Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.31 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Tiểu luận

Triết học Mác Lênin
Đề 3: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về
ý thức và vai trò của ý thức trong thực tiễn. Từ đó
liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hiện nay.


I.
.

Quan niệm duy vật biện chứng về ý thức
Quan niệm về ý thức
- Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một
phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối
quan biện chứng với vật chất.
- Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường
phái triết học quan tâm nghiên cứu, nhưng tùy theo cách
lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác nhau,
là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau,
hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Đứng vững trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, khái quát những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên và bám sát thực tiễn xã hội,
triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý
thức.
2. Kết cấu của ý thức


• Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất
phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ
với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo hai chiều:
 Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố
cơ bản, cốt lõi.
 Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm
thức, vô thức.
a. Theo chiều ngang :
- Tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Cần phải có
hiểu biết sâu sắc về sự vật mới có thể cải tạo được sự
vật đó, vì vậy, tri thức là phương thức tồn tại cơ bản
của ý thức. Theo C.Mác, phương thức mà theo đó ý
thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với ý
thức là tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra
đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó. Tri thức
có nhiều lĩnh vực và cấp độ khác nhau. Tích cực tìm
hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh là yêu
cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải
tạo thế giới. Tuy nhiên không thể đồng nhất ý thức
với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.

2


Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh
tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và
quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm
tham gia và trở thành một trong những động lực
quan trọng của hoạt động con người. Sự hòa quyện

giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã
tạo nên tính bền vững của niềm tin thơi thúc con
người hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
- Muốn vượt qua khó khăn để đạt được mục đích, chủ
thể nhận thức phải có ý chí, quyết tâm cao. Ý chí là
những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm
năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể
vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra.
Theo chiều dọc :
- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân
mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức,
đánh dấu trình độ phát triển của ý thức. Con người tự
ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động
có cảm giác, đang tư duy: tự đánh giá năng lực và
trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới cũng như
các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng,
hành vi, đạo đức và lợi ích của mình. Qua đó xác định
đúng vị trí, mạnh yếu của mình, ý thức về mình như
một cá nhân – chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động
của mình. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá
nhân, mà cịn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác
nhau.
- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên
ngồi sự kiểm sốt của ý thức. Về thực chất, tiềm
thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước
nhưng đã gần như thành bản năng, thành kỹ năng
nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới
dạng tiềm tang. Do đó tiềm thức có thể tự động gây
ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể

khơng cần kiểm sốt chúng một cách trực tiếp. Tiềm
thức có vai trị quan trọng trong đời sống và tư duy
khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình
tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức
hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu
-

b.

3


3.
-

-

-

-

óc, khi cơng việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo
độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy
khoa học.
- Vô thức là những hiện tượng tâm lý khơng phải do lý
trí điều khiển, nằm ngồi phạm vi của lý trí mà ý thức
khơng kiểm sốt được trong một lúc nào đó. Chúng
điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói
quen… trong con người thơng qua phản xạ không
điều kiện. Con người là một thực thể xã hội có ý thức,

nhưng khơng phải hành vi nào của con người đều do
lý trí chỉ đạo. Vơ thức là những trạng thái tâm lý ở
tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng
xử của con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí.
Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý
thức là sự phản ánh khách quan vào trong bộ óc con người
một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể
hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy
định. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh
thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ
quan, là thực tại chủ quan. Ý thức khơng có tính vật chất,
nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái
quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý
thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên,
không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc
người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự
phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của
việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được
thực hiện thông qua hoạt động lao động. “Ý thức chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó” - Các Mác
Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở sự cải biến
cái vật chất di chuyển vào trong bộ não con người thành
cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần. Sáng tạo

của ý thức là sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của
4


-

-

-

-

-

-

4.


phản ánh, trong khn khổ và theo tính chất, quy luật của
phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức
mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái khơng có
trong thực tế. Ý thức có thể tiên đốn, dự báo về tương lai,
có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính
khái qt cao.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh

trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ý thức
là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông tin
giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mơ hình
hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
và cuối cùng là chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực
khách quan.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực
tiếp hay gián tiếp, dù dười dạng ý tưởng thì bao giờ củng
phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa trên hoạt động
thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập,
loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với
phản ánh, trên cơ sở của phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý
thức. Ý thức – trong bất kỳ trường hợp nào cũng là sự phản
ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản
ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về
bản chất là có tính xã hội: Ý thức khơng phải là một hiện
tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. ý
thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh những
quan hệ xã hội khách quan. “Ngay từ đầu, ý thức đã là
một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến chừng nào con
người còn tồn tại” - Các Mác và Engels
Theo Lênin thì nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất
tức là một bước sai lầm đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật
với chủ nghĩa duy tâm.
Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lênin thì trong lịch sử triết
học, vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức là một trong


5


a.

những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện
chứng khẳng định, ý thức của con người có nguồn gổc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội.
Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, ý thức là một
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não
người. Nếu khơng có sự tác động của thế giới khách quan
vào bộ não người và khơng có bộ não người với tính cách
là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ khơng có ý thức. Bộ
não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các nhân tố
bao gồm:
-

Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức
là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của q trình tiến hố lâu dài về mặt sinh vật - xã hội
và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế
bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên
hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển
toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế

giới bên ngồi thơng qua các phản xạ có điều kiện và
không điều kiện.

