Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

tiến trình xây dựng thư viện điện tử tại trường đại học sư phạm kỹ thuật tp.hcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.53 MB, 92 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP.HCM
KHOA THƯ VIỆN – THÔNG TIN



NGUYỄN MẠNH THẮNG


TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: THƯ VIỆN – THÔNG TIN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TH.S TRẦN THỊ TRÀ VI

TP.HCM, THÁNG 6 NĂM 2013

Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động rất khó, đòi hỏi đầu tư nhiều về chất
xám, thời gian, công sức,… Nếu không có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ nhiều người thì
một cá nhân sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại khi nghiên cứu và khó có thể
nghiên cứu thành công. Trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài: “Tiến trình xây


dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM” tác
giả đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của quý Thầy/ Cô, Ban Lãnh
đạo Thư viện, gia đình và bạn bè. Tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu
sắc nhất đến:
1. Trường Đại Học Văn Hóa TP.HCM, Khoa Thư Viện – Thông Tin và quý
Thầy, Cô giảng viên của trường đã tạo điều kiện cho tác giả được học tập,
rèn luyện và lĩnh hội tri thức trong suốt thời gian tác giả theo học tại
trường.
2. Thạc sĩ Trần Thị Trà Vi – người hướng dẫn khoa học. Trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thiện nội dung đề tài, tác giả đã nhận được sự hướng
dẫn, chỉ dạy, tư vấn rất tận tình của cô.
3. Ban Lãnh đạo Thư viện và toàn thể cán bộ thư viện trường Đại Học Sư
Phạm Kỹ Thuật TP.HCM đã nhiệt tình cung cấp thông tin, số liệu về Thư
viện cho tác giả. Tác giả cũng chân thành cảm ơn sự hợp tác nhiệt tình của
người dùng tin Thư viện trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM đã
giúp đỡ tác giả hoàn thành cuộc điều tra xã hội học về nhu cầu khai thác
và sử dụng thư viện điện tử.
4. Gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ tinh thần và vật chất để tác
giả hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và kiến thức của tác giả về đề tài còn hạn chế
nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình
của Hội đồng chấm khóa luận, quý Thầy, Cô và tất cả mọi người quan tâm đến
đề tài này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, tháng 6 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Mạnh Thắng
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng



DANH MỤC CÁC TỪ/ CỤM TỪ VIẾT TẮT
AACR2 Anglo-American Cataloguing Rules, Second Edition
ALU

Arithmetic Logic Unit



Cao đ

ng

CU

Control Unit

CSDL

Cơ s


d


li

u

DDC



Dewey Decimal Classification

ĐH

Đ

i h

c

H.

Hà N

i

LAN

Local Area Network

LIBOL

Library
Online

MARC

Machine
-

Readable Cataloging

OPAC

Online Public Access Catalog

PDF

Portable

Document

Format

RAM

Random Access Memory

ROM

Read Only Memory

TC

Trung c

p

TP.


Thành ph


TP.HCM

Thành ph


H


Chí Minh

TS.

Ti
ế
n s
ĩ

VTLS

Visionary Technology
in Library Solutions

WAN

Wide Area Network




Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay, cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ và những thành tựu của
nó đang góp phần làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc mọi mặt của đời sống xã
hội, trở thành công cụ không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực hoạt động như: ứng
dụng trong công tác quản lý, nghiên cứu, hỗ trợ công tác chuyên môn và trao đổi
thông tin Đặc biệt, nó càng trở nên quan trọng đối với các ngành liên quan tới
tri thức, thông tin, tư liệu trong đó có hoạt động thư viện. Thư viện là một thiết
chế không thể thiếu trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, nhất
là trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, thời kỳ phát triển mạnh
của nền kinh tế tri thức. Công tác Thông Tin - Thư Viện có một tầm quan trọng
đặc biệt và ảnh hưởng sâu sắc tới lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Thư viện là nơi
cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho người đọc phát triển toàn diện, đặc biệt là
tư duy sáng tạo, góp phần giúp nhà trường hoàn thành sự nghiệp đào tạo nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học ở
nước ta đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp quản lý giáo dục rất quan
tâm. Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 - 2010 đã đề ra phương hướng: Cùng
hòa nhịp vào xu hướng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra sôi nổi khắp
nơi trên thế giới, việc đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta cần được xúc tiến
mạnh mẽ hơn nữa trên cơ sở những quan điểm đầy đủ và thống nhất về đổi mới
phương pháp dạy và học cũng như những giải pháp phù hợp, khả thi. Như vậy,
những định hướng lớn cho tương lai phát triển của ngành Giáo dục đã nhấn
mạnh đến đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập. Lối dạy mới tập trung vào
việc làm sao cho học trò hoạt động tư duy càng nhiều càng tốt, Thầy chỉ là người
tổ chức, trọng tài cho các nhóm làm việc, học sinh tranh luận chất vấn nhau, nếu

Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

có điểm tranh cãi chưa ngã ngũ thì Thầy giáo sẽ là người giúp học sinh giải
quyết. Đó là kiểu dạy lấy người dạy làm trung tâm, kiểu học lấy việc tự học có
hướng dẫn làm chính.
Muốn "dạy thật, học thật" phải có sự thay đổi mang tính hệ thống từ các
cấp quản lý Giáo dục, đội ngũ giáo viên và học sinh - trong đó cần thiết phải xây
dựng các thư viện trở thành "Giảng đường thứ hai" của mỗi nhà trường. Để đáp
ứng nhu cầu đổi mới Giáo dục - hình thành tri thức đời thường cho toàn thể mọi
người, hệ thống thư viện nói chung và thư viện các trường Đại học nói riêng phải
được đầu tư phát triển để tạo môi trường cho mọi người tự học, học từ xa, học
liên tục, học suốt đời. Thư viện Đại học phải là trung tâm chuyển giao tri thức
bằng công nghệ thông tin. Đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển ngành Thư
viện trong cả nước.
Cán bộ Thông tin Thư viện không chỉ là người giữ sách, không chỉ là
người trông coi thiết bị thư viện, mà phải là những cán bộ có chuyên ngành, có
bản lĩnh và đủ lương tâm để trở thành những trợ giảng đắc lực cho giáo viên và
là người định hướng cho học sinh, sinh viên trong việc tìm thông tin. Phải đưa
các thư viện vào hoạt động phục vụ theo mô hình thư viện mở, thư viện thân
thiện, lấy người học làm trung tâm, định hướng hội nhập thư viện trường học
khu vực và quốc tế. Thư viện điện tử đang là hình mẫu phát triển của các thư
viện trên thế giới hiện nay nhằm tiếp nhận những thời cơ và đáp ứng những
thách thức từ xu thế phát triển của thời đại – xu thế hình thành một xã hội thông
tin toàn cầu. Vấn đề xây dựng thư viện điện tử ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà
nước chỉ đạo thực hiện. Nhiều cơ quan Thư viện – Thông tin nước ta đang xúc
tiến cho việc thực hiện này. Thư viện điện tử làm thay đổi phương thức hoạt
động nghiệp vụ cũng như công tác phục vụ bạn đọc trong các cơ quan Thư viện -
Thông tin. Thư viện điện tử, có khả năng phục vụ đa dạng, chia sẻ thông tin rộng
khắp cả về không gian và thời gian, không hạn chế đối tượng, số lượng và khối
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng


lượng phục vụ, phương thức khai thác thông tin nhanh chóng, thuận lợi, phù hợp
cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau, rút ngắn quá trình tìm kiếm, cung cấp
thông tin một cách thuận tiện và đạt hiệu quả cao nhất.
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM là trường đầu ngành trong
hệ thống Sư phạm Kỹ thuật Việt Nam, tiếp cận, áp dụng những phương pháp và
phương tiện giảng dạy mới. Trường đào tạo và bồi dưỡng những nhà giáo trong
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp có lý thuyết vững, kỹ năng thực hành cao, nghiệp
vụ sư phạm giỏi; cung cấp nguồn nhân lực có kỹ năng thực hành tốt, phù hợp với
thực tế sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Là một thiết chế văn hóa giáo dục của nhà trường, Thư viện trường Đại
Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM có chức năng phục vụ hoạt động giảng dạy,
học tập, đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ và quản lý của nhà trường thông qua việc sử dụng, khai thác các loại
hình tài liệu có sẵn. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua, Thư viện
trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM đã từng bước hiện đại hóa để
không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng phục vụ tất cả các đối
tượng người dùng tin. Đặc biệt là Thư viện đang tiến hành xây dựng thư viện
điện tử để đáp ứng tối đa nhu cầu người dùng tin và yêu cầu đào tạo theo tín chỉ
của nhà trường. Sau một thời gian xây dựng, Thư viện đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng thư viện điện tử, cán bộ thư
viện đã gặp không ít khó khăn và trở ngại. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến tiến
trình xây dựng và chất lượng các hoạt động của Thư viện. Đó là lí do tác giả
chọn đề tài: “Tiến trình xây dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư
Phạm Kỹ Thuật TP.HCM” để nghiên cứu nhằm khảo sát về thực trạng tiến
trình xây dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật
TP.HCM, từ đó đưa ra những giải pháp để phát triển thư viện điện tử đáp ứng
chiến lược đào tạo của trường trong tương lai.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng


2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Từ trước đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về thư viện điện tử
như:
1. Xây dựng và phát triển Thư viện điện tử trường Đại học Duy Tân:
khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Thư viện Thông tin trường Đại học Văn Hóa
TP.HCM/ Nguyễn Thị Hảo TP.HCM: Đại học Văn Hóa TP.HCM, 2011 74tr.;
27cm
Đánh giá thực trạng các hoạt động và tình hình ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác Thông tin - Thư viện của Thư viện trường Đại học Duy
Tân. Từ đó đưa ra các giải pháp xây dựng và phát triển Thư viện điện tử trường
Đại học Duy Tân nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu học tập, nghiên cứu của cán bộ,
giảng viên và sinh viên nhà trường.
2. Xây dựng Thư viện điện tử tại trường Chính trị tỉnh Bình Phước:
khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Thư viện Thông tin trường Đại học Văn Hóa
TP.HCM/ Đàm Thị Kim Hương TP.HCM: Đại học Văn Hóa TP.HCM, 2009
58tr.; 27cm
Nghiên cứu những vấn đề chung về thư viện điện tử, đánh giá những
thuận lợi và khó khăn khi xây dựng Thư viện điện tử tại trường Chính trị tỉnh
Bình Phước. Từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng Thư viện điện tử trường
Chính trị tỉnh Bình Phước.
3. Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin điện tử tại Thư viện
Quân Đội: khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Thư viện Thông tin trường Đại
học Văn Hóa Hà Nội/ Mạc Thùy Dương H.: Đại học Văn Hóa Hà Nội, 2003
99tr.; 27cm
Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của Thư viện Quân Đội, đối tượng phục
vụ và nhu cầu thông tin của bạn đọc trong lĩnh vực thông tin khoa học. Khảo sát
và phân tích thực trạng của việc xây dựng và khai thác các nguồn lực thông tin
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

