ra đời trên cơ sở kết hợp hài hồ giữa cơng nghệ ngân hàng và công
nghệ thông tin. Được xem là một phương thức thay thế tiền mặt hàng đầu
trong các giao dịch tiêu dùng, thẻ ra đời không chỉ đem lại lợi ích cho ngân
hàng và khách hàng mà cịn có tác dụng tích cực đến nền kinh tế. Trong hơn
nửa thế kỷ qua, thẻ đã trở thành phương tiện thanh toán chủ yếu trong tiêu
dùng cá nhân ở nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam vẫn được coi là một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt.
Tình trạng giao dịch quá nhiều bằng tiền mặt dẫn đến việc phải sử dụng
nhiều nhân lực, tốn nhiều thời gian và làm tăng chi phí hoạt động. Theo ước
đốn của một chun gia ngân hàng, tình trạng sử dụng quá lớn tiền mặt
trong nền kinh tế nước ta hiện nay đang làm cho chúng ta mỗi năm mất đi
tới 1 tỷ đô la Mỹ- một con số khổng lồ nếu so sánh với mức thu nhập quốc
dân còn khiêm tốn.
Thẻ xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1990 bắt đầu bằng
việc Ngân hàng Ngoại thương (NHNT) thực hiện hoạt động thanh tốn thẻ
tín dụng quốc tế. Từ đó đến nay, NHNT đã khơng ngừng đẩy mạnh hoạt
động thanh tốn thẻ, đồng thời từng bước thực hiện phát hành thẻ tại Việt
Nam. Tuy nhiên cho đến nay, thẻ vẫn chưa thay thế được tiền mặt để tạo ra
một cuộc cách mạng về giao dịch như nó từng tạo ra trên thế giới.
Tại Việt Nam, NHNT luôn đi đầu trong hoạt động kinh doanh thẻ nói
chung cũng như trong nghiệp vụ phát hành thẻ nói riêng. Tuy nhiên, Ngân
hàng cũng gặp phải một sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương
mại trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Vì vậy, việc nghiên
cứu các đối thủ, từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp để tăng tính cạnh
1
tranh của Ngân hàng trong hoạt động phát hành thẻ, tăng lợi nhuận của Ngân
hàng là điều cần phải được thực hiện.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THẺ
I.
Hai hình thức thanh toán tiền tệ
Tiền tệ vừa là sản phẩm vừa là cơng cụ phát triển của nền kinh tế hàng
hố. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau
phải dùng tiền tệ. Vì vậy, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan, là
điều kiện cần thiết để phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Thanh toán tiền tệ được thực hiện dưới hai hình thức: thanh tốn bằng
tiền mặt và thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
Thanh tốn tiền mặt
Thanh tốn dùng tiền mặt là việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong
các quan hệ thanh toán thu chi. Đặc điểm của mối quan hệ thanh toán này là
việc thanh toán được thực hiện trực tiếp giữa người mua- người bán, khơng
có sự xuất hiện của bên thứ ba, do đó các ngân hàng thương mại khơng có
vai trị gì trong mối quan hệ thanh toán này. Trong thanh toán tiền mặt, sự
vận động của hàng hoá gắn liền với sự vận động của tiền tệ và tiền tệ đóng
vai trị làm vật mơi giới trong q trình lưu thơng. Nhưng khi sản xuất và
trao đổi phát triển đến một trình độ cao hơn thì việc thanh tốn trực tiếp
bằng tiền mặt khơng cịn giữ địa vị độc tơn, khơng những thế nó cịn tỏ ra có
nhiều điểm khơng thích hợp. Sự hạn chế của nó thể hiện ở chỗ giao dịch
thường có giá trị lớn hơn trước, do đó cần phải có một khối lượng lớn tiền
mặt. Điều đó làm cho các đơn vị kinh doanh tốn nhiều chi phí và chịu nhiều
rủi ro, đặc biệt là khi không gian sản xuất được mở rộng, nhiều đơn vị kinh
doanh có mối quan hệ làm ăn ở rất xa nhau, đồng thời gây ra nhiều khó khăn
cho nhà nước trong việc quản lý tiền tệ.
2
Những bất tiện của việc sử dụng tiền mặt trong thanh tốn địi hỏi
phải có thêm những hình thức thanh tốn thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với sự
phát triển vượt bậc của hệ thống ngân hàng, các dịch vụ, các cơng cụ thanh
tốn đã được ngân hàng nghiên cứu đưa ra để khách hàng lựa chọn cho mình
một hình thức thanh tốn thích hợp thay cho thanh tốn tiền mặt. Thanh tốn
khơng dùng tiền mặt phát sinh từ đó và càng ngày càng đóng vai trị quan
trọng trong nền kinh tế.
Thanh tốn khơng dùng tiền mặt
Thanh tốn khơng dùng tiền mặt là tổng hợp các mối quan hệ chi trả
tiền tệ khơng có sự xuất hiện của tiền mặt. Đặc trưng của phương thức này là
sự vận động của hàng hoá, dịch vụ độc lập với sự vận động của tiền tệ cả về
thời gian lẫn không gian và thơng thường hai q trình này khơng ăn khớp
với nhau. Trong phương thức này, tiền mặt không làm trung gian trao đổi
mà chính hình thức tiền tệ kế tốn (tiền ghi sổ) thực hiện chức năng này.
Khác với thanh toán dùng tiền mặt chỉ là quan hệ thanh toán giữa
người mua và người bán, trong thanh tốn khơng dùng tiền mặt, ngồi chủ
thể chịu trách nhiệm thanh tốn và chủ thể được hưởng thường có sự tham
gia của ít nhất là một ngân hàng nên ngân hàng có một vai trò to lớn, vừa là
người tổ chức, vừa là người thực hiện, đồng thời là người kết thúc quá trình
thanh toán. Sự tham gia của ngân hàng cùng với các phương tiện hiện đại và
các mối quan hệ đa dạng vào q trình thanh tốn sẽ giúp cho việc thực hiện
các hoạt động thanh toán cho doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng và an tồn.
