Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.51 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------------------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ - NIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất và hiện tượng và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên”

THÔNG TIN SINH VIÊN:
Họ và tên: Bùi Xuân Bảo Giang
Mã sinh viên: 11211726
STT: 07
Lớp: Ngôn Ngữ Anh 63B
Lớp học phần: LLNL1105 (221)_39
Giảng viên hướng dẫn: TS Lê Thị Hồng

Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2022
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------------------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ - NIN
Đề tài: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất và hiện tượng và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên”



THÔNG TIN SINH VIÊN:
Họ và tên: Bùi Xuân Bảo Giang
Mã sinh viên: 11211726
STT: 07
Lớp: Ngôn Ngữ Anh 63B
Lớp học phần: LLNL1105 (221)_39
Giảng viên hướng dẫn: TS Lê Thị Hồng

_____________________________________________________
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2022
2


MỤC LỤC

3


A. LỜI MỞ ĐẦU
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực
nhất định. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có q trình vận
động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức, v.v.. Nghĩa là đều có những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các cặp phạm trù của
phép biện chứng duy vật.
Trong các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, tồn tại một cặp phạm trù là
phạm trù bản chất và hiện tượng. Thực tế trong cuộc sống, khi quan sát và đánh giá bất
kì một sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên nào, ta đều phát hiện ra những khía cạnh
mà chúng ta có thể nhìn thấy và đánh giá chính xác được. Bên cạnh đó, trong sự vật,

hiện tượng đó cũng tồn tại những mặt, những khía cạnh, những mối liên hệ bên trong, ẩn
đằng sau sự vật mà ta chỉ có thể dùng cách nhận thức lý tính hay cịn gọi là tư duy trừu
tượng thì mới có thể xem xét và đánh giá một cách chính xác được. Những khía cạnh có
thể dễ dàng đánh giá được gọi là hiện tượng, còn những mặt bên trong phải nhận thức
bằng tư duy trừu tượng gọi là bản chất. Trong mỗi sự vật khách quan luôn tồn tại song
song hai phạm trù này. Bản chất và hiện tượng thống nhất nhưng không đồng nhất, luôn
vận động và phát triển một cách khách quan. Để nhìn nhận và đánh giá chính xác một sự
vật thì cần phải phân tích cả hai mặt bản chất và hiện tượng của sự vật đó, khơng chỉ
dừng lại ở việc xem xét một vài hiện tượng đơn lẻ mà cần phải xâu chuỗi các hiện tượng
đó một cách logic để tìm được đến bản chất của sự vật.
Và khi đã nắm được định nghĩa của bản chất và hiện tượng, lại nảy ra câu hỏi:
Chúng có ý nghĩa trong cuộc sống thực tế ra sao? Đó chính là lý do để triển khai đề tài
sau: “Quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện
tượng và ý nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên”.

4


B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan và luôn vận động, phát
triển. Theo quan điểm Mác Lênin, chủ nghĩa duy tâm khơng thừa nhận hoặc có cách
hiểu chính xác về sự tổn tại khách quan của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng. Những
người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất không hề thật sự tồn tại mà chỉ là một
cái tên vô nghĩa do con người bịa đặt ra để giải thích cho những điều không thể nhận
thức được bằng các giác quan thơng thường, cịn hiện thực dù ln hiện hữu nhưng cũng
chỉ là sự tổng hợp của những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong thế giới chủ quan
của loài người.