điện tử tại Thư viện Quân Đội. Từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp

nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác hiệu quả các nguồn lực thông
tin điện tử của Thư viện Quân Đội.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó không đề cập đến vấn đề:
“Tiến trình xây dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư Phạm
Kỹ Thuật TP.HCM”.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tiến trình xây dựng thư viện điện tử
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phạm vi không gian: Thư viện trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 - nay.
5. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Khảo sát tiến trình xây dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư Phạm
Kỹ Thuật TP.HCM
- Đánh giá những kết quả đạt được sau một thời gian triển khai dự án xây
dựng Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM
- Đưa ra giải pháp để phát triển Thư viện điện tử tại trường Đại Học Sư
Phạm Kỹ Thuật TP.HCM.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp số liệu

Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng


7. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa

luận chia làm 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG THƯ VIỆN
ĐIỆN TỬ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM

















Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ

1. Các khái niệm liên quan đến thư viện điện tử
1.1 Tài liệu điện tử

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
và nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong thực tiễn đã sản sinh ra một loại
hình tài liệu mới. Đó là tài liệu điện tử.
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về tài liệu điện tử, như:“Tài
liệu điện tử là tài liệu được tạo lập ở dạng thông điệp dữ liệu hình thành trong
quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc được số hóa từ tài liệu
trên các vật mang tin khác.” [10, tr.87]
“Tài liệu điện tử là vật mang tin được tạo lập ở dạng mà thông tin trong
đó được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện hoạt
động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không
dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự hình thành trong quá trình
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc là vật mang tin mà thông tin trong
đó được tạo lập bằng việc biến đổi các loại hình thông tin trên các vật mang tin
khác sang thông tin số.” [10, tr.87]
“Tài liệu điện tử là một thành phần cơ bản của thư viện điện tử. Tài liệu
điện tử bao gồm các tài liệu thông tin và các cơ sở dữ liệu được xuất hiện trên
màn hình máy tính, cho phép người dùng tin có thể truy cập và sử dụng các
nguồn thông tin và tài liệu từ màn hình máy tính thông qua các mạng máy tính.”
[1, tr.81]
Đặc điểm của tài liệu điện tử: thông tin của tài liệu điện tử được trình
bày dưới dạng “điện tử - số” và kết quả là chúng ta chỉ có thể cảm nhận được nó
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

nhờ sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật và chương trình tương thích. Mặc
dù vậy, tài liệu điện tử đang thực hiện chính các chức năng và có giá trị đích thực
như tài liệu truyền thống.
Đặc trưng của tài liệu điện tử là: tính nguyên vẹn logic. Cấu trúc thực
thể (vật lý) của một tài liệu điện tử không hề hiện diện và thường rất xa lạ với
người dùng tin. Bởi vì, tài liệu điện tử không phụ thuộc vào bất kỳ sự ghi tin vật
lý cụ thể nào. Khi mà cấu trúc vật lý của một tài liệu điện tử thay đổi và không

hề hiện hữu thì nó không thể có cùng một vai trò như tài liệu truyền thống. Vì
vậy, cần phải có một cấu trúc logic để có thể nhận diện hoặc phân biệt ranh giới
từng tài liệu và trình diễn các phần tử cấu trúc nội tại. Cấu trúc logic như vậy của
một tài liệu điện tử thường là cấu trúc mà người tạo lập tài liệu tạo ra trên màn
hình máy tính. Để có thể được coi là hoàn chỉnh và xác thực thì tài liệu, bằng
cách nào đó, phải giữ được cấu trúc đó và hệ thống máy tính phải tái tạo được
cấu trúc đó khi chuyển đổi tài liệu trở lại dạng mà con người có thể đọc được.
Cấu trúc logic của một tài liệu điện tử được biểu diễn và được lưu lại dưới dạng
các ký hiệu hay dữ liệu (ký tự thập phân). Chính vì vậy, dấu hiệu nguyên vẹn
logic phải được chú ý khi nhận dạng tài liệu điện tử trong những trường hợp với
các cơ sở dữ liệu, với các tài liệu kiểu siêu văn bản, bảng biểu, đa phương tiện.
Ưu điểm của việc sử dụng tài liệu điện tử:
 Vào bất cứ thời gian nào, ở bất cứ nơi đâu, tất cả mọi người đều có
thể tiếp cận được tài liệu điện tử thông qua hệ thống mạng máy tính;
 Dễ dàng thực hiện, kiểm tra sự tiếp cận và đưa vào những thông tin
sửa đổi;
 Thông tin được phát tán nhanh chóng và hiệu quả, tạo điều kiện dễ
dàng khi kiểm tra các bản in hay bản sao tài liệu bằng giấy;
 Hạn chế rào cản về không gian và thời gian khi người dùng tin tiếp
cận, khai thác tài liệu, thông tin;
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

 Có thể loại bỏ các tài liệu đã hết hạn sử dụng một cách đơn giản và
hiệu quả;
 Có khả năng chia sẻ thông tin: Nguồn tin điện tử cho phép nhiều
người sử dụng cùng một tài liệu trong cùng một thời điểm;
 Sử dụng tài liệu điện tử mang lại sự bình đẳng, công bằng trong việc
tiếp cận thông tin của người dùng tin;
 Thông tin có trong tài liệu điện tử luôn được cập nhật (up to date)
nhanh chóng và tức thời;

