Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------------------

NGUYỄN MINH QUANG

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN MINH QUANG
Khóa: 42

MSSV:1751101030122

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH MAI


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Mai, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này
Tp. Hồ Chí Minh, ngày….tháng…. năm 2022
Sinh viên ký tên

Nguyễn Minh Quang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Nội dung

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

LCTCTD 2010

Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa

đổi bổ sung năm 2017

NHNN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

TCTD

Tổ chức tín dụng
Thơng tư số 39/2016/TT-NHNN của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày

Thông tư 39

30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay
của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đối với khách hàng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ........................................6
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng ...........................................6

1.1.1. Khái niệm về hợp đồng tín dụng .......................................................................6
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ......................................................................8
1.2.


Chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng ....................................................11

1.2.1. Khái niệm về chủ thể đi vay............................................................................11
1.2.2. Phân loại chủ thể đi vay ..................................................................................13
1.2.3. Điều kiện vay vốn của chủ thể đi vay .............................................................15
1.3. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay ..............................18
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo quy định pháp luật ......18
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo thỏa thuận của các bên
..........................................................................................................................19
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ
THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ................................................23
2.1.

Quy định pháp luật về quyền của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng
........................................................................................................................23

2.1.1. Quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ giải ngân .......................23
2.1.2. Quyền được tổ chức tín dụng cung cấp thông tin hợp đồng ...........................24
2.1.3. Quyền được bảo đảm bí mật thơng tin ............................................................25
2.1.4. Quyền được u cầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ ...............................................27
2.1.5. Quyền chấm dứt hợp đồng tín dụng ................................................................28
2.2.

Quy định pháp luật về nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín
dụng ...............................................................................................................29

2.2.1. Nghĩa vụ cung cấp thơng tin tín dụng .............................................................29
2.2.2. Nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích......................................................31
2.2.3. Nghĩa vụ tuân thủ sự kiểm tra, giám sát của bên cho vay...............................32

2.2.4. Nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay ........................................................33
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA CHỦ THỂ ĐI VAY VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..............37


3.1.

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền của chủ thể đi vay.......37

3.2.

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về nghĩa vụ của chủ thể đi vay ..42

3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ thể đi vay ....................................................................................47

KẾT LUẬN ..............................................................................................................53


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thị trường tín dụng là kênh huy động vốn hiệu quả, là đòn bẩy tích cực cho sự
tăng trưởng của nền kinh tế và là nhu cầu thiết yếu của thị trường. Hoạt động tín dụng
1.

tuy mang lại cho các tổ chức tín dụng (TCTD) nhiều lợi nhuận nhưng cũng hàm chứa
nhiều rủi ro liên quan đến mức độ an toàn tiền tệ hoặc là tiền đề của các cuộc khủng
hoảng tài chính trên thế giới. Sau đại dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng đạt mức

cao do hoạt động sản xuất dần quay trở lại sau thời gian giãn cách xã hội và nhu cầu
vốn gia tăng phục vụ cho quá trình vận hành sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi sức
khỏe, tăng trưởng của nền kinh tế. Pháp luật cũng có các chính sách kịp thời tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn và cơ cấu lại thời hạn trả nợ do khó
khăn tài chính tạm thời. Song, trong thực tiễn thi hành, các TCTD thực hiện việc cơ
cấu lại hoặc giữ ngun các nhóm nợ mà khơng tiến hành đánh giá các tiêu chí rủi ro
khách quan của bên đi vay kỹ lưỡng; đồng thời, không thực hiện các biện pháp trích
lập dự phịng rủi ro. Do đó, hoạt động kiểm soát hồ sơ cơ cấu lại khoản nợ tại ngân
hàng còn sai phạm làm phát sinh nguy cơ nợ xấu trên thị trường tăng trở lại. Cụ thể,
tỷ lệ các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, chứa đựng các nguy cơ hình thành nợ xấu gia tăng
khi tình hình kinh doanh vẫn đang diễn biến phức tạp, số lượng doanh nghiệp giải thể
hoặc phá sản vẫn còn tăng. Một nguyên nhân khác đến từ khả năng khách hàng vay
sử dụng sai mục đích khoản vay đã cam kết khi đầu tư vào các ngành nghề có rủi ro
cao như bất động sản, chứng khốn,… Chính điều này làm khả năng thu hồi vốn của
các TCTD bị suy giảm và thị trường tín dụng trở nên nhạy cảm, gây ra các bất lợi
nghiêm trọng đối với cả bên vay lẫn bên cho vay.
Việc bình luận và nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín
dụng (HĐTD) giúp các nhà làm luật có cơ sở nhằm kịp thời bổ sung, sửa đổi quy định
linh hoạt hơn với sự vận động của nền kinh tế. Từ đó, pháp luật có thể tạo thuận lợi
cho các chủ thể tham gia thị trường vốn được hoạt động lành mạnh, hiệu quả và tuân
thủ mọi quy định pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật vẫn còn một số bất cập như quyền
được bảo đảm các bí mật, quyền được yêu cầu cơ cấu lại khoản vay của bên vay;
cũng như, TCTD vẫn chưa chịu trách nhiệm dân sự khi không thực hiện đầy đủ các
nghiệp vụ đảm bảo việc giải ngân đúng thời hạn, đúng số lượng hoặc nghiệp vụ tín
dụng. Khi có tranh chấp xảy ra, giải pháp thương lượng hoặc giải quyết khiếu nại chủ
thể đi vay thường được sử dụng nhằm đảm bảo sự tự do ý chí, tự định đoạt của các
bên nhưng vẫn cần có các cơ chế pháp lý mang tính ràng buộc nhằm đạt được hiệu
quả khi thực thi. Thêm vào đó, sau 05 năm áp dụng, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
(Thông tư 39) cũng bộc lộ nhiều bất cập cần được sửa đổi bổ sung, điều này xuất phát


1


từ sự phát triển và thay đổi của kinh tế - xã hội. Cụ thể, một số quan hệ mới phát sinh
chưa có sự điều chỉnh như giao dịch cho vay sử dụng phương thức điện tử hoặc cơ
chế thẩm định, phê duyệt tín dụng tự động bằng phần mềm đối với các khoản vay giá
trị nhỏ, khách hàng vay có dữ liệu trên hệ thống định danh khách hàng điện tử (eKYC)
của chính TCTD hoặc một bên thứ ba, chữ ký điện tử, số lượng hồ sơ cần thiết để
TCTD phê duyệt đối với một khoản vay có yêu cầu thông qua phương thức điện tử,…
Tác giả nhận thấy còn nhiều quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ
thể đi vay trong HĐTD cần tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện. Do đó, tác giả quyết định
lựa chọn đề tài “Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng
tín dụng và thực tiễn áp dụng” để thực hiện khóa luận.
2.

Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình khảo sát, tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Pháp

luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp
dụng”, tác giả tìm thấy một số cơng trình nghiên cứu sau:
Sách chun khảo
TS. Lương Khải Ân (2021), Hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân
hàng – Lý luận và thực tiễn áp dụng, NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật: Tài liệu đã
làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng
cho vay tại các TCTD. Tài liệu đã đề cập đến các nội dung cơ bản trong pháp luật về
HĐTD chẳng hạn nghĩa vụ cung cấp thông tin, quy định về mục đích sử dụng vốn,
cơ cấu lại thời hạn trả nợ, quyền chấm dứt trước hạn của TCTD và các biện pháp
chuyển nợ quá hạn, thu hồi nợ, xử lý tài sản. Ngồi ra, tài liệu cịn cung cấp các giải
pháp khắc phục các hạn chế tồn tại và kiến nghị về khả năng thực hiện trên thực tiễn.
Nguyễn Hồng Năng (2016), Thị trường vốn nợ - Luật và hợp đồng, NXB. Công

Thương: Tài liệu này đã nêu lên một số vấn đề lý luận, khuôn khổ pháp lý, cũng như
ý nghĩa của từng nhóm điều khoản tại các HĐTD áp dụng trên thực tế tại Việt Nam.
Theo đó, cơng trình đã đề cập đến những vấn đề trên khía cạnh về vị thế đàm phán
của chủ thể đi vay và các rủi ro mà TCTD phải chịu từ thời điểm giải ngân nguồn
vốn, từ đó ảnh hưởng đến tính chất và nội dung của từng quyền, từng nghĩa vụ của
chính chủ thể đi vay.
Ths. Lê Thị Ngân Hà (2014), Pháp luật về hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt
động thẩm định cho vay của ngân hàng thương mại, NXB. Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh: Tài liệu đề cập các vấn đề lý luận trong hoạt động thẩm định cho vay như
các nội dung cần thẩm định (năng lực chủ thể người đi vay, năng lực tài chính, mục
đích sử dụng vốn, phương án sử dụng vốn, tài sản bảo đảm) và nghiệp vụ cần có của
ngân hàng để thực hiện thẩm định. Tài liệu đưa ra các thực tiễn, bất cập trong thực

2


hiện và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ sử dụng
vốn đúng mục đích và hiệu quả của bên vay, cũng như nghĩa vụ buộc các bên phải
trung thực trong việc cung cấp thơng tin.
Khóa luận cử nhân Luật
Trịnh Huyền Nhung (2017), Nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín
dụng, Khóa luận cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh: Khóa luận
nêu lên một số vấn đề lý luận, sự cần thiết cần điều chỉnh của pháp luật đối với nghĩa
vụ của chủ thể đi vay. Lý giải quan điểm của cơ quan nhà nước thông qua Thông tư
39 về nghĩa vụ của chủ thể đi vay, chỉ ra một số thực tiễn và hướng hoàn thiện. Tuy
vậy, khóa luận khơng phân tích quy định pháp luật của quyền của chủ thể đi vay trong
HĐTD.
Nguyễn Thị Diễm (2018), Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng
tín dụng và thực tiễn áp dụng, Khóa luận cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh: Khóa luận đã phân tích tổng thể quan hệ tín dụng dựa trên thực tiễn các

hợp đồng đã ký kết và kinh nghiệm xét xử. Đề tài đã lý luận thành công sự cần thiết
của HĐTD trong việc hạn chế rủi ro sau giải ngân của TCTD. Tuy nhiên, đề tài chưa
đề cập sâu đến khả năng giao kết hợp đồng bằng phương thức điện tử, bàn về quyền
cơ cấu lại thời hạn trả nợ dựa trên yêu cầu của khách hàng vay, gia tăng thêm trách
nhiệm của TCTD trong việc cung cấp thơng tin và đảm bảo bí mật thông tin chủ thể
đi vay.
Bài báo khoa học
Hiện nay có nhiều bài viết khoa học liên quan đến nội dung của HĐTD và thực
tiễn áp dụng cung cấp nhiều góc nhìn, quan điểm khác nhau về HĐTD. Tuy nhiên,
các cơng trình đều khơng đề cập trực tiếp và phân tích sâu vấn đề về quyền và nghĩa
vụ chủ thể đi vay, chưa làm rõ xu hướng phát triển của HĐTD điện tử; cũng như chưa
quan tâm đến vấn đề cân bằng quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ tín dụng. Dưới
góc độ khoa học pháp lý, có thể kể đến các bài viết như: Bài viết “Trách nhiệm của
ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ di động trong việc bảo vệ thông tin khách hàng”
của tác giả Trần Linh Huân và Nguyễn Mậu Thương đăng trên Tạp chí Ngân hàng,
số 6 (2022); Bài viết “Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thanh
toán trong trường hợp bất khả kháng Covid-19” của tác giả Trương Nhật Quang và
Ngô Thái Ninh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 (2020); Bài viết “Nghĩa
vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng tín dụng từ quy định của Bộ luật dân
sự 2015 đến pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng” của tác giả Hồng
Thị Hải Yến đăng trên Tạp chí Ngân hàng, số 1 (2019),…

3


Qua khảo sát các nghiên cứu trước đây, tác giả nhận thấy đề tài “Pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng”
vẫn cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện vấn đề về nội dung HĐTD, quan
hệ tín dụng giữa các bên, xây dựng điểm mới liên quan đến quyền được TCTD bảo
mật thông tin, hoạt động cho vay bằng phương thức điện tử, quyền được yêu cầu cơ

cấu lại khoản vay của chủ thể đi vay khi gặp khó khăn do hồn cảnh bị thay đổi cơ
bản,…
3.

Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín

dụng và thực tiễn áp dụng” thực hiện nhằm đạt được những mục đích:
Thứ nhất, đề tài phân tích, hồn thiện cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của
chủ thể đi vay trong HĐTD của các TCTD. Nghiên cứu này sẽ hệ thống và làm rõ
những vấn đề pháp lý quan trọng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay.
Thơng qua đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của từng nhóm quyền và nhóm
nghĩa vụ tác động đến sự hiệu quả, an tồn của hệ thống tài chính tín dụng và bảo
đảm quyền lợi của chủ thể đi vay lẫn chủ thể cho vay.
Thứ hai, đề tài cập nhật tình hình thực tiễn để tìm ra những bất cập trong quá
trình áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trên thực tế. Từ đó,
tác giả đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật, nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật trong hoạt động cho vay của TCTD, đảm bảo hài hịa lợi ích
của các bên trong quan hệ HĐTD và hạn chế tranh chấp liên quan phát sinh.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật tại Việt Nam về quyền
và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong các quan hệ HĐTD, bao gồm nghiên cứu các
quy định của pháp luật dân sự, pháp luật ngân hàng hiện hành.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay
trong các HĐTD thông qua các bài viết, HĐTD và bản án. Từ đó, tác giả đề xuất các
kiến nghị phù hợp với các xu hướng phát triển và quá trình vận dụng pháp luật.
4.

Về phạm vi nghiên cứu

Thứ nhất, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về quyền và
nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong HĐTD. Trong đó, tác giả có sự lưu ý đến việc tìm
hiểu và xây dựng các khái niệm, cơ sở hình thành, vai trị cần thiết của việc điều chỉnh
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong một thỏa thuận. Từ những phân tích
về lý luận, tác giả trình bày việc áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa

4


vụ của chủ thể trên thực tế nhằm chỉ ra bất cập khi áp dụng pháp luật và đề xuất một
số hướng hoàn thiện.
Thứ hai, đề tài chủ yếu tiếp cận và tập trung khai thác các quy định nền tảng của
Bộ Luật Dân sự 2015 (BLDS 2015), Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, đã được
sửa đổi bổ sung năm 2017 (LCTCTD 2010), Thông tư 39/2016/TT-NHNN và một số
văn bản hướng dẫn thi hành còn hiệu lực. Các tài liệu liên quan hoặc văn bản quy
phạm pháp luật khơng có giá trị hiệu lực mang giá trị đối chiếu và làm rõ sự thay đổi,
phát triển của quan hệ xã hội này.
5.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để thực hiện hiệu quả, tác giả sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng trong tồn bộ khóa luận để làm rõ các

vấn đề lý luận chung về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay. Đồng thời tìm ra những
điểm mới, điểm tiến bộ và hạn chế để đưa ra quan điểm pháp lý nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật.
- Phương pháp chứng minh nhằm làm sáng tỏ cơ sở hình thành, ý nghĩa và khả
năng áp dụng hiệu quả trong bối cảnh hiện nay của từng quy định về từng nhóm quyền
và nghĩa vụ cụ thể. Phương pháp được sử dụng ở Chương 2 và Chương 3;
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp: trên cơ sở phân tích, đánh giá các quan điểm,

luận điểm kế thừa từ công trình nghiên cứu trước đó, các quy định pháp luật, tác giả
tổng hợp những điểm bất cập phát sinh từ việc thực hiện quy định áp dụng pháp luật,
từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Cuối mỗi chương của Khóa luận, tác giả
sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt các nội dung chính, đưa ra kết luận cho
từng chương và kết luận chung cho toàn Khóa luận.
6.