Ngược lại, cũng theo quan điểm của triết học Mác Lênin, chủ nghĩa duy vật biện
chứng lại cho rằng cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong thế giới tự
nhiên, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng mà không phải là do bất cứ ai sáng tạo ra.
Căn cứ của nhận định này là do bất kì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố
nhất định liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen và phức tạp.
Trong đó có các mối quan hệ tất nhiên tương đối ổn định và những mối liên hệ tương đối
khơng ổn định. Chính những mối liên hệ tất nhiên ổn định sẽ tạo thành bản chất của sự
vật. Vậy, bản chất là gì ? Hiện tượng là gì ? Ý nghĩa nghĩa phương pháp luận ? Mối quan
hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng ?
1. Định nghĩa bản chất và hiện tượng
1.1 Định nghĩa bản chất
Bản chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ:
Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Bản chất của con
người được quy định bởi tất cả mối quan hệ xã hội, tức là bị quy định bởi mối quan hệ
giữa người với người: ngay từ khi sinh ra, ta đã là con của cha mẹ, là cháu của ông bà, là
một thành viên trong gia đình. Nếu một cá nhân nào đó chưa từng có một mối quan hệ
xã hội nào, dù là mối quan hệ lớn hay nhỏ thì chưa thực sự được gọi là một con người.
Bản chất con người phải đặt trong tổng quan cộng đồng với cá nhân. Con người hòa
5


nhập vào cộng đồng giúp làm phong phú xã hội và thể hiện rõ ràng bản sắc cá nhân hơn.
Bản chất của con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại, cũng tồn tại
khách quan và ln luôn vận động phát triển. Nhờ bản chất tự nhiên mà chúng ta có thể
thấy được sự khác biệt giữa con người và các loài vật.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với
cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung khơng phải là bản chất.

Ví dụ:
Mọi con người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung,
đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của
con người như đều có đầu, mình, và các chi... đó là cái chung, nhưng khơng phải bản
chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về
mức độ nhận thức của con người). Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với
nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất.
Mọi quy luật đều có đặc trưng cơ bản nhất là tính tất yếu và tính bản chất Bản chất là
tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy, có thể nói phạm trù bản chất rộng hơn và phong
phú hơn quy luật.
1.2 Định nghĩa hiện tượng
Nếu như bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó thì hiện
tượng là một phạm trù dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngồi của những mặt, những mối
liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Ví dụ:
Bản chất một ngun tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân, cịn
những tính chất hóa học của ngun tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là hiện
tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân.
Mỗi con người đều có một màu da cụ thể như trắng, vàng hay đen với các sắc độ
khác nhau. Vẻ bề ngồi này chính sự biểu hiện ra bên ngồi của bản chất, hay cịn gọi là
hiện tượng.

6


Như vậy, nói tóm lại, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật; hiện
tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm
giác của chủ quan con người quyết định.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay khơng. Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất
định, các yếu tố này tham gia vào những mối liên hệ qua lại với nhau trong đó những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa
nhận sự tồn tại của bản chất và hiện tượng trong thế giới khách quan mà cịn cho rằng
giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ
với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập với nhau.
2.1 Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Không chỉ thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng còn là sự thống nhất biện
chứng. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất ln
ln được bộc lộ ra qua hiện tượng, cịn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản
chất ở mức độ nhất định. Khơng có bản chất nào tồn tại thuần túy ngồi hiện tượng,
đồng thời cũng khơng có hiện tượng nào hồn tồn khơng biểu hiện bản chất.
Vì vậy, để nhấn mạnh sự thống nhất này, V.I.Lênin cho rằng:
“Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”
Thứ hai, bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được
bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất
khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng
biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng
mất theo. Và nếu có một bản chất mới xuất hiện thì cũng sẽ xuất hiện những hiện tượng
mới và phản ánh những bản chất mới. Như G.V.P Hêghen đã từng nói:
“Bản chất “được ánh lên” nhờ hiện tượng”
Ví dụ:
Qua từng thời kì xã hội, trải qua nhiều chế độ khác nhau, bản chất của các chế độ
đó cũng ln có sự thay đổi. Khi chưa xuất hiện giai cấp, xã hội nguyên thủy là một xã
hội bình đẳng. Đến thời phong kiến, bản chất của xã hội thay đổi, tập trung bảo vệ cho
quyền lợi của giai cấp thống trị. Bản chất đó được thể hiện qua các hiện tượng như giai
7