 Tài liệu điện tử tạo điều kiện cho người dùng tin có khả năng, cơ
hội liên hệ, tiếp cận, trao đổi với tác giả của tài liệu, tạo ra một kênh thông
tin phản hồi giữa người dùng tin và người sáng tạo ra thông tin;
 Có khả năng mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi tìm kiếm: Người dùng
tin có thể tra tìm tài liệu điện tử theo nhiều dấu hiệu, phương pháp, chiến
lược, toán tử,… khác nhau (khả năng đa truy cập), giúp mở rộng hoặc thu
hẹp phạm vi tìm kiếm, rút ngắn thời gian, công sức tra cứu của người dùng
tin nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác và hiệu quả;
 …
1.2 Tự động hóa thư viện
“Tự động hóa thư viện là việc ứng dụng công nghệ thông tin – tri thức vào
các hoạt động và dịch vụ của thư viện. Các chức năng có thể được tự động hóa
là bất kỳ hay tất cả các chức năng sau: bổ sung, biên mục, truy cập công cộng
(OPAC và WebPAC), đánh chỉ mục và tóm tắt, lưu thông, quản lý các ấn phẩm
liên tục, và dịch vụ tham khảo.” [14, tr.17]
Hay: “Tự động hóa thư viện là quá trình ứng dụng công nghệ máy tính và
công nghệ viễn thông trong mọi hoạt động của thư viện.” [1, tr.81]
Những ưu điểm của một hệ thống thư viện tự động hóa:
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

• Không có sự trùng lắp các biểu ghi vì cơ sở dữ liệu thư mục có thể được
hiển thị trước khi các biểu ghi mới được nhập vào;
• Các sai sót được giảm thiểu vì biểu ghi được nhập vào chỉ một lần;
• Nhân viên thư viện và bạn đọc có thể xem tình trạng của tài liệu từ
OPAC hoặc WebPAC;
• Nhân viên thư viện sử dụng cùng tập tin chủ cho biên mục, lưu thông,
truy cập mục lục trực tuyến và các dịch vụ khác khi cần.
Các thư viện tự động hóa theo phương thức và quy mô khác nhau
nhưng đồng bộ trong nghiệp vụ. Sử dụng mã vạch (bar code) trong khâu quản lý;
sử dụng MARC format và subject headings trong biên mục (cataloging). Tổ chức

online catalog.
Ngày nay, vai trò của các thư viện trường Đại học và các Hiệp hội Thư
viện rất quan trọng trong việc đồng nhất hóa công tác nghiệp vụ nói chung và
đồng bộ hóa công tác tự động hóa thư viện nói riêng.
1.3 Phần mềm quản trị thư viện điện tử
“Phần mềm thư viện thực chất là một qui trình nghiệp vụ thư viện đã được
tin học hoá ở mức độ tự động nhằm giúp cho các hoạt động của thư viện trở nên
thân thiện, nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả. Hay nói một cách khác: phần
mềm thư viện là mô phóng quá trình nghiệp vụ thư viện của một thư viện truyền
thống nhưng đã được nâng lên mức độ tự động nhờ ứng dụng các thành tựu của
công nghệ thông tin.”[13, tr.83]
Phần mềm thư viện là một hệ thống các phần mềm (các Modulle) mà
trong mỗi một Modulle thực hiện một chức năng hoạt động nghiệp vụ của một
thư viện truyền thống. Tuy nhiên, điểm khác biệt của phần mềm thư viện so với
thư viện truyền thống là ở chỗ các Modulle trong phần mềm thư viện có nhiệm
vụ thực hiện các chức năng riêng của mình nhưng các Modulle lại có sự liên kết
logic chặt chẽ với nhau, chia sẻ tài nguyên cho nhau trong một hệ thống hoàn
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

chỉnh. Điều này được kiểm chứng khi một tài liệu mới được nhập vào thư viện,
sau khi đã biên mục xong và được cán bộ nghiệp vụ cho phép lưu thông thì bạn
đọc đã có thể tra cứu và mượn đọc được ngay. Một kiểm chứng khác khi cuốn tài
liệu đã được đưa vào lưu thông thì tất cả các thông tin về cuốn tài liệu đó như:
Nhan đề; Tác giả; Năm xuất bản; Số trang; Số xếp giá;…sẽ đồng thời được sử
dụng trong các Modulle Mượn trả, Modulle quản lý Kho, OPAC,… Các thông
tin đó cũng được kết xuất ra trong các báo cáo dưới dạng Excel; Word hay Html.
Chính vì những ưu điểm đặc biệt này mà những nhà cung cấp còn gọi phần mềm
thư viện là phần mềm thư viện tích hợp. “Hệ quản trị thư viện tích hợp là phần
mềm có khả năng thực hiện toàn diện các chức năng quản lý thư viện, bao gồm:
theo dõi việc bổ sung tài liệu, biên mục tự động, tìm tin tự động hay từ xa, quản

lý bạn đọc, quản lý lưu thông tài liệu, quản lý kho, trao đổi thông tin thư mục với
các đơn vị khác.” [11, tr.86]
Hiện nay, các thư viện của Việt Nam đang dùng một số phần mềm thư viện mà
chủ yếu là của các công ty trong nước xây dựng và phát triển. Các phần mềm thư
viện này đều là những phần mềm thư viện thương mại có bản quyền như phần
mềm thư viện ILIB của CMC; LIBOL của Tinh Vân; Vebrary của Lạc Việt;
VnLib của VnEworld… Một số thư viện lớn có khả năng tài chính thì đang dùng
phần mềm VTLS - đây là phần mềm thư viện của nước ngoài đã được Việt hóa.
1.4 Thư viện điện tử (electronic library)
Việc sử dụng máy tính điện tử, sự kết nối các máy tính thành mạng trong
hoạt động thông tin thư viện trên thế giới đã dẫn đến sự xuất hiện các loại thư
viện mới, hiện đại như: thư viện điện tử, thư viện đa phương tiện, thư viện số,
thư viện ảo.
Thư viện điện tử là một khái niệm chưa có định nghĩa thống nhất và
thường dùng lẫn lộn với các khái niệm như: “thư viện số”, “thư viện đa phương
tiện”, “thư viện ảo”,…
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về thư viện điện tử như:
Thư viện điện tử là công cụ và mạng cung cấp dịch vụ thông tin và thông
tin tư liệu lưu trữ những địa điểm khác nhau bằng hình thức điện tử.
Thư viện điện tử là một kho thông tin số hóa, được cấu trúc sao cho dễ dàng truy
cập thông qua các mạng máy tính hay các mạng Viễn thông quốc tế.
Theo Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam: “Thư viện điện tử là thư viện có
các quá trình cơ bản về nghiệp vụ dựa trên cơ sở máy tính và các phương tiện hỗ
trợ khác. Dấu hiệu đặc trưng của thư viện điện tử là sử dụng phổ biến các
phương tiện điện tử trong lưu giữ, tìm kiếm và cung cấp thông tin. Tuy nhiên,
trong thư viện điện tử, sách truyền thống vẫn tiếp tục tồn tại cùng với các ấn
phẩm điện tử nên vẫn cần sự trợ giúp của cán bộ thư viện trong mọi hoạt động
chuyên môn.”

