Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với vấn đề trầm cảm và lo âu của học sinh 2 trường Trung học cơ sở, thành phố Hà Nội potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.71 KB, 8 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13) 9
Một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với vấn đề
trầm cảm và lo âu của học sinh 2 trường Trung
học cơ sở, thành phố Hà Nội
Nguyễn Thanh Hương (*), Trương Quang Tiến (*), Hoàng Khánh Chi(*),
Nguyễn Hoàng Phương (*), Trần Bích Phượng (**), Micheal Dunne (***)
Ngày nay vấn đề sức khỏe tâm thần là khá phổ biến trong giới trẻ và có xu hướng tăng lên đặc biệt
ở các nước đang phát triển. Điển hình về vấn đề này như trầm cảm và lo âu trong thời kỳ vò thành
niên có thể để lại hậu quả tức thì hoặc lâu dài tới sức khỏe thể chất cũng như tâm thần khi trưởng
thành. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này lại chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu. Mục đích của
bài báo này là xác đònh một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với trầm cảm và lo âu ở học sinh hai
trường trung học cơ sở của Hà Nội. Đây là nghiên cứu cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi tự điền khuyết
danh với 972 học sinh từ lớp 6 đến lớp 8. Các mô hình phân tích đa biến được sử dụng để kiểm soát
một số yếu tố nhiễu. Kết quả cho thấy học sinh nội thành có sức khỏe tâm thần kém hơn so với học
sinh ngoại thành (p<0.05). Trầm cảm và lo âu ở cả học sinh nam và nữ có mối liên quan với nhiều
yếu tố khác nhau. Gắn kết tốt với nhà trường; được cha, mẹ quan tâm phù hợp là yếu tố bảo vệ. Bò
bắt nạt/trêu ghẹo; sự kiểm soát và bảo vệ quá mức của cả cha lẫn mẹ là yếu tố nguy cơ của trầm cảm
và lo âu. Kết quả nghiên cứu nhất quán với công bố của một số nghiên cứu trước đây và cho thấy
tính cấp thiết của việc triển khai các chương trình can thiệp tại trường học để cải thiện sự gắn kết
với nhà trường, giảm tình trạng bắt nạt/trêu ghẹo và hỗ trợ phụ huynh quan tâm, chăm sóc các em
một cách phù hợp nhằm cải thiện sức khỏe tâm thần của thế hệ trẻ.
Từ khóa: Trầm cảm, lo âu, vò thành niên, yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệ.
Some risk and protective factors for
depression and anxiety among students
of two secondary schools in Hanoi
Nguyen Thanh Huong (*), Truong Quang Tien (*), Hoang Khanh Chi (*),
Nguyen Hoang Phuong (*), Tran Bich Phuong (**), Micheal Dunne (***).
Nowadays, mental health problems are quite prevalent and on an increasing trend among adolescents
and youth. Typical mental health problems include depression and anxiety among adolescents which
can have serious short-term and long-term impacts on adult physical and mental health. However,


this problem is still not prioritized for research in Viet Nam. This paper aims to identify some of
protective and risk factors of depression and anxiety among school children at two secondary schools
in Ha Noi. This is a cross-sectional study using self-administered questionnaire without respondent's
10 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
1. Đặt vấn đề
Các báo cáo nghiên cứu gần đây cho thấy vấn
đề sức khỏe tâm thần có xu hướng gia tăng. Theo
ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) trên 25%
dân số thế giới bò rối loạn tâm thần và hành vi tại
một thời điểm nào đó trong cuộc đời [21]. Ở Việt
Nam, theo Nguyễn Viết Thiêm, kết quả nghiên cứu
gần đây cho thấy tỉ lệ người dân mắc rối loạn tâm
thần loại này hay loại khác chiếm khoảng 15-20%
dân số [3]. Năm 2002, nghiên cứu dòch tễ học bệnh
tâm thần của Trần Văn Cường cho kết quả 2,8% dân
số có biểu hiện trầm cảm, 2,6% dân số có biểu hiện
lo âu, và rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên chiếm
0,9% dân số. Phân tích sâu hơn của nghiên cứu này
cũng cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở nữ cao gấp 3 lần so
với nam và lo âu ở nữ cũng gấp khoảng 2,5 lần so
với nam [1].
Năm 1996, nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật
của thế giới của Đại học Harvard, WHO và Ngân
hàng thế giới cho biết gánh nặng toàn cầu của các
rối loạn tâm thần chiếm 10,5% gánh nặng bệnh tật,
tuy nhiên vẫn được cho là thấp hơn so với thực tế.
Cũng trong nghiên cứu này, ước tính gánh nặng
bệnh tật do bệnh tâm thần và thần kinh sẽ tăng lên
với tốc độ cao hơn so với bệnh tim mạch và chiếm