Các đơn vị kinh doanh chỉ cần mở tài khoản tại ngân hàng và ký lệnh thanh
toán khi cần thiết là mọi hoạt động thanh toán coi như đã được hoàn tất. Hơn
nữa, số tiền trong tài khoản của doanh nghiệp lại rất an toàn và có thể sinh
lãi trong thời gian chưa dùng đến. Như vậy, hoạt động thanh toán đã được
đơn giản rất nhiều, giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế cũng như các doanh
nghiệp. Các hoạt động như vận chuyển tiền, kiểm tra tiền để thanh tốn
khơng cịn nữa, lượng tiền trong lưu thơng và các chi phí lưu thơng cần thiết
như chi phí in tiền, vận chuyển và bảo quản tiền giảm, tiền nhàn rỗi lại được
tận dụng để phát triển kinh tế xã hội.
3
Hoạt động thanh toán qua ngân hàng, cùng với sự phát triển của
những ứng dụng của công nghệ thông tin trong ngân hàng, đang ngày càng
phát triển. Hệ thống ngân hàng ngày càng được hoàn thiện về mọi mặt để
thực hiện tốt chức năng thanh toán cũng như các chức năng khác mà nền
kinh tế đã giao phó cho ngân hàng.
Một số cơng cụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt
Vì tính chất hoạt động thanh tốn rất đa dạng, diễn ra trong các phạm
vi khác nhau, phục vụ cho các đối tượng khác nhau, do vậy các phương tiện
thanh toán khơng dùng tiền mặt cũng có nhiều loại khác nhau. Sau đây chỉ
đề cập đến một số phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt có sự xuất
hiện của ngân hàng làm trung gian thanh toán:
Sec: là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện, do khách hàng của
ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích ra một số tiền nhất định trên tài khoản
của mình mở tại ngân hàng, để trả cho người cầm séc hoặc cho người (tổ
chức hay cá nhân) được chỉ định trên tờ sec. Việc sử dụng séc cho phép việc
thanh toán được thực hiện ở xa và an toàn, tiện lợi hơn tiền mặt.
Uỷ nhiệm thu: là phương tiện thanh toán mà tổ chức hoặc cá nhân uỷ
nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá đã giao hoặc dịch vụ đã cung
ứng. Việc thanh tốn này u cầu bên bán phải hồn toàn tin tưởng vào bên
mua.
Uỷ nhiệm chi- chuyển tiền: là lệnh chi tiền của chủ tài khoản ra lệnh
cho ngân hàng trích tài khoản của mình để trả cho đơn vị hoặc cá nhân được
hưởng. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được thực hiện với những đối tác có
tín nhiệm lẫn nhau, vì vậy cùng với uỷ nhiệm thu, nó khơng thích hợp đối
với thị trường đơng người mua và người bán và họ khơng có thơng tin về
nhau.
Thư tín dụng: là phương tiện thanh toán trong điều kiện đơn vị bán
hàng địi hỏi đơn vị mua phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng
số tiền hàng hoá giao theo hợp đồng hoặc theo đơn đặt hàng đã ký. Hình
4
thức này thường được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Thư tín dụng được
ngân hàng bảo đảm nhưng việc thực hiện phức tạp, tốn kém.
Thẻ: là một phương tiện thanh tốn hiện đại do ngân hàng (hoặc cơng
ty) phát hành cho khách hàng của mình để thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ
và rút tiền mặt. Các cơng cụ khác, ngồi séc, đều u cầu một khoản phí khá
lớn cho từng giao dịch, đặc biệt là những giao dịch khối lượng khơng lớn, vì
vậy đối với những giao dịch xảy ra thường xun thì thẻ tỏ ra có ưu thế hơn
hẳn những cơng cụ cịn lại.
II.
Tổng quan về thẻ
1.
Sự hình thành và phát triển thẻ
Thẻ đã được đưa vào sử dụng rộng rãi trên thế giới. Trong phạm vi
rộng, thẻ nói chung bao gồm tất cả các loại: thẻ séc, thẻ rút tiền mặt, thẻ ghi
nợ, thẻ tín dụng… Thẻ thanh toán là một trong những thành tựu của ngành
cơng nghiệp ngân hàng. Đó là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tài chính cá
nhân và sẽ khơng có sự bùng nổ trong bán lẻ vào những năm 1970 và 1980
nếu khơng có sự ra đời của thẻ. Sự phát triển của thẻ là thành quả của sự đổi
mới và khả năng marketing của các chuyên gia ngân hàng thế giới.
Tuy nhiên, ngân hàng không phải là người đầu tiên phát hành thẻ. Tại
Mỹ, các thẻ bách hoá, thẻ du lịch và giải trí được phát hành trước khi bước
vào ngành công nghiệp ngân hàng. Một vài yếu tố đã thúc đẩy các ngân
hàng tham gia vào lĩnh vực thẻ. Nó cho phép các ngân hàng đưa ra được các
dịch vụ mới cho các khách hàng hiện có và là một phương tiện tối ưu để hấp
dẫn các khách hàng mới- các cá nhân cũng như những doanh nghiệp bán lẻ.
Mặc dù không phải là một yếu tố quyết định, có lẽ nhiều ngân hàng đã tham
gia vào lĩnh vực này nhằm đuổi kịp những phát triển mà sự cạnh tranh đòi
hỏi. Dĩ nhiên là các ngân hàng cũng được khuyến khích áp dụng các kế
hoạch thẻ do khả năng có thể gia tăng lợi nhuận của chính ngân hàng.