Bố cục tổng qt của khóa luận

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
của đề tài gồm 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay
trong hợp đồng tín dụng.
Chương 2: Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong
hợp đồng tín dụng.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi
vay trong hợp đồng tín dụng và các kiến nghị hoàn thiện quy định.

5


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHỦ THỂ ĐI VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.1.1.Khái niệm về hợp đồng tín dụng
Với chức năng là một trung gian tài chính, các TCTD nói chung và ngân hàng
nói riêng thực hiện chức năng chính là “đi vay để cho vay”. Theo đó, ngân hàng là
bên huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ xã hội để cho bên có nhu cầu vốn vay nhằm thu
lợi nhuận. Theo quy định pháp luật Việt Nam, cho vay là một trong những hình thức
cấp tín dụng của TCTD, theo đó, TCTD có thể cung cấp một khoản tiền đến các tổ

chức, cá nhân để sử dụng vào mục đích xác định trong thời gian nhất định. Trong giới
hạn của đề tài, tác giả chủ yếu bàn về hình thức cấp tín dụng là cho vay của các TCTD.
Cho vay được thể hiện dưới hình thức pháp lý là HĐTD.1 Theo đó, HĐTD là
một dạng cụ thể của hợp đồng vay mà chủ thể thực hiện việc cho vay là các TCTD.
Chức năng của bên cho vay là phát hành một công cụ nợ cho bên đi vay thông qua
việc giao một khoản tiền nhất định, trong khoảng thời gian theo thỏa thuận; từ đó,
nghĩa vụ bên đi vay là hoàn trả khoản nợ trên cho bên cho vay theo những gì đã cam
kết. Thêm vào đó, bản thân HĐTD là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí giữa bên cho
vay và bên đi vay, là pháp luật do các bên đặt ra để ràng buộc chính các bên trong
quan hệ. Việc thiết lập hợp đồng cần đảm bảo sự tự nguyện và quan hệ các bên phải
độc lập. Các bên thực hiện đàm phán vì lợi ích của mình và tự do trong phạm vi giới
hạn của luật công và trật tự công cộng.
Một khái niệm về HĐTD tiếp cận dựa trên cấu trúc quan hệ hợp đồng, cụ thể
“…thỏa thuận bằng văn bản giữa một bên là TCTD (bên cho vay) với một bên là các
tổ chức và cá nhân (bên vay) nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định của các
bên trong quá trình vay tiền, sử dụng và thanh tốn tiền vay”.2 Khái niệm thể hiện
được giá trị pháp lý của HĐTD làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ của các bên, ràng buộc các bên tham gia hợp đồng phải tôn trọng và phải thi hành
nghiêm túc các cam kết của HĐTD.3 Ngồi ra, HĐTD có một bên chủ thể là TCTD,
các nghiệp vụ tài chính đặc thù nên bản thân nó chịu sự điều chỉnh của pháp luật
chuyên ngành là LCTCTD 2010.

Nguyễn Bích Thảo (2018), Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo pháp luật Việt Nam, Nhà xuất
bản Tư pháp, tr.9
2
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr.317-318
3
Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.31
1


6


Tuy nhiên, ở tất cả các nước, HĐTD nhìn chung là văn bản pháp lý dài và đặt
ra nhiều hạn chế đáng kể đối với hành vi của người đi vay (điều khoản hạn chế).4
Điều này được lý giải bởi mọi rủi ro tín dụng thuộc về TCTD và tồn bộ hệ thống
ngân hàng khi ngân hàng mất khả năng kiểm soát việc sử dụng vốn vay của bên đi
vay kể từ sau thời điểm giải ngân. Thêm vào đó, các rủi ro về thẩm định thông tin của
TCTD không chính xác khi giao dịch diễn ra và người khơng có khả năng trả nợ tìm
mọi cách để vay tiền; và/hoặc, rủi ro đến từ việc suy giảm đạo đức khi người đi vay
không trung thực và sử dụng vốn khơng đúng mục đích đã cam kết dẫn đến việc tăng
khả năng một khoản vay trở thành nợ xấu. Xét, quan điểm của bên cho vay luôn mong
muốn hợp đồng phải có các điều khoản thuận lợi cho TCTD thực hiện các nghiệp vụ
thẩm định năng lực vay thực tế của bên vay, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay.
Pháp luật cũng định nghĩa HĐTD dưới hình thức và nội dung các điều khoản
cơ bản để đảm bảo giao dịch cho vay được vận hành hợp pháp, an toàn, mang lại lợi
ích nhất định cho các chủ thể nhất định như mong muốn.5 Cụ thể, theo khoản 1 Điều
23 của Thông tư 39 đã quy định: “thỏa thuận cho vay phải được lập thành văn bản,
trong đó tối thiểu có các nội dung sau: … b) Số tiền cho vay; hạn mức cho vay đối
với trường hợp cho vay theo hạn mức;… c) Mục đích sử dụng vốn vay;… đ) Phương
thức cho vay; e) Thời hạn cho vay …; g) Lãi suất cho vay theo thỏa thuận”.
Thực tiễn các năm gần đây, với xu hướng bảo vệ quyền lợi của bên đi vay, thực
hiện nguyên tắc cân bằng quyền lợi của các bên,6 tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chủ
thể đi vay tiếp cận nguồn vốn và điều chỉnh điều khoản khi hoàn cảnh thực hiện hợp
đồng bị thay đổi cơ bản, tác giả nhận thấy cần đề cập tính cân bằng vị thế và quyền
lợi giữa chủ thể trong quan hệ tín dụng. Điều này là phù hợp với nguyên tắc của một
giao dịch dân sự được đưa ra tại Điều 1, BLDS 2015.
Tóm lại, trên cơ sở tiếp thu các khái niệm về HĐTD trên, tác giả đề xuất khái
niệm về HĐTD như sau: “HĐTD là hình thức pháp lý bằng văn bản ghi nhận kết quả

thỏa thuận giữa TCTD và người đi vay là tổ chức, cá nhân, theo đó TCTD cung cấp
nguồn vốn vay cho chủ thể đi vay sử dụng trong khoảng thời gian nhất định và mục
đích rõ ràng, ràng buộc chủ thể đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi;
với điều kiện hợp đồng cần đảm bảo sự tự nguyện, cân bằng quyền lợi các bên khi
thỏa thuận và không vi phạm điều cấm của pháp luật”.

Nguyễn Văn Ngọc (2015), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc
dân, tr.189
5
Lương Khải Ân (2021), Hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, Lý luận và thực tiễn áp
dụng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.33
6
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.85
4

7


1.1.2.Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Quan hệ tín dụng ngân hàng được hình thành từ quan hệ vay mượn tài sản sơ
khai. HĐTD như một dạng đặc biệt của hợp đồng vay tài sản trong dân sự khi đặc
điểm chung của hai hợp đồng này là “nghĩa vụ hoàn trả của bên vay (tài sản, tiền) cho
bên cho vay”. Về bản chất, pháp luật phải thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản
đối với chủ sở hữu là bên cho vay. Điều này phải được bảo đảm cho đến khi bên đi
vay hoàn thành việc trả nợ gốc và lãi suất phát sinh. Theo đó, nghĩa vụ trên không thể
bị vô hiệu hoặc tước đoạt bởi bất kỳ lý do nào. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng có đối
tượng, cơ chế giao dịch, nghiệp vụ thực hiện và phạm vi điều chỉnh riêng biệt. Cả hai
quan hệ đều là nguồn cung cấp vốn cho thị trường nhưng mức độ tập trung và điều
tiết nguồn vốn của các định chế tài chính là cao hơn, chuyên nghiệp hơn thơng qua
chức năng nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Như vậy, HĐTD được cấu thành từ đặc