khoảng 15% vào năm 2020 [4].
Sức khỏe tâm thần của vò thành niên là một vấn
đề đang ngày càng thu hút sự quan tâm của các cán
bộ quản lý, cán bộ y tế và cộng đồng. Sức khỏe tâm
thần được đánh giá là một cấu phần quan trọng
trong sức khỏe tổng thể của thế hệ trẻ. Những vấn
đề về sức khỏe tâm thần trong thời kỳ vò thành niên
name for collecting data from 972 school children from grade 6 to grade 8. Multivariable linear
regression models and General linear models were employed to control confounding variables. The
results show that adolescents in suburban school have better mental health than their counterparts
in inner city school (p<0.05). There are various factors associated with depression and anxiety.
School connectedness, appropriate mother and farther care are protective factors. Bullying,
overprotection of both mother and father are risk factors of depression and anxiety. The study results
are consistent with findings from previous studies and show the urgent need of developing and
implementing intervention programs at schools to improve school connectedness, reduce school
bullying, and support parents to take care their children appropriately, and thus to contribute to
promoting mental wellbeing of young generation.
Key words: Depression, anxiety, adolescent, risk factors, protective factors.
Các tác giả:
(*) Trường Đại học Y tế Công cộng - 138 Giảng Võ, Hà Nội
- Nguyễn Thanh Hương - Tiến só, Phó Trưởng khoa các Khoa học xã hội
- Trương Quang Tiến - Thạc só, Phó Trưởng Bộ môn Giáo dục sức khỏe
- Hoàng Khánh Chi - Thạc só, Giảng viên Bộ môn Chính sách và Pháp luật Y tế
- Nguyễn Hoàng Phương - Cử nhân, Trợ giảng bộ môn Giáo dục sức khỏe
(**) Trần Bích Phượng - Thạc só, Tổ chức Atlantic Philanthropies
(***) Micheal P. Dunne - Giáo sư, Tiến só, Đại học Công nghệ Queensland, Úc.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13) 11
có mối liên quan chặt chẽ với rất nhiều hành vi
nguy cơ như tự tử, uống rượu, hút thuốc, sử dụng ma

túy…, có thể gây ảnh hưởng tức thì hoặc lâu dài tới
sức khỏe thể chất cũng như tâm thần khi trưởng
thành. Các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ
lệ vò thành niên có biểu hiện rối loạn tâm thần tại
một số nước phát triển như Úc, Mỹ, Đức, Thụy Sỹ,
Tây Ban Nha đều trên 20% [21]. Tại Việt Nam, kết
quả nghiên bước đầu của một nghiên cứu dọc tại
cộng đồng (thực hiện từ năm 2000 đến 2015) ở 5
tỉnh cho thấy tỷ lệ trẻ 8 tuổi có triệu chứng rối loạn
hành vi cũng vào khoảng 20% [19].
Nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần chỉ ra
rằng trầm cảm (depression), lo âu (anxiety
disorder) là những biểu hiện thường gặp của các
vấn đề sức khoẻ tâm thần ở vò thành niên [7]. Rối
loạn lo âu thường xảy ra cùng với các suy nhược về
thể chất và tâm thần. Lo âu có những triệu chứng
khác nhau, nhưng tất cả các biểu hiện đều xoay
quanh sự sợ hãi, lo lắng quá mức hay không có căn
cứ. Ở vò thành niên rối loạn trầm cảm biểu hiện là
những thay đổi về cảm xúc như cảm thấy buồn,
khóc, vô vọng; không quan tâm đến những hoạt
động vui chơi, giải trí hay suy giảm các hoạt động
học tập tại trường; có thể biểu hiện ăn không ngon
miệng hay thay đổi giấc ngủ hay có những khó chòu
trong cơ thể một cách mơ hồ; ngoài ra trẻ còn nghó
rằng không thể làm được việc gì đúng hoặc cảm
thấy cuộc sống không có ý nghóa hoặc vô vọng [11].
Nghiên cứu về một số yếu tố ảnh hưởng đến sức
khỏe tâm thần của học sinh ở một số trường trung
học cơ sở của một số thành phố ở Việt Nam của Lê

Thò Kim Dung và cộng sự (2007) có những phát
hiện đáng chú ý về tình trạng lo âu và trầm cảm ở
học sinh. Tỉ lệ học sinh có biểu hiện lo âu là 12,3%
và trầm cảm là 8,4% [2].
Trong khuôn khổ của bài báo này này chúng tôi
tập trung vào 2 vấn đề sức khỏe tâm thần là trầm
cảm và lo âu. Đây là những vấn đề thường gặp trong
các vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm
thần của trẻ em. Trong đó, những yếu tố tác động
tích cực làm giảm nhẹ các tác động tiêu cực, tăng
cường sức khỏe tâm thần được gọi là yếu tố bảo vệ.
Bên cạnh đó có những yếu tố có tác động tiêu cực,
làm tăng khả năng xuất hiện các các vấn đề sức
khoẻ tâm thần được gọi là yếu tố nguy cơ. Việc xác
đònh rõ các yếu tố này giúp chúng ta xây dựng giải
pháp can thiệp thích hợp để cải thiện vấn đề sức
khỏe tâm thần. Các yếu tố nguy cơ và bảo vệ có thể
thuộc các lónh vực: sinh học, tâm lí và xã hội bao
gồm các yếu tố về gia đình (sự quan tâm của cha
mẹ, mối quan hệ của các thành viên trong gia
đình…), trường học (sự gắn kết với nhà trường, vấn
đề bạo lực tại trường học…), và cộng đồng (mối gắn
kết với cộng đồng, các dòch vụ giải trí, các dòch vụ
tư vấn của xã hội…) [22].
Các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở trẻ em, đặc biệt
là trầm cảm, lo âu nếu không được quan tâm phòng
ngừa và can thiệp phù hợp sẽ để lại hậu quả cho cả
cá nhân trẻ và gia đình chúng. Một trong những hậu
quả nghiêm trọng của vấn đề là trẻ có thể có ý đònh