Thẻ xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1914 khi tổng công ty xăng dầu
California (ngày nay là công ty Mobie) cấp thẻ cho nhân viên và một số
khách hàng của mình. Thẻ chỉ nhằm khuyến khích bán sản phẩm của công ty
5
chứ khơng kèm theo việc gia hạn tín dụng. Sau đó, các hệ thống cửa hàng
bán lẻ tiếp tục phát triển hình thức tài trợ khách hàng này thơng qua việc
phát hành thẻ, theo hình thức tiêu trước trả tiền sau, cho các khách hàng phù
hợp với những tiêu chuẩn thẩm định của họ để khuyến khích tiêu dùng, tăng
doanh thu. Thực sự thì hình thức này đã đem lại những hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên, việc phát hành thẻ (hay các phiếu bán hàng) có nhiều hạn
chế với các cửa hàng: khả năng tài trợ có hạn, chi phí quản lý cao ảnh hưởng
đến lợi nhuận, thẻ của mỗi hệ thống chỉ sử dụng được trong hệ thống đó nên
tính tiện lợi của thẻ khơng cao, nhiều đại lý nhỏ khơng đủ điều kiện và khả
năng cung cấp tín dụng cho các khách hàng của họ. Nhu cầu có một loại thẻ
chung để có thể sử dụng thanh tốn tại các điểm bán hàng trở nên rất cấp
thiết và chính nó đã tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính vào cuộc.
Năm 1946, dạng thẻ đầu tiên của thẻ ngân hàng là Charge-It của ngân
hàng John Biggins xuất hiện tại Mỹ, cho phép các khách hàng thực hiện các
giao dịch nội địa bằng các phiếu có giá trị do ngân hàng phát hành. Các đại
lý nộp các phiếu giao dịch cho ngân hàng Biggins, ngân hàng sẽ thanh tốn
các giao dịch đó cho các đại lý và thu lại tiền từ các khách hàng.
Những năm sau đó, ngày càng có nhiều tổ chức tài chính tham gia vào
thị trường thẻ. Thẻ Charge-It đã mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm
1951 do ngân hàng Franklin National, New York phát hành. Tại đây, khách
hàng xin cấp hạn mức tín dụng và được thẩm định khả năng thanh tốn, tình
hình tài chính thơng qua hoạt động tín dụng trước đó của họ với ngân hàng.
Những khách hàng đủ tiêu chuẩn sẽ được cấp thẻ để thực hiện giao dịch tại
các đại lý chấp nhận thẻ. Các cơ sở này khi nhận được giao dịch sẽ liên hệ
với ngân hàng, nếu được phép chuẩn chi họ sẽ thực hiện giao dịch và đòi
tiền sau đối với ngân hàng. Các chủ thẻ phải trả toàn bộ dư nợ vào cuối
tháng.
Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Charge, Golden Key, Gourmet
Club rồi đến Carte Blanche và American Express (1958), JCB (1961) ra đời.
Năm 1960, ngân hàng Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ ngân hàng
của riêng mình, the Bank Americard, và đã đạt được nhiều thành công. Với
6
những lợi ích của hệ thống thanh tốn này, ngày càng có nhiều tổ chức tín
dụng tham gia thanh tốn. Nhiều tổ chức phát hành thẻ khác bắt đầu liên kết
để cạnh tranh với Bank of America. Năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ liên kết
thành tổ chức Interbank (Interbank Card Association-ICA), một tổ chức mới
có khả năng trao đổi thơng tin các giao dịch thẻ tín dụng. Năm 1967, bốn
ngân hàng California đổi tên từ California Bankcard Association thành
Western States BankCard Association (WSBA) và mở rộng mạng lưới thành
viên với các tổ chức tài chính khác ở phía tây nước Mỹ. Sản phẩm thẻ của tổ
chức này là Master Charge. Tổ chức này cũng cấp phép cho Interbank sử
dụng tên và thương hiệu Master Charge. Vào cuối thập niên 1960, nhiều tổ
chức tài chính đã trở thành thành viên của Master Charge và đủ sức cạnh
tranh với Bank Americard.
Tuy nhiên, để hình thức thanh tốn thẻ có thể thu hút được khách
hàng cần phải có một mạng lưới thanh tốn lớn, không chỉ trong phạm vi
một địa phương, một quốc gia mà trên phạm vi tồn cầu. Đứng trước địi hỏi
đó, Inter Bank (Master Charge) và Bank of American (Bank Americard) đã
xây dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn trong xử lý thanh tốn thẻ
tồn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành Visa USA và sau đó trở
thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, Master Charge cũng trở thành
một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là Master Card. 4 tổ chức thẻ quốc tế lớn
nhất hiện nay là Visa, Master Card, Amex, JCB.
Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân
hàng liên kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu lợi nhuận này. Thẻ dần dần
được xem như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch
mua bán. Các loại thẻ Master Card, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi
trên toàn cầu và cùng phân chia những thị trường rộng lớn.
Chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại và những ứng
dụng của cuộc cách mạng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần
thúc đẩy sự ra đời của thẻ với nhiều tên gọi khác nhau mà hiện nay đang
được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với lợi thế về vốn,
chuyên môn trong nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho
7
hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, thẻ do ngân hàng phát hành thực sự
được đông đảo công chúng quan tâm và ưa thích. Trong khoảng thời gian 25
năm trở lại đây, ngành cơng nghiệp thẻ thanh tốn, đặc biệt là thẻ ngân hàng
mới thực sự được phát triển, mặc dù nó đã ra đời từ rất lâu trước đó.
2.
Một số nội dung liên quan đến thẻ
2.1.
Khái niệm
Thẻ là một tấm nhựa chứa băng từ hoặc chip điện tử để lưu giữ các
thông tin, số liệu cần thiết đã được mã hố. Nói một cách ngắn gọn, thẻ là
một phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc tổ chức
tài chính phát hành cấp cho khách hàng và được sử dụng để rút tiền mặt tại
các ngân hàng đại lí, các máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận thẻ trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi
hoặc hạn mức tín dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.