Theo TS. Đoàn Phan Tân: “Thư viện điện tử là một hệ thống thông tin tự
động hóa mà ở đó người ta có thể thu thập, xử lý, lưu trữ, tìm kiếm và phổ biến
các tài liệu dưới dạng số hóa thông qua các phương tiện của công nghệ thông
tin và truyền thông” [2, tr.81]
Theo TS. Bùi Loan Thùy, và TS. Lê Văn Viết: “Thư viện điện tử là thư
viện có vốn tài liệu dưới dạng điện tử (các CSDL, đĩa quang CD-ROM, các
nguồn online), là nơi sử dụng máy tính và công nghệ thông tin vào hầu hết các
hoạt động thông tin thư viện, nơi cung cấp các dịch vụ điện tử và các xuất bản
phẩm điện tử đối với người dùng tin.” [1, tr.81]
Thư viện điện tử được định nghĩa là “một môi trường gồm các tài liệu
dưới dạng điện tử, được cấu trúc nhằm cung cấp một số lượng lớn thông tin
thông qua các mạng máy tính hoặc các mạng viễn thông quốc tế.” [1, tr.81]
Một số đặc trưng của thư viện điện tử:
 Kho tài liệu số hoá của thư viện điện tử là các tập hợp nguồn tin số hoá có
lựa chọn và được quản lý;
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

 Về mặt kết cấu: thư viện điện tử được xác lập như là một “Sơ đồ” trên
màn hình để cung cấp cho người dùng tin cách thức tiếp cận đến các
nguồn tin số hoá của thư viện một cách lâu dài và có tổ chức;
 Thư viện điện tử được quản lý bởi một hệ quản trị thư viện tích hợp;
 Phải được kết nối mạng: mạng cục bộ và Wifi;
 Cung cấp và tạo điều kiện cho người dùng tin sử dụng các dịch vụ điện tử
như: yêu cầu gia hạn mượn qua mạng, tìm tin trong các cơ sở dữ liệu, truy
nhập và khai thác các nguồn tin tại chỗ và với tới các nguồn tin ở nơi
khác…
Nói tóm lại, thư viện điện tử là tập hợp các ấn phẩm thông tin, các cơ sở
dữ liệu, các sản phẩm điện tử khác nhau được liên kết bởi một hệ thống catalog
điện tử chung, hoạt động trên cơ sở các phương tiện kỹ thuật và công nghệ, đảm
bảo việc truy cập tới các nguồn tài nguyên thông tin này cho mọi người dùng tin.

Có thể nói không ai có thể phủ nhận chức năng, nhiệm vụ của các thư viện
truyền thống trong việc góp phần to lớn cho công tác giáo dục và đào tạo, nghiên
cứu khoa học của nhà trường cũng như ngoài xã hội, nhưng để tiếp tục phát huy
hiệu quả hơn nữa cho hoạt động này thì cần thiết phải hiện đại hóa hoạt động thư
viện – thông tin nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
1.5 Thư viện đa phương tiện (multimedia)
“Thư viện đa phương tiện là thư viện lưu trữ và khai thác, sử dụng tất cả
các vật mang tin truyền thống và hiện đại: sách, báo, băng từ, video, đĩa
Compact, CD-ROM, vi phim, phần mềm máy tính,…” [1, tr.81]
Về cơ bản việc quản lý và tổ chức thư viện đa phương tiện giống thư viện
truyền thống. Trong thư viện này sử dụng máy tính và nhiều loại máy móc khác.
Mặc dù các hoạt động chính của công tác thư viện đã được tự động hóa nhưng
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

việc tra cứu tìm tin phục vụ bạn đọc vẫn tiến hành theo phương pháp thủ công
cùng với các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Trong thư viện đa phương tiện có thể thành lập trung tâm thông tin hoặc
bộ phận thông tin. Trung tâm này làm nhiệm vụ thu thập một cách linh hoạt
thông tin về các lĩnh vực tri thức khác nhau từ các nguồn lực thông tin khác nhau
và phân bố chúng trên các trang Web – Server của mình.
1.6 Thư viện số (digital library)
“Thư viện số là thư viện chứa đựng các thông tin và tri thức được lưu trữ
dưới dạng điện tử số trên các phương tiện khác nhau: bộ nhớ điện tử, đĩa quang,
đĩa từ. Như vậy tại thư viện số không thể tìm thấy bất kỳ một cuốn truyền thống
nào nhưng lại tìm thấy đủ các dạng tài liệu số hóa bao gồm cả dữ liệu dạng text,
tranh ảnh, âm thanh, phim.” [1, tr.81]
Việc tiếp cận đối với thông tin số phải thông qua một máy đọc đa phương
tiện, thông tin được tiếp cận từ xa qua Modem hoặc mạng truyền thông tự động.
Điểm mạnh nhất của thư viện số là có thể tiếp cận thông tin dễ dàng, nhanh