tự tử và thực hiện hành vi tự tử. Vấn đề sức khỏe tâm
thần cũng có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ của cá
nhân với các thành viên trong gia đình, với bạn bè,
ảnh hưởng đến kết quả học tập tại trường, năng suất
lao động cũng như sự phát triển cá nhân nói chung.
Vì vậy việc nhận thức đúng đắn, xác đònh rõ ràng
vấn đề sức khoẻ tâm thần và phòng ngừa, chăm sóc,
điều trò sức khoẻ tâm thần cho trẻ em và vò thành
niên có tầm quan trọng và ý nghóa to lớn. Nghiên
cứu này nhằm xác đònh một số yếu tố nguy cơ và
bảo vệ đối với trầm cảm và lo âu tập trung vào một
số yếu tố về gia đình và nhà trường của học sinh 2
trường trung học cơ sở ở Hà Nội, trên cơ sở đó gợi
ý cho việc xây dựng và triển khai chương trình can
thiệp phù hợp với đối tượng vò thành niên học sinh.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế: Đây là điều tra ban đầu của một
nghiên cứu can thiệp so sánh (trước sau không có
nhóm chứng) được tiến hành từ 6/2007 - 6/2008 tác
động vào một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với
sức khỏe tâm thần cụ thể là trầm cảm, lo âu và một
số hành vi nguy cơ đối với sức khỏe của vò thành
niên. Kết quả của nghiên cứu can thiệp sẽ được
trình bày trong một bài báo khác.
Đối tượng: Học sinh từ lớp 6 đến lớp 8
Đòa điểm: Hai trường trung học cơ sở, 1 trường
ở quận Ba Đình và 1 trường ở huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội.
Mẫu nghiên cứu: Mỗi trường lựa chọn ngẫu
nhiên 10 lớp (từ lớp 6-8) tham gia vào nghiên cứu,

tổng số 974 em học sinh tham gia.
Bộ câu hỏi thu thập số liệu bao gồm 4 phần
chính đó là các thông tin chung, môi trường gia đình,
môi trường trường học và vấn đề sức khỏe tâm thần
12 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
bao gồm trầm cảm, lo âu và một số hành vi nguy cơ
đối với sức khỏe.
Thang đo được sử dụng trong bộ câu hỏi:
Thang đo trầm cảm: Sử dụng thang đo CES-D
(The Centre for Epidemiological Studies-
Depression Scale) gồm 20 tiểu mục [16]. Thang đo
này đã được đánh giá về tính giá trò và độ tin cây
đối với đối tượng vò thành niên ở Việt Nam (với
α
= 0,87) [8]. Trong nghiên cứu này α = 0,82)
Thang đo lo âu: Sử dụng thang đo gồm 13 tiểu
mục đã bước đầu được đánh giá tính giá trò và độ tin
cậy đối với đối tượng vò thành niên ở Việt Nam (với
α = 0,82) [8]. Trong nghiên cứu này α = 0,81)
Thang đo mức độ bò trêu ghẹo/bắt nạt tại trường
học: Nhóm nghiên cứu xây dựng dựa trên tham
khảo kỹ lưỡng các tài liệu trong và ngoài nước.
Thang đo gồm 5 tiểu mục với lựa chọn trả lời ở 3
mức (không bao giờ, thỉnh thoảng, thường xuyên)
để đo lường mức độ bò bắt nạt tại trường học trong
vòng 1 tháng trước thời điểm điều tra. Thang đo có
độ tin cậy cao (
α = 0,79).
Thang đo mối quan hệ/ gắn kết với cha và mẹ:

Sử dụng thang đo của Parker và cộng sự (Parental
Bonding Scale) [14], đây là thang đo được sử dụng
rộng rãi trong nhiều nghiên cứu ở nước ngoài, có độ
tin cậy và tính giá trò cao (
α = 0.83 cho thang đo với
mẹ và
α = 0.84 cho thang đo với cha). Thang đo
gồm có 25 tiểu mục tách riêng cho cha và mẹ, và
đánh giá 2 khía cạnh là chăm sóc (care) và bảo vệ
quá mức (overprotection).
Thang đo sự gắn kết với nhà trường: Sử dụng
thang đo tham khảo của nước ngoài (School
Connectedness Scale) với 7 tiểu mục [5] (trong
nghiên cứu này
α = 0.83).
Thu thập số liệu
Nghiên cứu được sự cho phép của Ban giám
hiệu của 2 trường được mời tham gia. Số liệu thu
thập bằng phương pháp sử dụng bộ câu hỏi tự điền
khuyết danh. Các em học sinh tự nguyện tham gia
nghiên cứu trả lời các câu hỏi tại lớp học với sự có
mặt của một cán bộ nghiên cứu. Thời gian để các
em trả lời xong bộ câu hỏi khoảng 25-30 phút.
Trước khi tiến hành nghiên cứu, bộ câu hỏi đã
được chỉnh sửa thông qua thử nghiệm với đối tượng
học sinh để các em trao đổi và góp ý về sự trong
sáng, rõ ràng, dễ hiểu của ngôn ngữ và cách thiết
kế bộ câu hỏi.
Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 13 để phân