Đối với ngân hàng, việc phát hành và thanh toán thẻ là hoạt động bao
gồm các nghiệp vụ cho vay, huy động vốn (đặt cọc hoặc có tiền trong tài
khoản), thanh tốn trong nước và ngồi nước.
2.2.
Mơ tả thẻ về kĩ thuật
Hầu hết các loại thẻ thanh toán quốc tế làm bằng nhựa cấu tạo với 3
lớp được ép với kĩ thuật cao. Thẻ có kích thước: 84mm x 54mm x 0,76mm
có góc trịn gồm 2 mặt có in đầy đủ các yếu tố như: nhãn hiệu thương mại
của thẻ, tên và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu
lực… và một số yếu tố khác tuỳ theo quy định của các tổ chức thẻ quốc tế
hoặc hiệp hội phát hành thẻ.
Mặt trước của thẻ gồm:
-Tên và biểu tượng của ngân hàng phát hành thẻ, của tổ chức thẻ: Mỗi loại
thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng của tổ chức phát hành thẻ.
Đây được xem như một yếu tố an ninh, chống lại sự giả mạo.
8
-Số thẻ (được in nổi): số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi trên
thẻ và được in lại trên hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo
từng loại thẻ mà có chữ số, cách cấu trúc theo nhóm khác nhau.
-Họ tên chủ thẻ: in chữ nổi, là tên của cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của
người được uỷ quyền nếu là thẻ công ty.
-Ngày hiệu lực của thẻ (được in nổi): là thời hạn mà thẻ được phép lưu hành.
Tuỳ theo từng loại thẻ mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ hoặc
ngày đầu tiên và ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.
-Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: mỗi loại thẻ luôn có
ký hiệu an ninh kèm theo, in phía sau của ngày hiệu lực nhằm tăng tính an
tồn của thẻ, đề phịng giả mạo.
Ngồi ra cịn có thể có các yếu tố khác như: chữ kí, hình của chủ thẻ,
hình nổi không gian 3 chiều (hoặc chip đối với thẻ điện tử).
Mặt sau của thẻ gồm:
-Dải băng từ chứa các thông tin như: số thẻ, ngày hết hạn, tên chủ thẻ, ngân
hàng phát hành, các yếu tố kiểm tra an tồn khác.
-Dải băng chữ kí của chủ thẻ: cơ sở chấp nhận thẻ đối chiếu chữ ký này với
chữ ký khi thực hiện thanh tốn thẻ.
2.3.
Phân loại thẻ
2.3.1. Theo cơng nghệ sản xuất:
1.
Thẻ khắc chữ nổi: Các thông tin cần thiết được khắc nổi lên bề mặt
của thẻ. Tấm thẻ đầu tiên đã được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay
người ta không sử dụng thẻ loại này nữa vì kỹ thuật sản xuất q thơ sơ, dễ
bị làm giả.
2.
Thẻ băng từ: được sản xuất dựa trên kĩ thuật từ tính với một băng từ
chứa hai rãnh thơng tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến
trong vòng 20 năm nay. Tuy nhiên, do thẻ mang tính thơng tin cố định, khu
9
vực chứa thông tin hẹp không áp dụng được các kĩ thuật mã bảo đảm an
tồn, thơng tin trong thẻ khơng tự mã hố được, người ta có thể đọc thẻ dễ
dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính nên có thể bị lợi dụng để lấy cắp
tiền.
3.
Thẻ điện tử có bộ vi xử lí chip (thẻ thơng minh): là thế hệ mới nhất
của thẻ, dựa trên kĩ thuật vi xử lí tin học. Thẻ được gắn một chip điện tử có
cấu trúc giống như một máy tính hồn hảo. Thẻ thơng minh có nhiều nhóm
với dung lượng nhớ của chip điện tử khác nhau, có tính an toàn và bảo mật
rất cao. Nhưng do giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thẻ đắt nên
việc sử dụng thẻ này còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp
nhận thẻ thông minh mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ chức
thẻ vẫn đang khuyến khích các ngân hàng thành viên đầu tư để phát hành và
chấp nhận loại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.
2.3.2. Theo chủ thể phát hành:
1.
Thẻ do ngân hàng phát hành: giúp khách hàng sử dụng linh động tài
khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp
tín dụng. Loại thẻ này được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Nó khơng chỉ
lưu hành trong một quốc gia mà cịn có thể lưu hành trên toàn cầu như thẻ
Visa, Master,..
2.
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là các loại thẻ du lịch và
giải trí của các tập đồn kinh doanh lớn phát hành như Diners Club, Amex,..
và cũng lưu hành trên toàn cầu.
2.3.3. Theo tính chất thanh tốn của thẻ:
1.
Thẻ tín dụng: là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người
chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng tuần hồn để mua sắm
hàng hố, dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này. Thẻ tín dụng
thường do ngân hàng phát hành và thường được quy định một hạn mức tín
dụng nhất định trên cơ sở khả năng tài chính, tài sản thế chấp của chủ thẻ.
Chủ thẻ chỉ được phép chi tiêu trong phạm vi hạn mức đã cho và phải thanh
toán cho ngân hàng phát hành thẻ theo kỳ hàng tháng, lãi suất tín dụng tuỳ
10
thuộc vào quy định của mỗi ngân hàng phát hành. Thẻ tín dụng được coi là
một cơng cụ tín dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
2.