chóng với giá rẻ và có khả năng cung cấp một số lượng không hạn chế các bản
sao với một nút bấm.
Theo Liên Hiệp Thư Viện Số Hoa Kỳ:“Thư viện số là các cơ quan/ tổ
chức có các nguồn lực kể cả các nguồn lực chuyên hóa, để lựa chọn, cấu trúc,
cung cấp việc truy cập đến, diễn giải, phổ biến, bảo quản sự vẹn toàn, đảm bảo
sự ổn định trong thời gian dài của sưu tập các công trình số hóa mà chúng ở
dạng sẵn sàng để sử dụng một cách kinh tế cho một hoặc một số cộng đồng nhất
định.” [1, tr.81]
Các đặc tính của thư viện số:
 Là các cơ quan/ tổ chức thực sự chứ không phải là ảo trên mạng.
 Tập hợp, lưu trữ các sưu tập tài liệu số bao gồm cả các tư liệu tồn tại
bên ngoài biên giới vật lý và hành chính của thư viện.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

 Tài liệu số dễ bị thay đổi, dễ bị thay thế và bị mất. Công tác bảo quản
tài liệu số tiến hành trong điều kiện môi trường điện tử phân tán và sự thay
đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin nên rất phức tạp và khó khăn.
 Cung cấp các dịch vụ truy cập đến tài liệu số không phụ thuộc vào loại
hình và khổ mẫu của chúng.
 Các hoạt động của thư viện số phụ thuộc hoàn toàn vào máy tính và hệ
thống mạng. Phục vụ bạn đọc khai thác thư viện thông qua mạng máy
tính.
 Đòi hỏi cán bộ thư viện có kỹ năng cao về tin học và hệ thống.
1.7 Thư viện ảo (virtual library)
Theo các chuyên gia Nga – Mỹ thì thư viện ảo là một tập hợp các nguồn
lực thông tin mà việc tiếp cận với nó phải thông qua mạng máy tính toàn cầu.
Nhiệm vụ của các thư viện ảo là đảm bảo việc tiếp cận tới dữ liệu thuộc
bất cứ loại hình nào thông qua các giao diện hai chiều hay ba chiều cùng với các
thiết bị ngoại vi.
Vốn tài liệu của thư viện ảo đều được lưu trữ trong các bộ nhớ của máy

tính. Cán bộ thư viện trong thư viện ảo sẽ đóng vai trò chính trong việc tạo lập
và quản lý, chủ yếu là mô tả, làm tóm tắt và tìm tài liệu ảo.
Hệ thống thư viện ảo dựa trên công nghệ hiện thực ảo mà dạng đơn giản
nhất của nó là gặp mặt từ xa. Như vậy, thư viện ảo đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng
thông tin quốc gia mạnh và các thư viện muốn trở thành thành viên của thư viện
ảo phải được hiện đại hóa theo chuẩn quốc tế.
2. Những thành phần cơ bản của thư viện điện tử
2.1 Nguồn lực thông tin điện tử
Nguồn lực thông tin thể hiện tiềm lực và sức mạnh của mỗi thư viện.
Nguồn lực thông tin điện tử càng phong phú, đa dạng thì khả năng đáp ứng nhu
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

cầu thông tin của người dùng tin càng lớn và thư viện càng có sức hút trong thị
trường tin học hóa tư liệu. Nếu một thư viện, cơ quan thông tin có cơ sở vật chất,
hạ tầng công nghệ thông tin và phần mềm quản trị thư viện tốt, hiện đại nhưng
nội dung nguồn lực thông tin điện tử thiếu phong phú, không đảm bảo chất
lượng thì sẽ không thu hút, không đáp ứng được nhu cầu của người dùng tin,
không thu được phí dịch vụ để tái đầu tư cho hệ thống,…Hiện nay, để đáp ứng
được nhu cầu ngày càng đa dạng, phức tạp của người dùng tin, các thư viện, cơ
quan thông tin luôn cố gắng xây dựng, tổ chức nguồn lực thông tin điện tử trong
thư viện ngày càng phong phú, đa dạng, đảm bảo khả năng truy cập, tra cứu, khai
thác thông tin một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả.
“Nguồn lực thông tin điện tử bao gồm các tài liệu như sách điện tử, báo
điện tử, tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu và các phần mềm, các chương trình chạy
trên máy tính, các trang web,…tức là tất cả những gì có thể đọc được, truy cập
được thông qua máy tính hay mạng máy tính điện tử.” [20, tr.84]
Hay: “Nguồn lực thông tin điện tử là tất cả các loại tài liệu được số hóa, được
quét bằng các phương tiện điện tử và được tìm kiếm, khai thác, sử dụng một
cách dễ dàng dưới các dạng thức thông dụng như PDF, HTML, TXT.” [2, tr.84]
Tài liệu điện tử là một thành phần cơ bản của nguồn lực thông tin thư viện

điện tử. Tài liệu điện tử bao gồm các tài liệu thông tin và các cơ sở dữ liệu được
xuất hiện trên màn hình máy tính, cho phép người dùng tin có thể truy cập và sử
dụng các nguồn thông tin và tài liệu từ màn hình máy tính thông qua các mạng
máy tính.
Các nguồn tài liệu điện tử bao gồm:
 Báo, tạp chí điện tử: Báo, tạp chí điện tử được ấn hành trên mạng
Internet, thư viện có thể đặt mua như báo, tạp chí in và sẽ được cấp quyền
login vào để truy cập nội dung.
 Văn bản điện tử (sách, tài liệu, chính văn dưới dạng điện tử)
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