tích số liệu. Để phân tích các yếu tố liên quan với
trầm cảm và lo âu, cần kiểm soát một số yếu tố
nhiễu như các biến về dân số học, đặc điểm gia
đình…). Bước thứ nhất trong phân tích chúng tôi sử
dụng mô hình hồi qui tuyến tính đa biến
(Multivariable linear regression models) để xác
đònh các hợp biến (covariates) có ý nghóa thống kê.
Bước thứ 2 sử dụng mô hình tuyến tính tổng quát
(General linear Models - GLM) để xác đònh các
yếu tố liên quan. Phân tích được tách riêng cho
nhóm học sinh nam và nữ.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1 . Một số thông tin chung
Tỷ lệ học sinh giữa trường ngoại thành và nội
thành (51,7% và 48,3%), giữa nam và nữ (51,3% và
48,7%) và giữa 3 khối lớp 6, 7 và 8 (33,3%, 36,0%
và 30,7%) là khá tương đồng. Chỉ có gần 2% em báo
cáo có lực học kém trong học kỳ trước. Về tình trạng
kinh tế của gia đình có 12,3% được đánh giá là khá
và giàu (gia đình có ô tô), 74,1% là trung bình (gia
đình có xe máy) và 13,6% là nghèo (gia đình chỉ có
xe đạp). Gần 3% các em có bố mẹ bỏ nhau và 2,5%
mồ côi cha/mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ. Có khoảng 25%
các em không biết trình độ học vấn của cha/mẹ.
Khi được hỏi về mối quan hệ trong gia đình,
trên 50% các em đã chứng kiến cha mẹ cãi nhau
trong đó gần 15% ở mức độ thỉnh thoảng hoặc
thường xuyên. Gần 20% các em đã chứng kiến cha
mẹ đánh nhau trong đó gần 5% chứng kiến ở mức
độ thỉnh thoảng và thường xuyên. Khi cần có sự

giúp đỡ về tình cảm tới gần 40% các em chia sẻ với
bạn bè sau đó mới đến mẹ (20,0%), anh/chò em
(14,9%) và với cha chỉ có 4,9% và có tới trên 15%
các em không chia sẻ với bất cứ ai.
3.2. So sánh mức độ trầm cảm và lo âu theo
giới, đòa bàn trường học và khối lớp
Bảng 1 cho thấy học sinh nữ có mức độ lo âu
cao hơn nam trong khi đó không có sự khác biệt
giữa 2 giới về mức độ trầm cảm. Các em học sinh
ở nội thành có mức độ trầm cảm và lo âu cao hơn
các em ở khu vực ngoại thành. Không có sự khác
biệt về mức độ trầm cảm và lo âu khi so sánh giữa
3 khối lớp.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13) 13
3.3. Các yếu tố nguy cơ và bảo vệ
3.3.1. Các yếu tố liên quan với trầm cảm
Bảng 2 cho thấy các biến có liên quan với trầm
cảm cho nam và nữ học sinh và bảng 3 chỉ ra mối
liên quan của các phân nhóm trong mỗi biến với
trầm cảm.
Với học sinh nam: Bò trêu ghẹo/bắt nạt ở trường
và người cha bảo vệ quá mức có thể là yếu tố nguy
cơ đối với trầm cảm ở học sinh nam. Ngược lại sự
gắn kết với nhà trường và sự chăm sóc của cha là
yếu tố bảo vệ. Số lượng anh/chò em, hiện tại sống
với ai, nghề nghiệp của mẹ và chứng kiến cha mẹ
cãi nhau cũng có mối liên quan với trầm cảm ở học
sinh nam (Bảng 2). Nam học sinh không có anh/chò
em có điểm trầm cảm cao hơn nhóm có anh/chò em.

Tuy nhiên không có sự khác biệt về mức độ trầm
cảm giữa nhóm có 1 anh/chò em với nhóm có từ 2
anh/chò em trở lên. Nam học sinh sống với cha
và/hoặc mẹ có điểm trầm cảm thấp hơn một cách
có ý nghóa thống kế với điểm của nam học sinh
không sống với cha, mẹ đẻ. Nam học sinh có mẹ là
cán bộ nhà nước cũng có điểm trầm cảm thấp hơn
có ý nghóa thống kê so với nhóm nam học sinh có
mẹ là các nghề khác. Các em nam chứng kiến
cha/mẹ cái nhau ở mức độ thỉnh thoảng và thường
xuyên có mức độ trầm cảm cao hơn so với nhóm còn
lại (Bảng 3).
Với học sinh nữ: Bò trêu ghẹo/bắt nạt ở trường
là yếu tố nguy cơ trong khi đó gắn kết với nhà
trường, chăm sóc của mẹ là yếu tố bảo vệ. Đòa bàn
trường học và kết quả học tập có liên quan với trầm
cảm của học sinh nữ. Nữ sinh ở nội thành có mức độ
trầm cảm cao hơn có ý nghóa thống kê so với nữ sinh
ở ngoại thành (điểm trầm cảm trung bình là 18.259
so với 14.736). Nữ sinh có mức học trung bình và
kém có mức độ trầm cảm cao hơn các em có lực học
khá và giỏi.
3.3.2. Các yếu tố liên quan đến lo âu
Bảng 4 cho thấy các biến có liên quan với lo âu
cho nam và nữ học sinh và bảng 5 chỉ ra mối liên
quan của các phân nhóm trong mỗi biến với lo âu.
Với học sinh nam: Bò trêu ghẹo/bắt nạt ở trường
và mẹ bảo vệ quá mức là yếu tố nguy cơ đối với lo
âu ở học sinh nam. Thêm nữa các em không có ai
để chia sẻ khi có vấn đề có mức độ lo âu cao hơn