điểm của hợp đồng vay mượn tài sản trong dân sự và chứa đựng đặc điểm riêng biệt.
HĐTD có các đặc điểm pháp lý của hợp đồng dân sự sau đây:
Thứ nhất, HĐTD là hợp đồng song vụ. Theo đó, các bên đều có quyền và nghĩa
vụ đối xứng với nhau. Nói cách khác, quyền của bên này chính là nghĩa vụ của bên
kia và ngược lại. Cụ thể, HĐTD có phát sinh lãi suất, tức là, để vay được khoản vốn
thì bên đi vay phải bỏ ra một mức “giá cả” để bên cho vay đồng ý vay. Nghĩa vụ của
bên đi vay phải hoàn trả lãi suất phát sinh từ số tiền gốc và quyền của bên cho vay là
nhận đầy đủ khoản tiền trên, hưởng lợi nhuận từ chênh lệch lãi và yêu cầu hoàn trả
phát sinh. Theo quy định tại pháp luật thì trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thỏa
thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi
đến hạn; khơng được hỗn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối
với mình.7 Tuy nhiên, bên phải thực hiện nghĩa vụ có quyền hỗn thực hiện nếu khả
năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia bị sa sút nghiêm trọng đến mức không thể thực
hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được
nghĩa vụ hoặc có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.8 Chẳng hạn, TCTD có quyền
hỗn thực hiện nghĩa vụ giải ngân khoản vay đúng thời hạn cho bên đi vay khi nhận
thấy tình hình kinh doanh, ngân sách chi trả của bên đi vay diễn biến xấu làm suy
giảm đáng kể khả năng hồn trả nợ của họ mà khơng bị coi là vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, HĐTD là hợp đồng ưng thuận. Theo đó, hiệu lực của hợp đồng phát
sinh từ thời điểm các bên thỏa thuận xong nội dung cần thiết (chủ yếu) của hợp đồng,
thời điểm có hiệu lực là thời điểm hợp đồng được giao kết, cho dù các bên đã bắt đầu

7
8

Khoản 1, Điều 410, Bộ luật Dân sự 2015
Khoản 1, Điều 411, Bộ luật Dân sự 2015

8



thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng với nhau hay chưa.9 Đối với HĐTD, TCTD
phải có nghĩa vụ giải ngân khoản vay đúng thời hạn, đúng số lượng cho bên đi vay
theo đúng cam kết trong hợp đồng ngay từ thời điểm hợp đồng giao kết; do đó, khi
HĐTD được giao kết thì nó phát sinh hiệu lực đối với các bên. Vì vậy, HĐTD mang
đặc điểm của hợp đồng ưng thuận.10
Thứ ba, HĐTD có tính chất đền bù. Theo đó, bên cho vay sẽ nhận được một lợi
ích là lãi suất phát sinh khi chuyển một khoản vốn vay cho bên đi vay.11 HĐTD là
hợp đồng đền bù bởi vì tồn tại sự trao đổi lợi ích giữa hai bên: Bên đi vay được cấp
tín dụng dưới hình thức khoản vay của TCTD, còn TCTD thu về một khoảng lợi ích
dựa trên chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Từ đây, hợp đồng đã
hình thành nghĩa vụ hồn trả tiền vay và lãi suất của bên vay phù hợp với chức năng
kinh doanh tiền tệ của TCTD. Mức lãi suất trong HĐTD được điều chỉnh bởi các quy
định của LCTCTD 2010 mà không áp dụng mức lãi trần theo quy định của BLDS
(20%/năm),12 nói cách khác, các bên sẽ thỏa thuận mức “giá cả” của khoản vay dựa
trên quy luật cung cầu vốn trên thị trường, nhu cầu vay và mức độ tín nhiệm của chủ
thể đi vay trong các quan hệ cho vay trước đó.
Thứ tư, có sự chuyển quyền sở hữu “tạm thời” đối với khoản vay từ TCTD sang
bên đi vay khi chủ thể này nhận bàn giao khoản nợ đã giải ngân.13 Từ thời điểm giải
ngân, TCTD mất quyền chủ động nắm giữ khoản tiền. Khi này, người đi vay có quyền
chiếm hữu, định đoạt và sử dụng khoản vay trên theo nhu cầu đã cam kết trong HĐTD.
Sau thời gian sử dụng đã cam kết tại HĐTD, bên vay phải chuyển giao lại quyền sở
hữu đối với khoản vay một cách đầy đủ cho TCTD. Tuy nhiên, nghĩa vụ sử dụng
khoản vay dễ bị bên đi vay vi phạm khi TCTD không thực hiện các công tác rà sốt
việc thực hiện hợp đồng và bên đi vay có thể giả mạo hồ sơ báo cáo về việc sử dụng
vốn. Lúc này, quyền sở hữu khoản vay của TCTD bị xâm phạm và cần các quy định
pháp luật đặt ra nhằm đảm bảo khả năng thu hồi sau khoảng thời gian “tạm thời”.
Ngồi ra, HĐTD cịn chứa đựng các đặc trưng của một quan hệ cấp tín dụng,
khác với hợp đồng vay tài sản trong dân sự về chủ thể, đối tượng, mục đích, nội dung
và hình thức của hợp đồng, cụ thể:


Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.131-132
10
Nguyễn Bích Thảo (2018), tlđd (24), tr.11
11
Nguyễn Bích Thảo (2018), tlđd (24), tr.12
12
Công văn 1576/NHNN-CSTT năm 2017 giải đáp câu hỏi liên quan đến quy định tại Thông tư 39
13
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2012), Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất
bản Tư Pháp, tr.18
9

9


Thứ nhất, đối tượng hợp đồng là vốn tiền tệ.14 Để thỏa mãn phần lớn nhu cầu
của chủ thể đi vay, TCTD giao cho bên đi vay một khoản vốn dưới hình thức tiền tệ
(đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ) để sử dụng cho mục đích sản xuất, kinh doanh, xuất
nhập khẩu hoặc tiêu dùng. Cần nói thêm, việc cho vay bằng hiện vật sẽ rất khó cho
các TCTD khi định giá tài sản, bảo quản tài sản hoặc sử dụng tài sản vào việc cho
vay bởi đặc điểm đặc định của tài sản. Do đó, bằng việc cho vay tiền, TCTD có thể
gia tăng tính thanh khoản của khoản vay, dễ dàng cấp vốn đúng số lượng với nhu cầu
và đơn giản hóa cơng tác thu hồi nợ. Tuy vậy, TCTD có thể chịu một số thiệt hại khi
có hiện tượng trượt giá do biến động thị trường do giới hạn trách nhiệm của bên đi
vay chỉ là số tiền thực nhận của họ mà TCTD đã giải ngân.
Thứ hai, lòng tin là yếu tố quyết định hiệu quả trong HĐTD. Tín dụng bao gồm
03 yếu tố: thời gian, sự tín nhiệm và hứa hẹn hồn trả. Sự tín nhiệm là yếu tố bao
trùm, là điều kiện cần để quan hệ tín dụng phát sinh.15 Với tư cách là chủ thể cấp tín