 Tài liệu tra cứu, tham khảo điện tử (bách khoa toàn thư, từ điển, sách
hướng dẫn,…)
 Các cơ sở dữ liệu, CD-ROM và băng từ: CD-ROM thường chứa
những cơ sở dữ liệu chuyên ngành được phục vụ riêng lẻ hay trên mạng
máy tính
 Tài liệu online: có rất nhiều trên mạng Internet do những trường Đại
học, cơ sở thông tin và công ty tư nhân xây dựng,…
 Nguồn Internet
 Các nguồn thư mục điện tử, mục lục các cơ sở dữ liệu, các cơ sở dữ
liệu theo chủ đề và tra cứu thông tin
 Các nguồn hướng dẫn tra cứu, truy cập tài liệu điện tử
 Thông tin trên các trang Web Server (ở dạng trang gốc)
 Các phần mềm máy tính, phần mềm hệ thống, phần mềm tiện ích,
phần mềm ứng dụng,…
 Các tài liệu điện tử khác: multimedia, OPAC, cơ sở dữ liệu thương
mại,…
Nguồn lực thông tin điện tử ứng dụng những thành tựu công nghệ thông
tin giúp cho các thư viện, cơ quan thông tin đưa ra những sản phẩm, dịch vụ và
phương pháp quản trị thông tin hữu hiệu. Đồng thời tạo ra những cơ hội khó

tưởng tượng được cho việc truy cập thông tin và chia sẻ nguồn lực thông tin, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thư viện điện tử hay thư viện số.
2.2 Cơ sở hạ tầng thông tin
Cơ sở hạ tầng thông tin là thành phần cơ bản cấu thành hệ thống thư viện
điện tử. Một thư viện có cơ sở hạ tầng thông tin tốt, các trang thiết bị hiện đại sẽ
giúp cán bộ thư viện hoàn thành công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả,
khuyến khích sự sáng tạo, cống hiến trong công việc; cung cấp cho người dùng
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

tin những dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của họ, tạo uy tín đối
với người dùng tin và xã hội.
Hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm hai phần: phần cứng và phần mềm.
Phần cứng (Hardware)
Thuật ngữ phần cứng chỉ các thành phần vật lý của máy tính như: con chuột, bàn
phím, màn hình,…
Sơ đồ tổng quát của phần cứng máy tính:

 Khối nhập có thể là: bàn phím, chuột, microphone, máy quét,…
 Khối xuất: màn hình, loa, máy in, máy fax,…
 Khối lưu trữ (còn gọi là bộ nhớ) có 2 loại:
o Bộ nhớ trong: Rom (bộ nhớ chỉ đọc) và Ram (bộ nhớ truy cập
ngẫu nhiên, có thể đọc, ghi)
o Bộ nhớ ngoài: đĩa cứng, đĩa CD, DVD,…
 Khối xử lý: thành phần chính của khối xử lý là CPU (central
processing unit).
INPUT UNIT
(KHỐI NHẬP)
PROCESSING UNIT
(KHỐI XỬ LÝ)
STORAGE UNIT

(KHỐI LƯU TRỮ)
OUTPUT UNIT
(KHỐI XUẤT)
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

CPU có 2 phần: CU có chức năng điều khiển, điều phối toàn bộ hoạt động
của máy tính và ALU có chức năng thực hiện các phép tính số học và
logic.
Nguyên tắc hoạt động: nhiệm vụ của máy tính là xử lý thông tin, khối
nhập có nhiệm vụ đưa thông tin cần xử lý vào cho khối xử lý. Khối xử lý tác
động lên thông tin cần xử lý, trong quá trình đó có thể sinh ra những kết quả
trung gian, những kết quả này được đưa vào khối lưu trữ, nếu cần thì bộ xử lý có
thể lấy kết quả này từ khối lưu trữ để xử lý tiếp, sau khi xử lý xong, kết quả cuối
cùng có thể được đưa ra khối xuất để quan sát, đánh giá,…hoặc lại được đưa vào
khối lưu trữ để cất giữ.
Trong hoạt động thư viện, phần cứng là tất cả các thiết bị máy móc phục
vụ cho hệ thống thông tin tự động hóa của thư viện. Bao gồm:
 Hệ thống máy chủ và máy trạm: máy chủ quản trị mạng; máy
chủ cơ sở dữ liệu; máy chủ email; proxy; máy trạm làm việc cập
nhật, khai thác thông tin như: máy trạm tra cứu thông tin, máy trạm
phục vụ,…
 Các thiết bị hỗ trợ an toàn thông tin
 Các thiết bị ngoại vi
 Thiết bị hỗ trợ chuyên dụng cho thư viện điện tử
 Mạng máy tính (computer network): là một hệ thống gồm nhiều
máy tính và các thiết bị ngoại vi được kết nối với nhau để chia sẻ tài
nguyên, dữ liệu.
+ Phân loại mạng máy tính: phân loại theo quy mô có 2 loại: mạng
WAN (mạng diện rộng) và mạng LAN (mạng cục bộ).
+ Ngoài ra còn có mạng Internet: mạng Internet được công bố chính

thức vào năm 1995 và là mạng máy tính lớn nhất thế giới. Đây là
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