Thẻ ghi nợ: có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi của
chủ thẻ. Chủ thẻ cũng có thể được ngân hàng cấp cho một mức thấu chi theo
sự thoả thuận giữa hai bên. Những giao dịch thực hiện bằng thẻ này sẽ được
khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ và ghi có vào tài khoản của cơ sở chấp
nhận thẻ (CSCNT). Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản là thẻ on-line và thẻ offline. Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà những thông tin về giao dịch được kết nối
trực tiếp từ thiết bị điện tử đặt tại CSCNT hoặc điểm rút tiền mặt tới ngân
hàng phát hành. Giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài
khoản chủ thẻ. Thẻ off-line là thẻ mà thông tin giao dịch được lưu tại máy
điện tử của CSCNT và được chuyển đến ngân hàng phát hành muộn hơn
(khơng có kết nối trực tiếp với điểm thanh toán). Giá trị những giao dịch sẽ
được khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
3.
Thẻ rút tiền mặt: Về bản chất, đây cũng là một loại của thẻ ghi nợ
nhưng thẻ này chỉ được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng, các máy rút
tiền tự động (ATM) và sử dụng các dịch vụ khác do máy ATM cung cấp như
kiểm tra số dư, chuyển khoản, chi trả các khoản vay,... Với chức năng
chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số
tiền kí quĩ. Thẻ rút tiền mặt có hai loại. Một loại chỉ được dùng để rút tiền
mặt tại những máy rút tiền tự động của ngân hàng phát hành, cịn loại kia
ngồi địa điểm trên còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham
gia tổ hợp thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ.
2.3.4. Theo hạn mức tín dụng
1.
Thẻ vàng: là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng có thu nhập
cao, có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại thẻ
này nhìn chung có hạn mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
2.
Thẻ thường (thẻ chuẩn): là loại thẻ căn bản nhất, mang tính chất phổ
biến, đại chúng, được hơn 142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
Thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ vàng.
11
2.3.5. Theo phạm vi sử dụng của thẻ
1.
Thẻ nội địa: chỉ được sử dụng trong phạm vi quốc gia mà nó được
phát hành, do đó đồng tiền được sử dụng và thanh toán là đồng bản tệ. Loại
thẻ này chỉ do một tổ chức hoặc một ngân hàng điều hành và có hai loại.
Một loại do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng trong nước phát hành và chỉ
được sử dụng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó. Loại thứ hai là thẻ mang
thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế nhưng được phát hành để sử dụng trong
nước.
2.
Thẻ quốc tế: là loại thẻ được sử dụng trên phạm vi quốc tế, dùng
ngoại tệ mạnh làm đồng tiền thanh toán. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý
trên tồn thế giới bởi những tổ chức tài chính lớn như Visa, Master hoặc
công ty điều hành hoạt động thống nhất và đồng bộ. Thẻ quốc tế được ưa
chuộng bởi tính an tồn, tiện lợi của nó.
2.4.
Quy trình phát hành, sử dụng và thanh tốn thẻ
2.4.1. Các chủ thể chính tham gia hoạt động kinh doanh thẻ
Tổ chức thẻ quốc tế là tổ chức đứng ra liên kết với các thành viên, đặt ra
các qui định bắt buộc đối với các thành viên phải áp dụng và tuân theo thống
nhất thành một hệ thống toàn cầu. Bất cứ ngân hàng nào hiện nay hoạt động
trong lĩnh vực thẻ thanh toán quốc tế đều phải gia nhập vào ít nhất là một tổ
chức thẻ quốc tế. Tổ chức thẻ được tổ chức dưới hai hình thức: hiệp hội và
ngân hàng (hay cơng ty).
Hình thức hiệp hội: do một nhóm ngân hàng liên kết với nhau thành
lập ra. Hiệp hội soạn thảo các quy định riêng về cách tổ chức, cấp phép, bù
trừ, thanh toán áp dụng cho tất cả các thành viên của hiệp hội, đồng thời tổ
chức về vấn đề cạnh tranh trên thị trường và vấn đề pháp lý. Hiệp hội không
trực tiếp phát hành thẻ mà giao việc này cho các ngân hàng thành viên và
thu phí thường niên. Điển hình của loại hình này là các tổ chức Visa và
Master.
12
Hình thức ngân hàng (hay cơng ty): do một hoặc hai ngân hàng hay
công ty đứng ra tổ chức và độc quyền phát hành loại thẻ của họ. Họ trực tiếp
phát hành thẻ và đứng ra quản lý chủ thẻ. Việc mở rộng thị trường được thực
hiện bằng cách lập ra các chi nhánh hay văn phòng đại diện phát hành thẻ,
do vậy phạm vi hoạt động thường nhỏ hơn so với hình thức hiệp hội. JCB và
American Express là điển hình của hình thức tổ chức này.
Ngân hàng phát hành thẻ: là thành viên chính thức của tổ chức thẻ và được
phép phát hành thẻ. Ngân hàng này có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý hồ sơ xin
cấp thẻ, thiết kế các tiêu chuẩn kĩ thuật, mật mã, kí hiệu,.. cho các loại thẻ để
bảo đảm an toàn trong q trình sử dụng thẻ, sau đó phát hành thẻ cho khách
hàng, mở và quản lí tài khoản thẻ, chịu trách nhiệm việc thanh toán số tiền
mà khách hàng trả cho người bán bằng thẻ.
Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTTT): là thành viên chính thức hoặc thành
viên liên kết của tổ chức thẻ và/ hoặc các ngân hàng được ngân hàng phát
hành thẻ uỷ quyền thực hiện nghiệp vụ thanh tốn thẻ.
Ngân hàng đại lí thanh tốn thẻ: là ngân hàng được NHTTT uỷ quyền
thực hiện một số dịch vụ thanh tốn thẻ thơng qua hợp đồng ngân hàng đại
lí. Ngân hàng đại lí có nhiệm vụ trả tiền cho cơ sở chấp nhận thẻ khi nhận
được biên lai thanh toán, trả tiền mặt theo yêu cầu của chủ sở hữu thẻ, nhận
chuyển tiếp số tiền thanh toán bằng thẻ đến bên bán. Ngân hàng đại lí là
ngân hàng trực tiếp kí hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ để tiếp nhận và
xử lí các giao dịch về thẻ tại cơ sở chấp nhận thẻ, cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ cho cơ sở chấp nhận thẻ.