cấp địa chủ thống trị độc quyền ruộng đất, bóc lột và áp bức nhân dân lao động bằng
những thứ sưu cao thuế nặng. Nhiều năm sau, khi xuất hiện chế độ tư bản, bản chất xã
hội lại tiếp tục thay đổi: giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp vô sản. Điều
này được bộc lộ bằng các hiện tượng trong xã hội như sự bần cùng, thống khổ của giai
cấp vô sản, nạn thất nghiệp lan rộng, ô nhiễm môi trường tăng nhanh... Như vậy, khi xã
hội bước qua các thời kì, chế độ khác nhau, bản chất và hiện tượng của các chế độ đó đã
thay đổi. Khi kết thúc thời kì phong kiến, khơng cịn giai cấp địa chủ bóc lột nhân dân,
bản chất của xã hội mất đi và thay đổi. Khi sang chế độ mới, chế độ tư bản, bản chất
khác được hình thành và bộc lộ qua các hiện tượng mới, khác biệt và độc lập so với bản
chất và hiện tượng trong xã hội phong kiến.
Tóm lại, chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện mn hình vạn trạng của nó
mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển
của những hiện tượng ấy.
2.2 Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng là hai phạm trù thống nhất với nhau nhưng không hề đồng
nhất, đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy, bản chất và hiện tượng khơng
hồn tồn phù hợp nhau, mà luôn luôn bao hàm sự mâu thuẫn với nhau. Sự mâu thuẫn
này trước nhất được thể hiện qua việc bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu và quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng hay cái cá
biệt. Cùng một bản chất có thể được biểu hiện ra bởi nhiều hiện tượng khác nhau tùy
theo sự biến đổi của điều kiện và hồn cảnh.
Ví dụ:
Trong thế giới thực vật, ta dễ dàng quan sát được các loại lá cây khác nhau: là này
to, lá kia nhỏ, là thì màu xanh, lá thì màu đỏ,.. Mặc dù được thể hiện dưới mn vàn
hình thức và hiện tượng khác nhau, nhưng tất cả lá đây đều có một bản chất chung: cơ
quan hô hấp và cải biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng hóa học trong quá trình
quang hợp. Ngồi các chức năng hơ hấp và quang hợp này – những chức năng tạo nên
bản chất của mọi mọi chiếc lá – mỗi là cây lại có những đặc điểm riêng để phân biệt với

các lá cây khác.
Như vậy, nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc khơng những vào bản
chất mà cịn phụ thuộc vào hồn cảnh cụ thể mà trong đó bản chất được biểu hiện. Chính
vì thế, V.I Lenin nhận xét rằng hiện tượng phong phú hơn bản chất. Nhưng nói như vậy
8


khơng có nghĩa là bản chất nghèo nàn. Dựa trên tính chất biện chứng mà nói, bản chất
cũng sâu sắc hơn so với hiện tượng.
Thứ hai, bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn
hiện tượng là sự biểu hiện bản chất đó ra bên ngồi, nhưng biểu hiện dưới hình thức đã
cải biên, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Hàng bao thế kỉ, người ta vẫn tin rằng trái đất
đứng yên, còn mặt trời quay xung quanh trái đất, nhờ vậy có ngày và đêm. Trong khi đó,
sự thực lại hồn toàn ngược lại: trái đất quay xung quanh mặt trời. Điều này là ngun
nhân sâu xa giải thích vì sao bản chất của nhiều hiện tượng chỉ được tìm ra bởi khoa học
sau một thời gian dài, có khi hàng thế kỉ hoặc hàng chục thế kỉ.
Thứ ba, bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng khơng ổn
định, nó ln ln trơi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Tuy nhiên, điều này
khơng có nghĩa là từ lúc ra đời cho đến khi mất đi, bản chất vẫn giữ nguyên như cũ mà
bản chất cũng thay đổi. Ví dụ, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa thì bản chất của nó đã biến đổi ít nhiều, mặc dù căn bản của nó vẫn giữ nguyên
như cũ, mặc dù về căn bản nó vẫn giữ nguyên như cũ, tức là vẫn chưa vượt ra ngồi
khn khổ của hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Nếu trong giai đoạn trước độc quyền,
tự do cạnh tranh và xuất khẩu hàng hóa chiếm địa vị thống trị, các tổ chức độc quyền
chưa đóng vai trị gì đáng kể thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tư bản độc quyền đã
thay thế cho tự do cạnh tranh, quy luật lợi nhuận tối đa thay thế cho quy luật lợi nhuận
bình quân.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
3.1 Đối với quá trình nhận thức
- Nhận thức sự vật, hiện tượng không chỉ dừng lại ở việc xem xét các hiện tượng