các em khác.
Với học sinh nữ: Bò trêu ghẹo/bắt nạt ở trường
và mẹ bảo vệ quá mức cũng là yếu tố nguy cơ đối
với lo âu ở học sinh nữ. Ngược lại gắn kết với nhà
trường lại là yếu tố bảo vệ. Những em sống với cả
cha lẫn mẹ có mức độ lo âu thấp hơn so với các em
không sống với cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ sống với cha
hoặc mẹ đẻ. Các em chưa bao giờ chứng kiến cha
mẹ cãi nhau hoặc không có mâu thuẫn với anh/chò
em có mức độ lo âu thấp hơn so với các em khác.


Giới
Đòa điểm trường học
Lớp

Thang đo


Nam
(n = 488)

Nữ
(n = 464)

T-test
(p-value)
Học sinh
ngoại
thành

(n=469)
Học sinh
nội thành
(n=503)

T-test
(p-value)

Lớp 6
(n = 324)

Lớp 7
(n = 350)

Lớp 8
(n =298 )

ANOVA
(p value)

Mean(SD)
Mean(SD)

Mean(SD)
Mean(SD)

Mean(SD)
Mean(SD)
Mean(SD)


Trầm cảm
14.85
(9.93)
14.92
(9.87)
.913
13.93
(9.23)
15.60
(10.25)
.008
14.07
(9.52)
15.30
(10.42)
14.98
(9.65)
.251
Lo âu
19.21
(4.50)
21.13
(4.47)
.001
19.70
(4.28)
20.46
(4.86)
.001
19.74

(4.39)
20.26
(4.85)
20.27
(4.50)
.250
Bảng 1. Điểm trầm cảm và lo âu theo giới, đòa điểm
trường học và khối lớp
Nam
Nữ
Các biến

t
p value

t
p value
Gắn kết với nhà trường

-4.769
.001*

-5.114
.001*
Bò trêu ghẹo/bắt nạt

5.925
.001*

3.578

.001*
Chăm sóc của mẹ




-2.988
.003*
Bảo vệ quá mức của mẹ




1.643
.101
Chăm sóc của cha

-3.351
.001*



Bảo vệ quá mức của cha

2.902
.004*






F
p value

F
p value
Khối lớp

.077
.926

1.941
.145
Đòa điểm của trường

.323
.570

5.085
.025*
Tình trạng kinh tế

.073
.787

1.181
.278
Số anh chò em

2.915

.045*

.062
.940
Hiện đang sống với ai

3.256
.040*

.199
.819
Tình trạng hôn nhân của cha, mẹ

2.486
.116

.911
.341
Trình độ học vấn của mẹ

.315
.814

.166
.919
Trình độ học vấn của cha

.191
.902


.183
.908
Nghề ghiệp của cha

1.060
.366

.613
.607
Nghề nghiệp của mẹ

3.352
.019*

.500
.683
Tình trạng sử dụng rượu của cha, mẹ

.644
.423

2.249
.135
Tình trạng sử dụng ma túy của cha, mẹ

160
690

.982
.322

Tìm sự hỗ trợ tình cảm

1.494
.203

.322
.863
Cha mẹ cãi nhau

4.001
.019*

2.036
.132
Cha mẹ đánh nhau

1.569
.210

2.468
.086
Mâu thuẫn với anh chò em

1.599
.189

1.164
.323
Kết quả học tập


.858
.425

3.027
.050*

Bảng 2. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan với
trầm cảm (cho nam và nữ học sinh)
* Có ý nghóa thống kê (p<0.05)
14 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
4. Bàn luận
Với truyền thống và văn hóa của đất nước, trẻ
em Việt Nam luôn được quan tâm chăm sóc của cha
mẹ và của xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế của
đất nước, nhìn chung trẻ em Việt Nam hiện nay
đang được hưởng một cuộc sống với các điều kiện
vật chất tốt hơn trước nhưng đồng thời các em cũng
đang phải đối mặt với nhiều yếu tố nguy cơ đối với
sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu này góp phần cung
cấp một số bằng chứng về các yếu tố nguy cơ và bảo
vệ đối với vấn đề trầm cảm và lo âu - hai vấn đề
thường được đề cập khi nói đến sức khỏe tâm thần
không chỉ của trẻ em mà của cả người trưởng thành,
nhưng lại chưa được nghiên cứu nhiều ở qui mô
cộng đồng tại Việt Nam. Nghiên cứu này sử dụng
một số thang đo đã được đánh giá tính giá trò và độ
tin cậy. Đây là một trong những yếu tố đảm bảo