dụng, TCTD phải thẩm tra uy tín và khả năng hoàn trả khoản vay. Tùy thuộc vào
năng lực kiểm tra cũng như là các quy định nội bộ mà TCTD định ra các tiêu chí đánh
giá định tính lẫn định lượng, vừa đảm bảo mức độ an toàn, vừa mở rộng hoạt động
kinh doanh. Chẳng hạn, TCTD có thể căn cứ vào thu nhập, tài sản đảm bảo của người
đi vay và khả năng kiểm soát các yêu cầu tuân thủ nội bộ, điều kiện ngoại cảnh từ
mơi trường kinh doanh. Yếu tố tín nhiệm có thể đo lường bằng hệ thống chấm điểm
tín nhiệm của doanh nghiệp đi vay hoặc hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng nợ xấu
trên thị trường, từ đó, TCTD có thể lường trước mức độ rủi ro khi quyết định cho vay.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 ln là một bài học cho thấy công tác này cần
thực hiện nghiêm túc và hạn chế thấp nhất các khoản vay dưới chuẩn, nếu khơng thì
hệ thống liên ngân hàng lẫn hệ thống đánh giá tín nhiệm sẽ sụp đổ và liên lụy toàn bộ
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế.
Thứ ba, HĐTD là cơ sở pháp lý cho quan hệ vay và là hợp đồng mẫu được các
TCTD soạn thảo sẵn. Theo quy định của Thông tư 39 thì HĐTD bắt buộc phải được
thể hiện dưới hình thức văn bản và chứa đựng một số nội dung cơ bản.16 Phần lớn các
HĐTD đều là hợp đồng mẫu do chính bên cho vay TCTD soạn thảo chi tiết các điều
khoản. Khi tiến hành giao kết, TCTD chỉ cần đưa bản mẫu như một đề nghị giao kết
hợp đồng và các bên chỉ đàm phán các điều khoản mang tính thương mại như số tiền
vay, lãi suất và khoản phí phát sinh. Sở dĩ có đặc thù như trên vì hoạt động soạn thảo
HĐTD địi hỏi chun mơn nhất định về tài chính và pháp lý, tính chuyên nghiệp.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.309
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.306-308
16
Điều 23, Thông tư 39
14
15

10



Trong khi đó, chủ thể đi vay lại đến từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội nên việc
đàm phán ngay từ đầu đối với mỗi quan hệ cho vay sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí.
Tuy nhiên, các thỏa thuận khung thường được các luật sư soạn thảo bảo vệ tối đa
quyền lợi và thế mạnh của bên cho vay. Đồng nghĩa với việc TCTD có thể xâm phạm
đến một số điều khoản mang tính chất bảo vệ quyền lợi của chủ thể đi vay.
1.2. Chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng
1.2.1.Khái niệm về chủ thể đi vay
Hiện nay, pháp luật đưa ra định nghĩa về chủ thể đi vay tại Khoản 1, 3 Điều 2
Thông tư 39 như sau: Khách hàng vay vốn tại TCTD (sau đây gọi là khách hàng) là
chủ thể được TCTD giao hoặc cam kết giao một khoản tiền để sử dụng vào mục đích
xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả
gốc và lãi. Chủ thể này bao gồm cá nhân và pháp nhân. Đối với pháp nhân, chủ thể
này phải được thành lập và hoạt động tại Việt Nam hoặc được thành lập ở nước ngoài
và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Theo đó, để pháp nhân nước ngồi có thể thực
hiện giao kết HĐTD, họ cần cung cấp thêm hồ sơ và giấy phép chứng minh hoạt động
đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam của mình là hợp pháp. Còn lại, đối với chủ thể đi
vay là cá nhân thì họ phải có quốc tịch Việt Nam hoặc có quốc tịch nước ngồi. Do
đó, HĐTD khơng thể giao kết với một cá nhân là người khơng có quốc tịch.
Về mặt lý luận, bên đi vay là một chủ thể trong HĐTD. Thơng qua sự thống
nhất ý chí trong HĐTD, bên đi vay có một số quyền và nghĩa vụ nhất định, trong đó
bao gồm quyền yêu cầu ngân hàng giải ngân đúng hạn, nghĩa vụ cung cấp thông tin
và trả khoản nợ, nghĩa vụ trả thuế khấu lưu (thuế nhà thầu) trong các khoản vay nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam,… Chủ thể này thực hiện các công việc nhằm vay
mượn được khoản tiền vốn từ ngân hàng và hoàn trả lại vào một thời gian cùng lãi
suất cụ thể. Chủ thể đi vay trước khi giao kết HĐTD cần kiểm tra các hạn chế đặt ra
đối với họ trong quy định pháp luật và/hoặc quy định nội bộ (Điều lệ) nếu bên đi vay
là tổ chức. Chẳng hạn, cấp thẩm quyền tiến hành việc phê duyệt khoản vay và biên
bản chứng minh. Trong quan hệ cho vay, bên đi vay thường đề nghị TCTD thực hiện
giải ngân dựa trên việc thẩm định hồ sơ thông tin do mình cung cấp. Bên đi vay cần
tự nguyện cung cấp thông tin hoặc theo các yêu cầu của bên cho vay. Bên đi vay

không được giấu giếm thông tin quan trọng; buộc phải đưa ra các cam đoan, bảo đảm
cho các thơng tin mình cung cấp là đầy đủ, đúng sự thật và khơng vì mục đích lừa
dối.
Sức mạnh trong đàm phán về khoản vay và hợp đồng của bên đi vay phụ thuộc
nhiều vào xếp hạng tín dụng của chủ thể này, cũng như số lượng các khoản nợ hiện

11


tại và nhu cầu huy động vốn.17 Đây là yếu tố quyết định đến sự linh hoạt của giá trị
khoản vay, lãi phải trả tương ứng khi bên vay đưa ra các u cầu đàm phán. Ngồi ra,
bên vay cịn có thể áp dụng các quy định của pháp luật hoặc chính sách của ngân hàng
để tiếp cận khoản vay có ưu đãi lãi suất và giải ngân và sử dụng vào mục đích nơng
nghiệp, nơng thơn18; hoặc doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực ưu tiên như doanh nghiệp
khoa học công nghệ19, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao,20
đầu tư vào chuyển giao công nghệ xanh và xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững (chương
trình tín dụng xanh)21; hoặc dựa trên quy mơ của doanh nghiệp là vừa và nhỏ.22
Trong nhiều trường hợp, chủ thể đi vay là bên chủ động tiếp cận và lựa chọn
TCTD để tiến hành hoạt động vay vốn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc
nhu cầu phục vụ đời sống, tiêu dùng. Chủ thể đi vay có thể căn cứ vào mức lãi suất,
ưu đãi và hợp đồng mẫu được niêm yết tại TCTD để lựa chọn TCTD có khả năng
cung cấp đủ lượng vốn với mức chi phí thấp nhất. Thêm vào đó, khi tham gia vào
quan hệ HĐTD, chủ thể này được quyền đưa ra các yêu cầu đàm phán về lãi suất,23
nói cách khác, bên đi vay được thỏa thuận việc phải bỏ ra một chi phí, tương đương
một mức giá cả để “mua” quyền sử dụng khoản vay từ bên cho vay. Với tính chất
biến động theo quy luật cung – cầu thị trường và tác động thị trường, chủ thể đi vay
cần căn cứ vào chính rủi ro hệ thống (bao gồm rủi ro pháp lý, rủi ro tín dụng hoặc rủi
ro từ hoạt động thu hồi nợ) mà chủ thể này có thể tạo ra cho TCTD. Rủi ro càng cao
kéo theo lãi suất biến đổi theo chiều tương quan.24 Đây là cơ sở để các bên đưa một
con số về lãi suất vay phù hợp đảm bảo chủ thể đi vay có thể chi trả mức lãi suất,

cũng như TCTD có thể kiếm tiền từ việc tính lãi từ hoạt động cho vay đối với bên đi
vay (chênh lệch giữa phần lãi suất cho vay đối với người đi vay và lãi suất mà ngân
hàng trả cho người gửi tiền) và đủ lượng tiền để trích lập khoản dự phịng rủi ro. Qua
đó cho thấy, chủ thể đi vay tham gia vào quan hệ HĐTD là bình đẳng và tự nguyện.
Tóm lại, dựa trên định nghĩa của quy định pháp luật và lý luận về vị trí trong
HĐTD của chủ thể đi vay, tác giả đưa ra khái niệm về chủ thể này như sau: “Chủ thể
đi vay là một bên khách hàng (bao gồm cá nhân và pháp nhân) tại TCTD thực hiện
Nguyễn Hồng Năng (2016), tlđd (17), tr.157
Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
19
Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ
20
Khoản 2, Điều 13, Thông tư 39
21
Viên Thế Giang, Võ Thị Mai Hương (2019), “Chính sách phát triển tín dụng xanh và những vấn đề đặt
ra trong các quy định pháp luật về cấp tín dụng”, Tạp chí Ngân hàng, số 23 (2019), tr.19-23
22
Điều 8, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017
23
Khoản 2, Điều 91, LCTCTD 2010
24
Trần Quang Dũng (2010), Ứng dụng mô hình CAPM dự báo rủi ro và tỷ suất sinh lợi trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, tr.1
17
18