được biểu hiện ra bên ngồi mà phải đi sâu, tìm hiểu các bản chất bên trong của nó.
- Bản chất khơng tồn tại dưới dạng vật chất, nó bao giờ cũng bộc lộ ra ngồi thơng
qua các hiện tượng tương ứng. Do đó, chúng ta chỉ có thể tìm ra bản chất khi và chỉ khi
nghiên cứu các hiện tượng cụ thể.
- Quá trình nhận thức của con người là quá trình đi từ hiện tượng tới bản chất, từ
bản chất mờ nhạt đến bản chất sâu sắc. Quá trình này là q trình khơng ngừng dừng lại.
Nó địi hỏi chúng ta không được tự thỏa mãn dừng lại ở bất kỳ một trình độ nhận thức
nào về bản chất của sự vật.

9


- Khi tìm hiểu bản chất, khơng được chủ quan tùy tiện, cần cơng phu bởi vì nó là
một q trình khó khăn và lâu dài.
3.2 Đối với hoạt động thực tiễn
- Về cơ bản, phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người để thay đổi bản
chất sự vật, khi đó hiện tượng mới có thể thay đổi. Mặt này của bản chất và hiện tượng
khá giống với mối quan hệ giữa lượng và chất.
- Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại. Vì thế, muốn thay đổi bản
chất của sự vật, phải thông qua hoạt động của mình, con người làm mất điều kiện tác
động của quy luật cũ, tạo điều kiện cho sự nảy sinh và tác động của quy luật mới.

10


II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN
Về vai trò và ý nghĩa, phép biện chứng duy vật nói chung và cặp phạm trù bản
chất – hiện tượng nói riêng đã kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự

giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các
nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy
hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó mới có thể đem lại phương
pháp giải thích những q trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải thích những mối
quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên cứu này sang lĩnh vực nghiên cứu
khác. Cụ thể ở đây, ta sẽ nói về ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và
hiện tượng trong vấn đề nghiên cứu và học tập của sinh viên.
Thứ nhất, quan điểm biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng của cặp
phạm trù bản chất và hiện tượng giúp sinh viên chúng ta định hướng nguyên tắc nghiên
cứu và học tập: muốn nhận thức rõ được bản chất của đối tượng nghiên cứu, học tập thì
cách duy nhất phải tìm hiểu sâu, tổng hợp đầy đủ các hiện tượng, quá trình thực tế.
Ví dụ:
Trong mơn học Thị trường chứng khốn, trước tiên chúng ta được tìm hiểu về
chứng khốn là gì? Chứng khốn là các loại giấy tờ có giá khác nhau được các tổ chức
phát hành (theo luật định). Có 3 loại chứng khốn chính mà các doanh nghiệp niêm yết
thường phát hành: cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi.
Tiếp theo, sau khi hiểu được định nghĩa, ta phải tiếp tục đi đào sâu vào từng loại
chứng khoán cụ thể:
-

-

Cổ phiếu là một tờ giấy có giá, chứng nhận quyền sở hữu một lượng cổ phần nhất
định trong cơng ty phát hành của người nắm giữ nó.
Cịn trái phiếu: Nếu bạn sở hữu nó, bạn là Chủ Nợ của công ty phát hành ra trái
phiếu. Nếu bạn mua tất cả trái phiếu của một công ty phát hành ra, bạn là chủ nợ
lớn của công ty, nhưng bạn KHƠNG phải chủ sở hữu của cơng ty.
Trái phiếu chuyển đổi: Trái phiếu có thể quy đổi thành Cổ phiếu.