Nam

Nữ
Các biến
Mean
SE
Mean
SE





Đòa điểm của trường




Ngoại thành


14.736
3.462
Nội thành


18.259
3.272
Số anh chò em





Không có
21.542
2.945


Có một
17.643ª
2.626


Có từ 2 trở lên
17.350ª
2.649


Hiện đang sống với ai




Với cả cha và mẹ đẻ
16.933ª
2.313


Với cha hoặc mẹ đẻ
12.693ª
4.134



Không sống với cha mẹ đẻ
26.909
4.476


Nghề nghiệp của mẹ




Cán bộ nhà nước
15.703
2.917


Làm ghề tự do
18.719ª
2.746


Nông dân
21.764ª
2.738


Thất nghiệp/nội trợ
19.194ª
2.671



Chứng kiến bố mẹ cãi nhau




Chưa bao giờ
17.217
2.719


Hiếm khi
18.031
2.663


Thỉnh thoảng/thường xuyên
21.288
2.725


Kết quả học tập




Giỏi


15.058ª

3.320
Khá


15.903ª
3.297
Trung bình và kém


18.532
3.451
Bảng 3. Các nhóm có liên quan với trầm cảm (với
điểm trung bình và SE) (với cả nam và nữ
học sinh)
Ghi chú: a - sự khác biệt có ý nghóa thống kê (p > 0.05)
Nam
Nữ
Các biến

t
p value

t
p value
Gắn kết với nhà trường

683
.495

-2.138

.033*
Bò trêu ghẹo/bắt nạt

9.046
.001*

3.238
.001*
Chăm sóc của mẹ






Bảo vệ quá mức của mẹ

2.870
.004*

2.530
.012*
Chăm sóc của cha






Bảo vệ quá mức của cha









F
p value

F
p value
Khối lớp

.380
.648

.274
.760
Đòa điểm của trường

.022
.822

3.131
.078
Tình trạng kinh tế

.111

.739

3.294
.070
Số anh chò em

.184
.832

.662
.516
Hiện đang sống với ai

.457
.634

8.352
.001*
Tình trạng hôn nhân của cha, mẹ

.001
.985

5.184
.023*
Trình độ học vấn của mẹ

1.350
.258


330
803
Trình độ học vấn của cha

.806
.491

.932
.425
Nghề ghiệp của cha

2.632
.050*

.089
.966
Nghề nghiệp của mẹ

.346
.792

.458
.712
Tình trạng sử dụng rượu của cha, mẹ

.002
.967

2.374
.124

Tình trạng sử dụng ma túy của cha, mẹ

2.246
.135

.004
.948
Tìm sự hỗ trợ tình cảm

2.756
.028*

.773
.543
Cha mẹ cãi nhau

.787
.456

3.682
.026*
Cha mẹ đánh nhau

1.038
.355

.387
.697
Mâu thuẫn với anh chò em


2.437
.064

3.703
.012*
Kết quả học tập

.711
.492

.159
.853

Bảng 4. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan với
lo âu (cho nam và nữ học sinh)
* Sự khác biệt có ý nghóa thống kê (p<0.05)

Nam
Nữ
Các biến
Mean
SE
Mean
SE
Hiện đang sống với ai




Với cả cha và mẹ đẻ



20.932ª
1.509
Với cha hoặc mẹ đẻ


24.491ª
1.846
Không sống với cha mẹ đẻ


25.375
2.151
Tình trạng hôn nhân của cha mẹ




Sống với nhau


24.610
1.742
Không sống với nhau


22.589
1.650
Nghề nghiệp của cha





Cán bộ nhà nước
19.345
1.290


Nghề tự do
20.285
1.205


Nông dân
18.598
1.338


Thất nghiệp/Nội trợ
19.164
1.296


Tìm sự hỗ trợ về tình cảm




Cha/mẹ

19.631ª
1.286


Anh chò em ruột
19.344ª
1.269


Bạn bè
19.741ª
1.279


Họ hàng và những người khác
19.912 ª
1.272


Không ai cả
18.112
1.248


Chứng kiến bố mẹ cãi nhau




Chưa bao giờ



22.661
1.700
Hiếm khi


23.798ª
1.686
Thỉnh hoảng/thường xuyên


24.339ª
1.665
Mâu thuẫn với anh chò em




Chưa bao giờ


22.430
1.628
Hiếm khi


24.027ª
1.655
Thỉnh thoảng



23.769ª
1.648
Thường xuyên


24.171ª
1.852
Bảng 5. Các nhóm có liên quan với lo âu (với điểm
trung bình và SE) (với cả nam và nữ
học sinh)
Ghi chú: a - Sự khác biệt có ý nghóa thống kê (p >0.05)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13) 15
được chất lượng của nghiên cứu và tạo điều kiện
cho việc so sánh kết quả với các nghiên cứu khác
trong lónh vực này.
Nghiên cứu cũng cho thấy có nhiều yếu tố liên
quan với trầm cảm và lo âu của cả nam và nữ học
sinh. Một số yếu tố có ảnh hưởng tích cực (yếu tố
bảo vệ) và một số có ảnh hưởng tiêu cực (yếu tố
nguy cơ). Sự gắn kết với nhà trường và mối quan
tâm chăm sóc của cha, mẹ là yếu tố bảo vệ làm
giảm sự trầm cảm và lo âu của học sinh vò thành
niên. Điều quan trọng là sự quan tâm của cha có ảnh
hưởng tới sức khỏe tâm thần của các em nam còn
sự quan tâm của mẹ có ảnh hưởng tới các em nữ.
Kết quả này là nhất quán với công bố của một số
nghiên cứu ở nước ngoài. Rigby, Slee và Martin