12


việc tiếp cận nguồn vốn vay nhằm phục vụ nhu cầu đời sống hoặc hoạt động kinh

doanh trên nguyên tắc trung thực và có hồn trả cả gốc lẫn lãi. Chủ thể này tham gia
vào quan hệ HĐTD là bình đẳng và tự nguyện”.
1.2.2. Phân loại chủ thể đi vay
Trong giao dịch cho vay, các bên thông thường là chủ nợ và con nợ có quan hệ
ràng buộc nhau bằng hợp đồng. Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ, trong đó có có việc cấp tín dụng. Pháp luật
Việt Nam hiện hành chỉ đề cập các TCTD như chủ thể bắt buộc trong hợp đồng cho
vay, với tư cách là bên cho vay. Giao dịch cho vay của các ngân hàng thường thực
hiện trực tiếp thông qua các chi nhánh, phịng giao dịch. Thơng qua chính các chi
nhánh, phịng giao dịch mà TCTD có phạm vi tiếp cận nhiều nhóm đối tượng chủ thể
có nhu cầu vốn trong xã hội là đa dạng. Như phần lớn các nghiên cứu khoa học pháp
lý về chủ thể trong HĐTD, tác giả lựa chọn cách thức phân loại các nhóm chủ thể đi
vay dựa trên năng lực pháp lý và nghiệp vụ ngân hàng hiện nay, tức là phân chia
thành nhóm chủ thể đi vay bao gồm: (i) chủ thể đi vay là tổ chức có tư cách pháp
nhân; (ii) chủ thể đi vay là cá nhân và (iii) chủ thể đi vay là hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khơng có tư cách pháp nhân.
Đối với các chủ thể đi vay là tổ chức có tư cách pháp nhân, theo quy định pháp
luật, doanh nghiệp (không bao gồm doanh nghiệp tư nhân) là các tổ chức có tư cách
pháp nhân và hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Để được xem là một pháp nhân đủ
năng lực hành vi dân sự tham gia vào HĐTD thì pháp nhân đó phải được thành lập
theo quy định của Luật Doanh nghiệp thông qua thủ tục đăng ký hoạt động kinh doanh
hoặc đăng ký hoạt động đầu tư và chính tổ chức phải có tài sản độc lập, tự nhân danh
mình tham gia vào quan hệ cho vay. Các giao dịch tín dụng của pháp nhân thực hiện
thông qua người đại diện pháp luật của tổ chức. Đại diện pháp luật có thể Giám đốc,
Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị, tùy thuộc vào Điều lệ
tổ chức và quy định pháp luật. Do đó, cần thiết phải có hoạt động rà soát chứng minh
năng lực, thẩm quyền hoặc bất kỳ phạm vi ủy quyền phát sinh (nếu có) của người tiến
hành giao kết để hạn chế khả năng hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về chủ
thể. Đối với đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, TCTD cần rà soát biên bản họp, văn
bản ủy quyền, quyết định bổ nhiệm người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện,…

nhằm chứng thực năng lực và thẩm quyền của người ký kết. Mặt khác, năng lực pháp
nhân cũng có thể thay đổi về loại hình doanh nghiệp, phạm vi kinh doanh hoặc ngành
nghề trong suốt thời gian “tồn tại”, do đó, địi hỏi sự liên tục kiểm tra sự tồn tại, thay

13


đổi và chấm dứt hoạt động của tổ chức.25 Việc thay đổi năng lực pháp luật có thể làm
phát sinh rủi ro tín dụng cho ngân hàng, chẳng hạn, việc thay đổi ngành nghề sang
các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc chứng khoán làm hạn chế khả năng thu
hồi vốn của ngân hàng.
Đối với các chủ thể đi vay là cá nhân, cá nhân tham gia quan hệ tín dụng phải
có năng lực hành vi dân sự. Một cá nhân được xem là có đầy đủ tư cách chủ thể khi
cá nhân đó tự mình xác lập, thực hiện HĐTD và tự chịu trách nhiệm độc lập cho
những hành vi mà họ đã thực hiện. Vì thế khi giao dịch với chủ thể là cá nhân có đầy
đủ năng lực thì TCTD chỉ cần thẩm định hồ sơ pháp lý liên quan đến chủ thể như căn
cước cơng dân (hoặc chứng minh nhân dân cịn hiệu lực), các chứng minh thu nhập,…
nhằm rà sốt thơng tin nợ xấu trên hệ thống của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC)
mà khơng phải thẩm định tư cách của các chủ thể khác như người đại diện.26 Trường
hợp đối với các cá nhân có một phần năng lực hành vi dân sự, việc TCTD mong muốn
tiếp cận cho vay đối với đối tượng này phát sinh nhiều rủi ro do khả năng hợp đồng
bị vô hiệu khi người đại diện pháp luật của cá nhân yêu cầu Tòa án tun bố vơ hiệu.
Từ đó, phát sinh khả năng khó thu hồi vốn nếu TCTD đã giải ngân dòng vốn hoặc
khơng thể thu hồi dẫn đến mất an tồn trong hoạt động cho vay. Vì vậy, việc cho vay
đối với đối tượng này cần rà soát kỹ càng các hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực để
được đi vay.
Riêng, đối với chủ thể đi vay là cá nhân nước ngồi phải có năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của nước mà cá nhân đó có quốc
tịch,27 trường hợp này cần căn cứ vào các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật
theo BLDS 2015 và các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực tư pháp quốc tế mà Việt

Nam là thành viên. Do đó, năng lực pháp luật của người nước ngoài sẽ bị hạn chế.
Chẳng hạn, quy định tại Điều 159, Luật Nhà ở 2014 chỉ đưa ra một số trường hợp
cho phép cá nhân nước ngoài được phép sở hữu nhà ở tại Việt Nam và Nghị định
99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở
cũng nghiêm cấm trường hợp người nước ngoài mua nhà ở để bán lại kiếm lợi nhuận
và hạn chế số lượng được bán nếu cá nhân là chủ đầu tư.28 Do đó, các ngân hàng cần
lưu ý về tính thanh khoản của tài sản nếu cá nhân nước ngoài đem ra thế chấp cho
khoản vay.