Chủ thẻ: là người có tên trên thẻ và được quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ có thể
là một cá nhân riêng lẻ, hoặc đại diện cho một công ty hay tổ chức nào đó có
nhu cầu sử dụng thẻ thanh tốn. Chỉ chủ thẻ mới có thể sử dụng thẻ của
mình. Một chủ thẻ có thể yêu cầu cấp thêm thẻ phụ cho người thân, có thể sở
hữu một hoặc nhiều thẻ. Chủ thẻ phải trả phí cho ngân hàng phát hành thẻ.
Người chịu trách nhiệm thanh toán thẻ: là chủ thẻ chính (đối với thẻ cá
nhân) hoặc/ và tổ chức, công ty xin cấp thẻ (đối với thẻ công ty).
13
Cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT): là đơn vị bán hàng hố- dịch vụ hoặc ứng
tiền mặt, có kí hợp đồng với NHTTT để chấp nhận thanh toán thẻ như: cửa
hàng, khách sạn, nhà hàng,... Các đơn vị này được NHTTT trang bị máy
móc kĩ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán thay tiền mặt và sử dụng máy đọc
do ngân hàng đại lí trang bị để kiểm tra thẻ và biên lai thanh tốn. Thơng
thường CSCNT phải trả một khoản phí về việc sử dụng tiện ích này.
2.4.2. Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ thẻ dựa trên cơ sở pháp luật của nước
sở tại, cụ thể là các quy chế về phát hành, thanh toán thẻ do Ngân hàng Nhà
nước ban hành. Việc phát hành, thanh toán thẻ phải được sự đồng ý của tổ
chức thẻ quốc tế thông qua hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành,
NHTTT với các tổ chức thẻ quốc tế, đồng thời tuân thủ các luật lệ và quy
định hiện hành của các tổ chức thẻ quốc tế.
Dựa trên các cơ sở này, mỗi ngân hàng sẽ có những quy chế riêng về
nghiệp vụ thẻ do Tổng Giám đốc ngân hàng quy định.
2.4.3. Trình tự các bước của nghiệp vụ thẻ
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi
ngân hàng về thủ tục và các điều kiện do các yếu tố ràng buộc về pháp luật,
chính trị, trình độ phát triển dân trí hay điều kiện kinh tế xã hội. Song về
tổng thể, quy trình này gồm có những nội dung cơ bản được thể hiện trong
sơ đồ sau:
(8)
(6)
(7)
Chủ thẻ
(2)
(1)
14
Ngân hàng phátng phát
hàng phátnh
(4)
(5)
(8)
Tổ chức thẻ
quốc tế
(3)
(4)
Đơn vị chấp
nhận thẻ hoặc
ngân hàng phátng đại lý
(6) (7)
(4)
(6) (7)
(8)
Ngân hàng phátng thanh
tốn
(6)
(7)
:Quy trình phát hành
:Quy trình địi tiền
:Quy trình cấp phép
:Quy trình thanh tốn
:Quy trình khiếu nại và xử lý tranh chấp
(1)
Ngân hàng phát hành yêu cầu khách hàng phát hành thẻ cung cấp các
hồ sơ cần thiết theo quy định chứng minh nhân thân của khách hàng,
khả năng thanh toán của họ và các tổ chức cá nhân có quan hệ.
(2)
Ngân hàng phát hành thẻ cho khách hàng đủ điều kiện.
(3)
Chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán, rút tiền mặt tại các CSCNT.
(4)
CSCNT kiểm tra khả năng thanh toán của thẻ: xin chuẩn chi của
NHTTT nếu số tiền thanh toán vượt quá hạn mức, kiểm tra bảng tin
cảnh giác nếu số tiền nhỏ hơn hạn mức mà NHTTT cho phép.
15
(5)
CSCNT so sánh chữ ký trên hoá đơn và chữ ký trên thẻ, nếu đúng thì
cung cấp hàng hố, dịch vụ hay ứng tiền mặt cho khách hàng.
(6)
CSCNT nhận tiền thanh toán- đã trừ khoản chiết khấu đại lý- từ
NHTTT sau khi nộp lại hoá đơn cho ngân hàng này hoặc sau khi tổng
kết trên thiết bị đọc thẻ điện tử.
(7)
NHTTT địi tiền từ ngân hàng phát hành thơng qua tổ chức thẻ quốc tế
(trường hợp ngân hàng phát hành và NHTTT không cùng một hệ
thống). Tổ chức thẻ quốc tế ghi nợ tài khoản của ngân hàng phát hành
và ghi có cho NHTTT số tiền giao dịch- đã trừ phí trao đổi thơng tin.
Định kỳ hàng tháng vào ngày lập bảng thông báo giao dịch, ngân hàng
phát hành nhận được file dữ liệu sao kê chi tiết về hoạt động của chủ
thẻ trong kỳ, sau đó ngân hàng lập bảng thông báo giao dịch gửi cho
chủ thẻ yêu cầu thanh toán.
(8)
Ngân hàng phát hành, NHTTT, tổ chức thẻ quốc tế giải quyết tất cả
những khiếu nại, tra sốt, địi bồi hoàn và xử lý các tranh chấp khác.
2.4.4. Quy trình nghiệp vụ phát hành thẻ: gồm các bước:
Bước 1:
Khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ và hoàn thành một
số thủ tục cần thiết như điền vào giấy tờ xin cấp thẻ, trình một số giấy tờ
khác như: giấy thông hành, biên lai trả lương, nộp thuế thu nhập,..