một hệ thống gồm các mạng thông tin máy tính được liên kết với
nhau trên phạm vi toàn thế giới theo giao thức TCP/IP thông qua
các hệ thống kênh truyền thông.
Phần mềm (Software)
Phần mềm gồm những loại sau:
 Hệ điều hành (operating system)
“Hệ điều hành là một chương trình đặc biệt được nạp tự động khi
khởi động máy tính có chức năng điều khiển và quản lý máy chạy, làm nhiệm vụ
trung gian ghép nối giữa máy tính và người sử dụng, cung cấp các phương tiện
giúp người sử dụng tác động đến phần cứng, thực hiện các chương trình đã đưa
vào máy.” [4, tr.81]
Phân loại hệ điều hành: 03 loại
- Hệ điều hành đơn chương: là hệ điều hành tại một thời điểm chỉ
điều khiển một chương trình. Ví dụ: hệ điều hành PC-DOS, MS-DOS,…
- Hệ điều hành đa chương: là hệ điều hành có thể điều khiển nhiều
chương trình cùng một lúc như: hệ điều hành OS/2, LINUX, WINDOWS,…
- Hệ điều hành mạng: là hệ điều hành quản lý mạng máy tính như:
UNIX, WINDOWS NT, …
 Các ngôn ngữ lập trình: các ngôn ngữ lập trình phổ biến hiện nay là:
PASCAL, C, C
++
, JAVA,…
 Phần mềm ứng dụng:
Phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu: WINWORD, EXCEL, ACCESS, NC,…
Hiện nay, ở Việt Nam có một số phần mềm tiêu biểu được ứng dụng tại
các thư viện, trung tâm thông tin như: phần mềm ILIB của CMC; LIBOL của
Tinh Vân; Vebrary của Lạc Việt; VnLib của VnEworld,…

Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng

2.3 Cán bộ thư viện điện tử
Cán bộ thư viện được xem như là “linh hồn của thư viện”, là “hoa tiêu trên
đại dương tri thức”. Cán bộ thư viện không chỉ là cầu nối giữa tài liệu và người
dùng tin mà còn là cầu nối giữa tài liệu với tài liệu, giữa tài liệu với cơ sở vật
chất và cầu nối cơ sở vật chất với người dùng tin.
Sự phát triển của công nghệ thông tin, xã hội thông tin đòi hỏi người cán
bộ thư viện ngày nay phải có những hiểu biết, kỹ năng mới so với môi trường
thư viện truyền thống. Cán bộ Thông tin - Thư viện điện tử phải là những chuyên
gia trong lĩnh vực quản lý Thông tin - Tư liệu, quản lý tri thức với các kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng và trình độ tin học, ngoại ngữ đủ để đảm
đương công việc.
Để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng và phức tạp của
người dùng tin, cán bộ thư viện phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản của một
người cán bộ thư viện điện tử như:
Về phẩm chất:
Ngoài những phẩm chất cơ bản của một người cán bộ thư viện làm việc
trong môi trường thư viện truyền thống cần có như: có tinh thần trách nhiệm,
lòng yêu nghề, có tính kỷ luật cao, hòa đồng, thân thiện với mọi người, có khả
năng làm việc theo nhóm,…Người cán bộ thư viện điện tử cần có thêm những
phẩm chất như sau: năng động, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt, có hoài bão, có khả
năng tự học tập và nghiên cứu. Có khả năng quản lý các cơ quan thông tin, thư
viện đặc biệt là về vấn đề kinh tế và công nghệ. Có năng lực đánh giá và khả
năng tổ chức lao động khoa học.
Về kiến thức:
Có tầm hiểu biết rộng; có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc; am
hiểu về lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là về vấn đề quản trị mạng. Trước
hết, người cán bộ thư viện sau khi tốt nghiệp từ các trường Đại học thư viện phải
Khóa luận tốt nghiệp Đại học/ Nguyễn Mạnh Thắng


được trang bị đầy đủ kiến thức phân tích hệ thống, các hệ thống tự động hóa, tính
năng và giá cả tất cả các máy móc thiết bị tự động cùng danh sách các nhà thầu
cung cấp thiết bị và phần mềm.
Đồng thời, một người cán bộ thư viện điện tử phải có hiểu biết về lĩnh vực luật
pháp, đặc biệt là vấn đề luật bản quyền, luật sở hữu trí tuệ, luật công nghệ thông
tin,… và có khả năng nắm bắt những chính sách mới của Đảng, Nhà Nước về
thư viện.
Về kỹ năng:
Một trong những đặc trưng của thư viện điện tử là sự tồn tại của một khối
lượng lớn thông tin dưới dạng số, là việc sử dụng trực tiếp mạng Internet để truy
cập và lấy thông tin. Cán bộ thư viện điện tử cần có khả năng quản trị một khối
lượng lớn dữ liệu số, tổ chức và cung cấp khả năng truy cập thông tin cho người
dùng tin. Để làm được điều này, yêu cầu cán bộ thư viện phải có kiến thức, kỹ
năng về thiết kế, quản lý hệ thống mạng thông tin; kỹ năng thu thập và xử lý tài
liệu trực tuyến; kỹ năng khai thác dữ liệu và tri thức. Đặc biệt, cán bộ thư viện
điện tử phải có kỹ năng chọn lọc, đánh giá, tái cấu trúc và tổ chức thông tin. Kỹ
năng phát hiện, xác định và kiến tạo nhu cầu tin. Đồng thời cán bộ thư viện phải
am hiểu và có kỹ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị, công nghệ đa
phương tiện hiện đại hỗ trợ cho việc tìm và phổ biến thông tin.
Hiện tại có rất nhiều kỹ thuật tìm tin, gồm cả tìm siêu dữ liệu và tìm tin
văn bản. Điều này đòi hỏi cán bộ thư viện phải có kỹ năng phân tích, tìm kiếm,
thu thập, xử lý, khai thác và chọn lọc thông tin. Bên cạnh đó, cán bộ thư viện
điện tử phải có khả năng biên mục, phân loại, đóng gói, lưu trữ và bảo quản
thông tin để có thể phổ biến thông tin phù hợp với nhu cầu của người dùng tin.
Đặc biệt, cán bộ thư viện điện tử phải có năng lực tư vấn và cung ứng thông tin
cho người dùng tin.

×