Lê Thị Ngân Hà (2014), Pháp luật về hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động thẩm định cho vay của
ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.58-59
26
Lê Thị Ngân Hà (2014), tlđd (9), tr.77
27
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (30), tr.324-325
28
Điều 79, Nghị định 99/2015/NĐ-CP
25

14


Đối với chủ thể đi vay là các hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khơng có tư cách
pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân). Về nguyên tắc, chủ thể vay vốn tại TCTD chỉ
gồm pháp nhân và cá nhân.29 Đối với các trường hợp chủ thể đi vay thuộc nhóm chủ
thể là hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc doanh nghiệp tư nhân thì chủ thể tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch là các thành viên của hộ gia đình và tổ chức khơng có tư cách
pháp nhân hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia.30
Cụ thể, doanh nghiệp tư nhân sẽ do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm
vơ hạn bằng tồn bộ tài sản của mình. Với đặc điểm này, tài sản của doanh nghiệp tư

nhân không độc lập với chủ sở hữu và doanh nghiệp tư nhân khơng thể nhân danh
chính mình tham gia vào quan hệ. Khi thực hiện giao dịch tín dụng, chủ doanh nghiệp
tư nhân sẽ phải trực tiếp xác lập quan hệ cho vay với ngân hàng. Do đó, q trình
thẩm định tư cách chủ thể của loại hình doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào việc đánh
giá năng lực chủ thể của chủ doanh nghiệp, tương tự như chủ thể đi vay là cá nhân.
Đối với, trường hợp đối với hộ gia đình và tổ hợp tác, các hợp đồng vay và quan hệ
tài sản trước hết phải đạt được sự đồng thuận của tất cả các thành viên. Điều này tiềm
ẩn rủi ro cho bên cho vay vì chỉ cần một người khơng đồng ý với giao dịch tín dụng
kéo theo khả năng HĐTD bị vơ hiệu. Do đó, TCTD cần xác định những cá nhân được
ghi trực tiếp vào Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh sẽ chịu trách nhiệm tài sản
và phạm vi đối với khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh; trên cơ sơ đó, TCTD
cần thu thập các tài liệu chứng minh sự đồng ý tham gia của từng thành viên trong
chủ thể này nhằm hạn chế tình trạng các giao dịch bị cơ quan tài phán tuyên vô hiệu.31
1.2.3. Điều kiện vay vốn của chủ thể đi vay
Lợi nhuận mà TCTD thu được phát sinh từ việc hưởng phần lãi suất chênh lệch
giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động cấp
tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro bao gồm rủi ro từ việc sử dụng vốn, rủi ro kinh doanh,
rủi ro pháp lý khác. Do đó, để hạn chế các rủi ro tác động lên sự an toàn của dư nợ
tín dụng, pháp luật ngân hàng và các TCTD đã thiết lập hệ thống các quy định, điều
khoản về điều kiện cho vay, từ đó làm cơ sở hình thành các quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong hợp đồng cho vay.
Thông thường, để khởi động một giao dịch vay vốn, người khởi đầu có thể là
bên đi vay khi họ đề xuất và gửi yêu cầu bằng văn bản đến TCTD. Từ đó, để đưa ra
Cơng văn 1576/NHNN-CSTT năm 2017 giải đáp câu hỏi liên quan đến quy định tại Thông tư 39
Trương Thanh Đức (2019), Cẩm nang pháp luật ngân hàng (Nhận diện những vấn đề pháp lý), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.439
31
Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú (2017), “Tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
06 (109), tr.4-5

29
30

15


các quyết định cho vay, ngân hàng dựa vào các kết quả đánh giá tình hình thực tế của
doanh nghiệp với các điều kiện được tiếp cận vốn vay được nêu ra tại các quy định
nội bộ của TCTD và quy định tại Điều 7 của Thông tư 39, cụ thể: (i) năng lực chủ
thể, (ii) mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, (iii) phương án sử dụng vốn khả thi, (iv)
khả năng tài chính và (v) khách hàng được TCTD đánh giá là có tình hình tài chính
minh bạch, lành mạnh. Ngồi ra, TCTD cịn có thể xem xét tài sản bảo đảm liên quan
khoản vay. Các thông tin trên được thẩm định chủ yếu dựa trên việc cung cấp của
chính bên đi vay thơng qua báo cáo kiểm tốn, kế hoạch kinh doanh và tài chính hàng
năm hoặc dữ liệu từ Trung tâm Thơng tin tín dụng (CIC). Kết thúc q trình trên, các
bên có đầy đủ cơ sở để tiến hành đàm phán một số điều khoản về lãi suất của khoản
vay, biện pháp hỗ trợ khi hoàn cảnh bị thay đổi cơ bản hoặc bất khả kháng,… Ngân
hàng căn cứ vào các chính sách tín dụng, báo cáo về chỉ số an toàn liên quan đến chủ
thể đi vay và giá trị khoản vay để phê duyệt tín dụng.
Thứ nhất, đối với năng lực chủ thể, tổ chức và cá nhân phải thỏa mãn năng lực
hành vi dân sự khi tham gia vào quan hệ HĐTD. Cụ thể, các chủ thể trực tiếp tham
gia vào quan hệ HĐTD là những chủ thể thực hiện việc ký kết, tạo lập quyền và nghĩa
vụ. Theo quy định của pháp luật dân sự, một trong những điều kiện để hợp đồng phát
sinh theo Điều 117, BLDS 2015 là chủ thể tham gia phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Tác giả đã phân tích
năng lực hành vi đối với từng nhóm chủ thể ở mục 1.2.2 của Khóa luận này.
Thứ hai, về mục đích sử dụng khoản vay, mục đích vay phải hợp pháp, tức là
các chủ thể đi vay không được sử dụng vốn vay được từ các TCTD thực hiện các hoạt
động bao gồm: (i) Thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh mà pháp luật cấm; (ii)
Thanh tốn chi phí, đáp ứng nhu cầu tài chính của các giao dịch, hành vi mà pháp

luật cấm; (iii) Mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ bị cấm kinh doanh; (iv) mua vàng
miếng; (v) để trả nợ khoản cấp tín dụng tại ngân hàng ; (vi) để trả nợ khoản cấp tín
dụng tại các TCTD khác.32 Các trường hợp (i), (ii) và (iii) được liệt kê nhằm mục tiêu
thống nhất các nội dung về hoạt động kinh doanh bị cấm tại pháp luật đầu tư và pháp
luật doanh nghiệp. Đối với trường hợp (iv), lý do của việc loại trừ hoạt động mua
vàng miếng là việc kinh doanh vàng miếng không làm phát sinh các giá trị thặng dư
sản xuất cho nền kinh tế mà chỉ phát triển phụ thuộc vào các biến động thị trường.
Do đó, hoạt động này dễ bị đầu cơ, can thiệp gây nhiễu loạn và ảnh hưởng trực tiếp
đến rủi ro thu hồi vốn. Trong trường hợp (v) và (vi), pháp luật cấm hành vi tái cấp tài
chính (cho vay đảo nợ), nguyên nhân xuất phát từ rủi ro khơng thể thu hồi dịng vốn

32

Điều 8, Thơng tư 39

16


do hoạt động kinh doanh không hiệu quả và gia tăng các vấn đề nợ xấu liên ngân
hàng khi chủ thể đi vay mất khả năng thanh toán khoản nợ quá hạn.33
Thứ ba, về phương án sử dụng vốn, đây là tập hợp các thông tin: (i) Tổng nguồn
vốn cần sử dụng, mục đích sử dụng, thời gian sử dụng vốn; (ii) Nguồn bảo đảm việc
trả nợ; (iii) Phương án, dự án thực hiện hoạt động kinh doanh.34 Qua đó, TCTD đánh
giá khả năng để giải ngân nguồn vốn, điều khoản lãi suất và biện pháp trả nợ của chủ
thể đi vay. Các tiêu chí phụ thuộc nhiều vào cơ cấu vốn hiện tại của chính các TCTD
và tiềm năng hợp tác với bên đi vay, do đó, các nội dung được quy định tại các quy
chế nội bộ của TCTD.
Thứ tư, về khả năng tài chính của khách hàng, các TCTD khi cho vay đều mong
muốn nguồn vốn kịp thời quay lại khi đến ngày đáo hạn và tiếp tục các cơ hội kinh
doanh mới. Do đó, việc xác định thu nhập, định giá tài sản và khả năng xoay vòng