Bước 2:
Ngân hàng phát hành nhận kiểm tra hồ sơ theo quy định.
Trong vòng 4 ngày kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ, ngân hàng
phát hành có trách nhiệm thẩm định bộ hồ sơ và ra quyết định chấp nhận
hoặc từ chối phát hành thẻ.
Đối với những hồ sơ được chấp thuận, ngân hàng phát hành tiến hành
phân loại khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì
khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Cịn đối với thẻ tín dụng, ngân
hàng phải xác định các yếu tố sau:
-Hạng thẻ phát hành: thẻ vàng hay thẻ chuẩn.
16
-Hạn mức tín dụng.
-Thời hạn thẻ.
-Phân loại chủ thẻ để xác định hạn mức tiêu dùng của mỗi chủ thẻ.
Bước 3:
Cấp thẻ cho khách hàng.
Sau khi xác định các yếu tố, bộ phận quản lý thẻ lập hồ sơ khách hàng
để quản lý. Hồ sơ gồm: tên chủ thẻ, địa chỉ nơi ở và làm việc, số CMND, số
hộ chiếu, số thẻ, loại thẻ, ngày hiệu lực, số tài khoản chỉ định để thanh toán
sao kê, người thanh toán sao kê, tài sản thế chấp (nếu có).
Sau đó, ngân hàng tiến hành mã hoá thẻ và in thẻ, xác định mã số cá
nhân (PIN) của chủ thẻ, nhập dữ liệu về chủ thẻ vào tập tin quản lý, giao thẻ
và số PIN cho chủ thẻ. Chủ thẻ nhận thẻ, ký vào hợp đồng sử dụng thẻ và
băng chữ ký ở mặt sau của thẻ.
2.5.
Một số thiết bị sử dụng
Thanh toán bằng thẻ là phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt
và nó địi hỏi phải có số thiết bị kĩ thuật hỗ trợ cho việc thanh toán được đơn
giản, nhanh gọn và an toàn. Các thiết bị hỗ trợ rất nhiều nhưng hiện nay chủ
yếu là các loại sau:
Máy chà hoá đơn (máy cà thẻ): được đặt tại CSCNT, dùng để ghi lên hố
đơn những thơng tin in nổi ở mặt trước của thẻ (số thẻ, tên chủ thẻ, ngày
hiệu lực,..) cùng chữ kí của chủ thẻ. Hố đơn này được xem là bằng chứng
xác nhận việc chủ thẻ đã thực hiện giao dịch, đồng thời là cơ sở pháp lí để
giải quyết các tranh chấp giữa các đối tượng có liên quan (nếu có xảy ra).
Máy chà hố đơn được cấu tạo gọn nhẹ dễ sử dụng với kích thước
30cm x 20cm x 4cm. Khi sử dụng thì đặt thẻ vào khung đã được thiết kế sẵn
(mặt in nổi hướng lên trên) và đặt hố đơn vào khung cịn lại, kéo cần chà
qua lại một lần thì các thơng tin ở mặt trước thẻ sẽ in lên hoá đơn. Thiết bị
này được sử dụng tại đa số các điểm chấp nhận thẻ ở Việt Nam trước đây.
17
Điện thoại- Telex dùng để điện hoặc telex các thông tin như: mã số thẻ, thời
gian thực hiện, tổng số tiền xin cấp phép đến ngân hàng để xin cấp phép, sau
vài phút ngân hàng sẽ trả lời từ chối hay chấp nhận bằng việc cho một mã số
chấp thuận và CSCNT phải ghi mã số này vào hoá đơn.
Máy xin cấp phép EDC là thiết bị điện tử cấp phép tự động được trang bị
cho các CSCNT dùng để xin cấp phép trực tuyến với ngân hàng phát hành,
các trung tâm cấp phép của các loại thẻ khác nhau trên thế giới thơng qua
NHTTT.
Máy này rất tiện lợi, nó giúp cho các thương vụ được thực hiện trong
suốt 24/24 và chỉ mất khoảng 30 giây là nhận được trả lời của ngân hàng
phát hành. Máy được cấu tạo đặc biệt, có bộ phận đọc giải mã băng từ trên
thẻ, đồng thời cịn kiểm tra được tính thật giả của thẻ, thẻ bị mất cắp hoặc
hết hạn mức tín dụng. Khi sử dụng chỉ cần đưa thẻ vào khe đọc và nhập vào
máy tổng số tiền xin cấp phép.
Máy rút tiền tự động ATM được ứng dụng từ cuối thập niên 60 và nhanh
chóng trở nên phổ biến vì sự tiện lợi và linh hoạt của nó. Khách hàng có thể
rút tiền tại máy rút tiền tự động với thời gian 24/24 giờ. Ngày nay rất nhiều
ngân hàng phát triển hệ thống ATM kết hợp với cơng ty tài chính. Hệ thống
này mang tính chất quốc gia, khu vực hay quốc tế. Máy ATM được đặt ở
nhiều nơi công cộng.
Máy rút tiền tự động bên trong có chứa nhiều tiền mặt, khi sử dụng
đút thẻ vào khe, sau đó trên máy sẽ xuất hiện những yêu cầu như nhập mã số
cá nhân, số tiền cần rút,.. Thông tin về giao dịch này sẽ được truyền về ngân
hàng phát hành, nếu ngân hàng cho phép, máy sẽ đưa tiền ra cho khách
hàng. Nếu khách hàng nhập mã số cá nhân sai đến 3 lần thì máy sẽ tự động
giữ lại thẻ ln để đề phịng việc sử dụng thẻ bị mất cắp.
2.6.
Ưu nhược điểm của việc thanh toán bằng thẻ
2.6.1. Đối với người sử dụng thẻ
18
Tiện lợi, linh hoạt và nhanh chóng trong thanh tốn ở trong và
ngồi nước: Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính
linh hoạt hơn hẳn các phương tiện thanh toán khác của thẻ. Chủ thẻ có thể
thực sự cảm nhận thấy điều này khi di du lịch hay cơng tác ở nước ngồi.