(2007) nghiên cứu trên 1.432 học sinh trung học cơ
sở tuổi 12-16 tại thành phố Adelaide của Úc cho
thấy sức khỏe tâm thần kém có liên quan với sự
thiếu chăm sóc của cha và mẹ [17].
Bên cạnh sự tác động của các yếu tố về mối
quan hệ của cha mẹ và đặc điểm gia đình lên sức
khỏe tâm thần của vò thành niên học sinh, môi
trường trường học cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Giống với kết quả của nghiên cứu này, Cho (2005)
và McNeely (2002) thấy rằng học sinh có mối gắn
kết tốt với trường học có sức khỏe tốt hơn [6;9]. Khi
các em học sinh thấy được mọi người ở trường chăm
sóc, chia sẻ và thân thiện các em cảm thấy mình gắn
bó, hòa nhập với trường học và khi đó các em ít có
nguy cơ sử dụng các chất gây nghiện, tham gia đánh
nhau hoặc có quan hệ tình dục. Nghiên cứu này
cũng cho thấy các học sinh có mối quan hệ gắn kết
với nhà trường có sức khỏe tâm thần tốt hơn.
Về các yếu tố nguy cơ đối với trầm cảm và lo
âu, nghiên cứu này cho thấy kết quả rõ ràng là việc
trêu ghẹo/bắt nạt có liên quan tới sức khỏe tâm thần
của trẻ. Tình trạng bảo vệ quá mức của mẹ cũng là
yếu tố nguy cơ đối với cả trầm cảm và lo âu của vò
thành niên. Sự bảo vệ quá mức của người cha cũng
có tác động tiêu cực tới tình trạng trầm cảm ở nam
vò thành niên. Kết quả này tương tự với công bố của
Rigby và cộng sự (2007) nghiên cứu với vò thành
niên ở Adelaide, Úc. Các tác giả thấy rằng sự bảo
vệ quá mức của cha và mẹ có mối liên quan với tình
trạng mất ngủ, lo âu và trầm cảm [17].

Nghiên cứu này không tìm thấy mối liên quan
có ý nghóa thống kê giữa tình trạng sử dụng rượu,
ma túy của cha/mẹ và việc cha mẹ ly hôn với sức
khỏe tâm thần của trẻ. Kết quả này là rất khác với
các nghiên cứu tương tự ở các nước phương Tây.
Các nghiên cứu này đều cho thấy việc bố/mẹ
nghiện rượu, sử dụng ma túy, cha mẹ đánh/cãi nhau
hoặc ly dò/ly thân có ảnh hưởng rất lớn, làm tăng
triệu chứng của trầm cảm và lo âu ở trẻ vò thành
niên [13;18;20]. Sự khác biệt giữa kết quả của
nghiên cứu này với nghiên cứu của các quốc gia
phát triển có thể là do sự khác biệt về văn hóa, với
bối cảnh văn hóa Việt Nam tỷ lệ ly hôn, nghiện ma
túy và nghiện rượu ở khu vực các trường triển khai
nghiên cứu này là khá thấp. Tỷ lệ vò thành niên
sống cùng cha và mẹ trong nghiên cứu này là trên
90% và tỷ lệ có cha/mẹ sử dụng ma túy là dưới 1%.
Tuy vậy, trong tương lai mô hình này có thể thay đối
cùng với những tác động tiêu cực của sự phát triển
trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra mối
liên quan giữa nghèo đói và sức khỏe tâm thần của
người lớn và vò thành niên, đặc biệt là với nữ giới
[12;15]. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại không tìm
thấy mối liên quan có ý nghóa thống kê giữa kinh tế
gia đình và trầm cảm, lo âu của vò thành niên. Điều
này có thể là do việc phân loại tình trạng kinh tế gia
đình trong nghiên cứu này dựa trên câu hỏi trung
gian về sở hữu ô tô, xe máy hay xe đạp là chưa đủ
độ nhạy để đánh giá mức độ kinh tế của hộ gia đình.