vốn của chủ thể đi vay sẽ đảm bảo việc ngân hàng thu hồi nợ đúng hạn. Đối với các
giao dịch bảo đảm, việc thẩm định tài sản gồm hai nội dung là thẩm định về tính pháp
lý và thẩm định giá trị tài sản bảo đảm.35 Về tính pháp lý, TCTD cần rà soát quyền
sở hữu của bên đi vay, các biên bản họp của Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên
đối với tài sản của tổ chức, tình trạng hơn nhân của chủ sở hữu, văn bản thể hiện sự
nhất trí của thành viên trong Hộ gia đình đối với tài sản chung. Về giá trị của tài sản
bảo đảm, với chức năng là nguồn thu nợ dự phịng khi bên đi vay khơng thể trả tiền,
các TCTD thường xác định giá trị của khoản vay thấp hơn giá trị thị trường của tài
sản bảo đảm nhằm đề phòng các rủi ro thị trường. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, TCTD vẫn cho phép vay khoản tiền có giá trị cao hơn giá trị thị trường của tài
sản bảo đảm với mức lãi suất cho vay cao. Việc TCTD thực hiện cho vay mà không
phụ thuộc vào sự so sánh giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản bảo đảm là phù hợp
với nguyên tắc tự định đoạt của các bên tại Nghị định 21/2021/NĐ-CP và khoản 4,
Điều 295 BLDS 2015.
Thứ năm, về tính minh bạch của khách hàng, xét đây là giao dịch có tính chất
dân sự cần sự trung thực và thiện chí giữa các bên. Ngân hàng có quyền dựa vào lịch
sử giao dịch của khách hàng trước đó để thẩm định tính lành mạnh, minh bạch trong
giao dịch. Việc chủ thể đi vay lợi dụng sự thiếu kiểm soát trong hoạt động kiểm tra
của các TCTD để thực hiện các hành vi có dấu hiệu tẩu tán tài sản bảo đảm hoặc lợi
dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản là vi phạm tính chất minh bạch trong hoạt động

Lê Thị Thu Thủy (2016), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của TCTD
tại Việt Nam và một số nước trên thế giới, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.66-67
34
Khoản 6, Điều 2, Thông tư số39/2016/TT-NHN
35
Lê Thị Ngân Hà (2014), tlđd (9), tr.105
33

17



tín dụng. Các hành vi trên có thể là cơ sở xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với bên đi vay nhằm đảm bảo tính lành mạnh của hoạt động tài chính.
1.3. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo quy định pháp luật
Trong hoạt động cấp tín dụng, cho vay vẫn là giao dịch phổ biến, đáp ứng nguồn
vốn chủ yếu cho nền kinh tế.36 Quan hệ tín dụng tạo ra sự luân chuyển tiền tệ trong
toàn bộ hệ thống kinh tế. Bản chất của pháp luật là phương tiện đặt ra các nguyên tắc
tối thiểu cần có trong một quan hệ cho vay được thể hiện dưới hình thức là một HĐTD.
Theo đó, trong quan hệ HĐTD thì TCTD có phần lợi thế bởi việc ký kết hợp đồng
phụ thuộc vào hợp đồng mẫu của bên cho vay và quyết định cho vay là quyền tự chủ
của TCTD. Điều này làm phát sinh nguy cơ TCTD áp đặt một số nghĩa vụ chưa hợp
lý gây ảnh hưởng đến quyền lợi khách hàng vay.37 Từ đó, đặt ra sự cần thiết của việc
tham gia điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh các nội dung trong hoạt động cấp tín
dụng, trong đó bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay. Như đã đề cập, HĐTD
vừa mang đặc điểm của một hợp đồng dân sự, vừa mang bản chất riêng của hoạt động
cấp tín dụng. Do đó, bản thân nội dung quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong
HĐTD ngoài việc tuân thủ các quy định chung về pháp luật dân sự, hợp đồng, thương
mại (bao gồm BLDS 2015, Luật Doanh nghiệp 2020,…) mà còn chịu sự điều chỉnh
của chính pháp luật ngân hàng trong việc đảm bảo an tồn hệ thống tín dụng (bao
gồm LCTCTD 2010, Thông tư 39,…).
So với Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay
của TCTD đã hết hiệu lực, Thông tư 39 không dành một điều luật riêng biệt quy định
về quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay mà quy định có phần rải rác ở các điều luật.
Mặc dù vậy, pháp luật vẫn thiết lập các điều khoản nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa
vụ tối thiểu đối với cả chủ thể đi vay lẫn chủ thể cho vay. Chẳng hạn, tại Điều 16 của
Thông tư 39 quy định nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin không chỉ là nghĩa vụ của
bên cho vay mà đây còn là nghĩa vụ của bên đi vay.
Về nguyên tắc, hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được thực hiện

trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa chủ thể đi vay và TCTD và phải phù hợp với các

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2021), Báo cáo Thống kê các chỉ tiêu cơ bản tháng 09/2021, Hà Nội
[ />174311#%40%3F_afrLoop%3D26597546889174311%26centerWidth%3D100%2525%26leftWidth%3D0%
2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrlstate%3D190jnrbp8y_17], truy cập ngày 26/04/2022
37
Nguyễn Thị Diễm (2018), Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp
dụng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.14
36

18


quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng.38 Pháp luật có sự tơn trọng đối với sự
thỏa thuận các bên, tuy nhiên vẫn đặt ra các đường lối nhằm hạn chế việc ngân hàng
và các TCTD tận dụng vị trí đàm phán của mình để gây ra các thiệt hại và bất lợi cho
người đi vay. Thông qua Điều 4, Thơng tư 39 ghi nhận ngun tắc bình đẳng trong
thỏa thuận, pháp luật tạo ra khả năng thực hiện quyền từ chối đàm phán hoặc thực
hiện các yêu cầu khơng hợp lý, khơng tồn tại trong HĐTD. Ngồi ra, người đi vay
khi nhận thấy TCTD đang liên tục trì hỗn thời điểm giải ngân nguồn vốn vào thời
gian khơng xác định hoặc xâm phạm quyền bảo mật thông tin có thể thực hiện quyền
khởi kiện tại các cơ quan tài phán theo quy định pháp luật về tố tụng hoặc trọng tài
thương mại.
Những HĐTD thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ biến trong thực tế,
vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy. Trong
trường hợp phát sinh tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được cơ quan tài phán
xem xét và áp dụng điều khoản dự phịng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thơng qua
việc giải thích hợp đồng.39 Khi đó, quyền và nghĩa vụ của bên vay có thể phát sinh
dựa trên các quy định pháp luật. Do đó mà các quyền và nghĩa vụ được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật cần mang tính chất tối thiểu và đảm bảo hoạt

động cho vay được lành mạnh.
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay phát sinh theo thỏa thuận của
các bên
Theo Điều 385, BLDS 2015 thì một hợp đồng tồn tại hai đặc tính cơ bản: (i) thể
hiện sự thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng và (ii) nội dung thỏa thuận là xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của bên tham gia hợp đồng. Các đặc
tính này thể hiện sự đồng thuận ý chí các bên và mục đích mà hợp đồng cần đạt được.
Tương tự, HĐTD cũng là kết quả ghi nhận các thỏa thuận các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ của chủ thể đi vay và và chủ thể cho vay, tạo ra các ràng buộc
pháp lý giữa các bên trong quan hệ cho vay. Về nguyên tắc, pháp luật phải tôn trọng
kết quả thỏa thuận và ghi nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận, nếu nội dung và mục
đích khơng vi phạm bất kỳ điều cấm nào của pháp luật. Trên cơ sở đó, ngoài những
quyền và nghĩa vụ mà luật định, quyền và nghĩa vụ của chủ thể còn được xác lập trên
cơ sở đàm phán, ký kết HĐTD.
Theo Khoản 2 Điều 23 Thơng tư 39, ngồi các nội dụng cần có trong một thỏa
thuận cho vay tại Khoản 1 Điều này thì các bên được quyền thỏa thuận các nội dung

38
39

Khoản 1, Điều 4, Thông tư 39
Lê Minh Hùng (2015), tlđd (14), tr.25

19


×