Suy ra, muốn nhận thức rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu, ở đây ví dụ cụ thể

là chứng khốn, cần phải tìm hiểu sâu về nó, bóc tách các thành phần cấu tạo nên đối
tượng, hiểu rõ từng phần, sau đó tổng hợp lại đầy đủ tất cả các hiện tượng, quá trình
thực tế.
11


Thứ hai, quá trình tìm hiểu bản chất của đối tượng nghiên cứu, học tập sẽ là một
quá trình tư duy vơ cùng lâu dài và phức tạp. Đó là quá trình sinh viên phải tìm hiểu từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất mờ nhạt đến bản chất sâu sắc, từ bản chất sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn,… Khi tổng hợp các hiện tượng, sinh viên cần đặt đối tượng
nghiên cứu vào các môi trường, điều kiện hồn cảnh khác nhau, bởi vì mơi trường bên
ngồi làm cho hiện tượng bộc lộ ra bị tác động hoặc ít hoặc nhiều. Từ đó, sinh viên sẽ
nắm được bản chất cấp I, và như thế chưa phải là hết. Từ bản chất cấp I, sinh viên lại có
thể nghiên cứu, nghiền ngẫm thêm để tổng hợp ra bản chất II, và từ cấp II đến cấp III, cứ
như thế mãi tới các bản chất cấp cao hơn…
Ví dụ:
Khi nghiên cứu về một nguyên tố hoá học, các nhà khoa học đã cùng nhau khám
phá ra bản chất của nguyên tử là sự tương tác của điện tử và hạt nhân. Mặc dù ban đầu
nguyên tử có nguồn gốc chỉ những hạt không thể phân chia nhỏ hơn nữa, nhưng như
ngày nay đã biết nguyên tử là thuật ngữ khoa học tổ hợp của nhiều hạt hạ nguyên tử.
Các hạt thành phần của nguyên tử là electron, proton và neutron. Đó là bản chất cấp I.
Sau một thời gian dài, các nhà khoa học lại khám phá ra lượng tử. Những nguyên lý của
cơ học lượng tử đã mô tả thành cơng các tính chất quan sát thấy của nguyên tử và là nền
tảng cho lý thuyết nguyên tử và hạt hạ nguyên tử. Đây là bản chất cấp II của ngun tử.
Có thể nói, q trình tìm hiểu, nghiên cứu là kéo dài vô tận, không bao giờ kết thúc. Có
thể trong tương lai, bản chất cấp III cũng sẽ sớm được phát hiện.
Thứ ba, trong quá trình nghiên cứu và học tập, sinh viên phải xem xét đối tượng
nghiên cứu dưới nhiều hiện tượng khác nhau và nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên
trong thực tế, các loại nguồn lực là có hạn nên trong một phạm vi hồn cảnh và thời gian
nhất định, sinh viên khó có thể xem xét hết tồn bộ các hiện tượng có thể xảy ra. Do vậy,

sinh viên nên thu hẹp phạm vi để xem các hiện tượng điển hình trong các hồn cảnh điển
hình. Tuy kết quả của việc xem xét này không thể phản ánh đầy đủ bản chất thực sự của
sự vật nhưng nó cũng đã phản ánh bản chất đến một cấp độ nhất định. Cũng vì lẽ đó, khi
tổng kết nghiên cứu, sinh viên nên đưa ra kết luận của mình một cách hết sức thận trọng.