Nghiên cứu này cho thấy mối liên quan giữa đòa
bàn của trường học (nội thành và ngoại thành) với
trầm cảm và lo âu của học sinh, đặc biệt là với nữ
sinh. Vò thành niên ở trường nội thành có sức khỏe
tâm thần kém hơn so với học sinh ngoại thành. Có
thể có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này
chứ không chỉ là các yếu tố về gia đình và nhân
khẩu học như đã được kiểm soát trong mô hình phân
tích đa biến của nghiên cứu này. Để giải thích cho
mối liên quan của đòa bàn trường học với sức khỏe
tâm thần của học sinh chúng ta cần phải cân nhắc
nhiều yếu tố khác nữa, trong đó có sự khác biệt về
điều kiện kinh tế và xã hội giữa khu vực nội và
ngoại thành. Đặc biệt gần đây có ý kiến bàn luận
đặc biệt là trên phương tiện thông tin đại chúng về
một hiện tượng ở Việt Nam và một số nước trong
khu vực có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần
của trẻ, đó là (áp lực giáo dục-education pressure)
của cha/mẹ và nhà trường cùng bạn bè lên các em
học sinh [10]. Áp lực này có thể là nặng nề hơn ở
khu vực nội thành so với ngoại thành. Trong tương
lai các nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn để cung cấp
bằng chứng cho giả thuyết này và tác động của "áp
16 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2009, Số 13 (13)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
lực giáo dục" lên sức khỏe tâm thần của học sinh là
rất cần thiết.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi quỹ Ford trong dự
án "Nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu cho

trường Đại học Y tế Công cộng trong lónh vực khoa học
xã hội và sức khỏe sinh sản". Chúng tôi xin gửi lời cảm
ơn đến lãnh đạo trường Đại học Y tế Công Cộng và hai
trường Trung học cơ sở ở Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều
kiện và tham gia vào quá trình nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Trần Văn Cường (2002), Điều tra dòch tễ học lâm sàng
một số bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế xã hội
khác nhau của nước ta hiện nay (Báo cáo đề tài cấp Bộ).
2. Lê Thò Kim Dung (2007), Bước đầu tìm hiểu một số yếu
tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của học sinh ở một số
trường trung học cơ sở thuộc một số thành phố (Đề tài nghiên
cứu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2003-49-61).
3. Nguyễn Viết Thiêm (2002), Sức khỏe tâm thần cộng đồng
- Tài liệu đào tạo sau đại học., Đại học Y Hà Nội.
4. WHO (1998), Ủng hộ các chính phủ và các nhà hoạch đònh
chính sách (tài liệu dòch từ nguyên bản tiếng Anh).
Tiếng Anh
5. California Department of Education (2004), California
Healthy Kids Survey, California Safe and Healthy Kids
Program Office.
6. Cho, H., Hallfors, D. D., and Sanches, V., (2005),
"Evaluation of a High School Peer Group Intervention for
At-Risk Youth. " Journal of Abnormal Child Psychology,
33, No.3 (June 2005)pp. 363-374.
7. Forero R, M. L., Rissel C, Bauman A. (1999), " Bullying
behaviour and psychosocial health among school students in
New South Wales, Australia: cross sectional survey." British
Medical Journal, pp. 344-349.

8. Huong N. T., A. L. V., M. P. Dunne, (2006), "Validating
measures of depression and anxiety in a community-based
sample of adolescents." Vietnam Journal of Public Health.,
No. 7pp. 26-31.
9. McNeely, C. A., Nonnemaker, J. M. & Blum, R. W.
(2002), "Promoting school connectedness: evidence from
the National Longitudinal Study of Adolescent Health", J
Sch Health, 72(4), pp. 138-46.
10. Michaelson, R. (2004), Child Abuse in Viet Nam:
Summary report of the concept nature and extent of child
abuse in Viet Nam.
11. National Health Institute of USA (1999), "Depression".
12. National Statistics UK (2004), The health of Children
and Young People.
13. Palmer, S. B. (1998), "The role of risk for insecure early
attachment in explaining the behavioural adjustment of
foster children. " The Sciences and Engineering, 58(8-
B)(February 1998)pp. 4493.
14. Parker, G., Tupling, H., and Brown, L.B. (1979),
Parental Bonding Instrument
15. Patel, V., Araya, R., De Lima, M., Ludermir, A., &
Tood, C. (1999), "Women poverty and common mental
disorders in four restructuring societies." Social Science and
Medicine, 49pp. 1461-1471.
16. Radloff, L. S. (1977), "The CES-D Scale: A self-report
depression scale for research in the general population.
Applied Psychological Measurement 1977." 1(3)pp. 385-
401.
17. Rigby, K., Slee, P. T., Martin, G., (2007), "Implications
of inadequate paretal bonding and peer victimization for

adolescent mental health." Journal of Adolescence, 30pp.
801-812.
18. Spence, S., Najman, J., Bor, W., O'Callaghan, M., &
Williams, G., (2002), "Maternal anxiety and depression,
poverty and marital relationship factors during early
childhood as predictors of anxiety and depressive symptoms
in adolescence." Journal of Child psychology and
psychiatry, 43(4)pp. 457-469.
19. Tran T., P. L., & Harpham T., (2003), Young Lives
Premilinary Country Report: Viet Nam. An International
Study of Childhood Poverty.
20. Videon, T. M. (2002), "The Effects of Parent-
Adolescent Relationships and Parental Separation on
Adolescent Well-Being. " Journal of Marriage and Family,
64(May 2002)pp. 489-503.
21. WHO (2001), The World Health report 2001 - Mental
Health: New Understanding, New Hope.
22. WHO (2005), Mental Health policy and Service
Guidance Package - Child and Adolescent Mental Health
Policies and Plans. Nguồn:
/>Ado%20Mental%20Health_final.pdf (truy cập ngày
12/04/2007).

×