Thẻ thanh toán như Visa, Master và trong phạm vi hẹp hơn là Amex, Diners
Club được chấp nhận trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là khi dự định ra
nước ngồi, thay vì phải chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ hay sec du lịch,
chủ thẻ có thể mang theo thẻ để thanh toán cho mọi nhu cầu chi tiêu của
mình. Chủ thẻ cũng có thể thấy điều này khi sử dụng thẻ để thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ thông qua một mạng lưới rộng rãi các CSCNT trong và
ngoài nước hay rút tiền mặt khi cần thiết tại các tổ chức tài chính hay ngân
hàng trên thế giới hoặc tại các máy rút tiền tự động ATM với loại tiền phù
hợp của nước sở tại.
Với kích thước gọn nhẹ của thẻ, chủ thẻ có thể dễ dàng mang theo
người, tạo cảm giác thoải mái khi đi mua sắm, đặc biệt với khối lượng chi
trả lớn. Khi mua sắm hàng hố, dịch vụ, khách hàng chỉ cần xuất trình thẻ và
ký vào hố đơn thanh tốn thì việc mua bán hàng hố coi như đã hồn thành.
Với việc sử dụng thẻ, một cách gián tiếp khách hàng đã tiết kiệm được chi
phí vận chuyển và kiểm đếm tiền. Với việc sử dụng thẻ, khách hàng có thể
thực hiện giao dịch bằng bất cứ loại tiền tệ nào trên thế giới nhưng chỉ phải
thanh toán cho ngân hàng phát hành thẻ bằng đồng bản tệ.
Bên cạnh đó, với một tấm thẻ trong tay, chủ thẻ khơng cịn gặp tình
trạng phải chạy đến ngân hàng trước giờ đóng cửa để rút tiền mặt mà họ có
thể rút tiền mặt tại các máy ATM được trang bị ở nhiều nơi công cộng ở
trong và ngoài nước. Thẻ làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu giữ tiền mặt,
cho phép người sử dụng hỗn việc chi trả các hàng hố và dịch vụ trong một
thời gian ngắn, các báo cáo chi trả được thực hiện một cách thuận lợi có ý
nghĩa quan trọng trong đánh giá tín dụng. Những người sử dụng thẻ có hạn
mức tín dụng tuần hồn ngồi ra cón có thêm một thuận lợi nữa là gia tăng
khả năng mua hàng hoá và dịch vụ, và bằng cách ấy tránh được nạn quan
liêu khi xin cấp các khoản cho vay cá nhân. Hơn nữa, người có thẻ tín dụng
có sự mềm dẻo đáng kể trong việc định thời gian và việc hoàn trả khối lượng
19
nợ. Với thẻ ghi nợ, khách hàng thậm chí cịn được hưởng một mức thấu chi
nhất định trên tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng. Đặc biệt đối với thẻ
cơng ty, ngồi những tiện ích trên, nó cịn giúp cơng ty quản lý và kiểm sốt
hiệu quả các chi tiêu của nhân viên mình.
Ngồi ra, khi sử dụng thẻ, chủ thẻ còn được hưởng một số dịch vụ
khác do ngân hàng phát hành thẻ triển khai áp dụng cho chủ thẻ như xem số
dư tài khoản để từ đó có kế hoạch chi tiêu hợp lý hơn, dịch vụ khách hàng
24/24 giờ, dịch vụ trợ giúp toàn cầu, dịch vụ bảo hiểm lữ hành…
An toàn: Chủ thẻ là người duy nhất có quyền sử dụng thẻ. Để chống
làm giả và ngăn chặn người khác sử dụng thẻ, thẻ được chế tạo dựa trên kỹ
thuật hết sức tinh vi, hiện đại, khó làm giả, vì vậy tính an tồn của thẻ rất
cao. Đặc biệt từ khi thẻ thông minh được tung ra thị trường, độ an toàn của
thẻ được nâng lên rất nhiều. Việc so sánh chữ ký mẫu trên thẻ với chữ ký
của người sử dụng thẻ, hình ảnh chủ thẻ trên thẻ kết hợp với các thông tin
được mã hoá trên thẻ tạo nên một bức tường vững chắc trước nguy cơ bị
người khác lạm dụng. Nhờ vậy, chủ thẻ có thể an tâm khi sử dụng thẻ. Khi
mất thẻ hay để lộ số PIN, chủ thẻ có thể báo ngay cho ngân hàng phát hành
thẻ để kịp thời phong toả tài khoản thẻ. Trong điều kiện kỹ thuật công nghệ
hiện đại ngày càng phát triển, các thiết bị kiểm tra thẻ hoạt động ngày càng
hiệu quả, tính an tồn của thẻ sẽ cịn được nâng cao trong tương lai.
Văn minh: Thanh tốn bằng thẻ ngồi tính thuận tiện, gọn nhẹ, nhanh
chóng, an tồn và hiệu quả đối với chủ thẻ còn tạo thêm vẻ văn minh lịch sự,
sang trọng cho khách hàng khi thanh toán. Mặt khác, nó cịn giúp khách
hàng tiếp cận với các phương thức mua hàng gián tiếp hiện nay như đặt hàng
qua thư hay điện thoại, mua hàng qua mạng.
2.6.2. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
Các CSCNT là điều kiện không thể thiếu đối với sự phát triển thanh
toán thẻ. Thẻ sẽ trở nên vơ dụng nếu như khơng có hay thiếu chủ thể này.
Khi tham gia thanh toán thẻ, lợi ích mà các đại lý chấp nhận thẻ sẽ lớn hơn
rất nhiều so với các chi phí mà họ phải bỏ ra.
20