Ví dụ:
Khi sinh viên tiến hành nghiên cứu khoa học với chủ đề: “Nhân tố ảnh hưởng đến
khởi nghiệp của giới trẻ khu vực Đông Nam Á”, sinh viên cần có nhiều người khác nhau
12


tham gia ngủ dưới những điều kiện, tác động khác nhau. Tuy nhiên, khảo sát hết toàn bộ
mọi người là bất khả thi. Vì vậy, sinh viên cần tuyển mẫu 1000 người trẻ trong khu vực
Đông Nam Á: đến từ tất cả các nước trong khu vực, mọi độ tuổi, mọi giới tính, khơng
phân biệt màu da, sắc tộc. Mặc dù 1000 chỉ là con số nhỏ so với toàn bộ người trẻ trong
khu vực Đơng Nam Á nhưng nó đã phản ánh một lượng lớn thông tin để cung cấp cho
nghiên cứu khoa học của sinh viên, từ đó tiếp tục phân tích, tổng hợp để phân tích được
những nhân tố nào cấu thành nên sự ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của giới trẻ trong
khu vực Đông Nam Á.
Cuối cùng, mọi đối tượng đều được tạo thành từ sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập, nên mọi đối tượng luôn không ngừng phát triển. Mà bản chất là phạm
trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy
định sự vận động, phát triển của đối tượng. Nên khi sự vật phát triển thì bản chất cũng
thay đổi để tạo ra sự chuyển hoá của đối tượng từ dạng này sang dạng khác. Vì thế các
phương pháp đã áp dụng vào hoạt động nghiên cứu cũ trước đây cũng cần sinh viên đổi
mới, sáng tạo bằng các phương pháp mới, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối
tượng nghiên cứu, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong học tập và công việc.

13



C. KẾT LUẬN
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự
vật đó. Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của
sự vật, hiện tượng ra bên ngoài. Cặp phạm trù này vừa thống nhất với nhau, vừa đối lập
nhau, tuy nhiên vẫn nằm trong mối liên hệ phụ thuộc qua lại lẫn nhau.
Phép biện chứng duy vật nói chung cũng như cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
nói riêng đã đặt nền móng, định hướng và đề ra các nguyên tắc đúng đắn và chính xác
trong hoạt động nhận thức và vận dụng vào cuộc sống thực tế của con người. Đồng thời,
đây cũng là hình thức tư duy hiệu quả nhất trong q trình nghiên và học tập.
Trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xã hội ngày càng phát triển và đòi
hỏi yêu cầu cao hơn ở con người – thích ứng nhanh hơn và nhạy bén với cuộc sống. Do
đó, việc khơng ngừng tư duy, học tập, nghiên cứu và vận dụng kiến thức vào cuộc sống
thực tiễn là một việc vô cùng cấp thiết. Một trong những kiến thức đó chính là quan
điểm biện chứng duy vật và mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù bản chất và hiện
tượng. Đứng trên cương vị là một người sinh viên năm nhất của Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, sau khi học tập và tham khảo về mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và
hiện tượng, em đã có cho mình những kiến thức cơ bản, là nền tảng xây dựng tư duy và
thế giới quan cho riêng mình, để sẵn sàng cho việc nghiên cứu và vận dụng trong cuộc
sống thực tiễn sau này.

14


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Ngọc Quang, Mai Thi, Mai Văn Bính , Câu hỏi và bài tập Triết
học, tập III: Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, NXB Khoa học Xã hội, TP Hồ Chí Minh,
2005.
2. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thế Kiệt , Hỏi – Đáp môn Triết học Mác - Lênin, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, TP Hà Nội, 2005.
3. Khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, phân viện Hà Nội, Tập
bài giảng Triết học Mác – Lê nin, tập 1: Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, NXB Chính trị
Quốc gia, TP Hà Nội,2000.
4. Vũ Thiện Vương, Triết học Mác – Lênin về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc Gia, TP Hà
Nội, 2000.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin. (Dành cho bậc đại học
không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, TP Hà Nội, 2021.

15



×