-

Sự phản ánh:
Cũng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động ý thức
con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào
hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên,
nếu chỉ có bộ óc người mà khơng có sự tác động của
thế giới bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó
thì cũng khơng thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính
chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật

6


chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất
khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc
tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp:







b.

Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở
giới vơ sinh, thể hiện qua các q trình biến đổi cơ, lý,
hoá.
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới
trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng
với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật.
Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh
thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát
triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của
con người.
Mặt xã hội.
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì
điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc
xã hội, thể hiện ở vai trị của lao động, ngơn ngữ và các
quan hệ xã hội.
“Sau lao động và cùng với lao động là ngơn ngữ đó là hai
sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật
thành bộ não loài người, từ tâm lý động vật thành ý thức”
- Engels
-

Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động
bản chất người. Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo,
có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi
thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế
độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với

q trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý
động vật thành ý thức.
“Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người, và như thế đến một mức độ và
trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động
đã sáng tạo ra bản thân con người” - Engels

7


Việc chế tạo ra cơng cụ lao động có ý nghĩa to lớn là
con người đã có ý thức về mục đích của hoạt động
biến đổi thế giới. Thực chất của hoạt động lao động là
tác động vào thế giới khách quan, làm biến đổi thế
giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Nhờ có
lao động, bộ não con người được phát triển và ngày
càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng
của con người ngày càng cao. Cũng là lao động ngay
từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối
liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó khơng
ngừng được củng cố và phát triển đến mức làm nảy
sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó". Và ngơn ngữ xuất hiện.
-

Ngơn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì ngơn
ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã
hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất
của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngơn

ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy
của con người và xã hội lồi người.

II.
.

Vai trị của ý thức trong thực tiễn & liên hệ
Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
Tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức. Tri
thức đã và đang trở nên quan trọng đối với đời sống xã
hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội:
kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục.
• Vai trị của tri thức đối với kinh tế (Kinh tế tri thức)
”Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà việc sản sinh ra và
khai thác tri thức có vai trị nổi trội trong q trình tạo
ra của cải; là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất
lượng cuộc sống.”
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so
với các nền kinh tế trước đó:
- Tri thức khoa học - công nghệ cùng với lao động kỹ
năng cao là cơ sở chủ yếu và phát triển rất mạnh
8


- Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức,
nguồn vốn trí tuệ.
- Sáng tạo và đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu
nhất thúc đẩy sự phát triển.

- Nền kinh tế mang tính học tập.
- Nền kinh tế lấy thị trường tồn cầu là mơi trường hoạt
động chính.
- Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng
bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác
động của cách mạng khoa học – công nghệ và tồn cầu
hố, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát
triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một,
hai thập niên tới.
Vốn tri thức – vai trị của nó trong kinh tế tri thức. Vốn
tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất
kinh doanh với mục đích sinh lợi (tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản
xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất
đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp,
vốn, đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hoá
với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát
triển kinh tế - xã hội,góp phần chuyển xã hội phong
kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế
tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế - xã hội
không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao
động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn
với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất
trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền
tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước Mỹ nói riêng và các
nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua
tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát

triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các
ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư,

9


ngân hàng, tài chính, chứng khốn, bảo hiểm… Đồng
thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền
thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao. Ở các
nước có nền kinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều
vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng càng lớn,tỷ suất
lợi nhuận càng cao.
Vốn tri
định sự
tri thức
quản lý

thức trong kinh tế tri thức đóng vai trị quyết
thành cơng hay thất bại của doanh nghiệp. Vốn
ở đây bao gồm các cơng nhân tri thức,các nhà
có trình độ cao,các cơng nghệ mới.

Vốn tri thức đóng vai trị to lớn trong việc rút ngắn
khoảng cách phát triển giữa các nước đang phát triển
và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa
là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và
đang phát triển,trong đó có Việt Nam. Các quốc gia kém
và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh
tế tri thức, thơng qua tri thức hố các ngành cơng
nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành

các cơng nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất
nước đuổi kịp các nước phát triển.


Vai trị của tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến
thức.Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận,khả
năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực,đúng
đắn.Điều này rất quan trọng,một đất nước rất cần
những con người như vây để điều hành cơng việc chính
trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại
hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng
mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại
hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt
đơng”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược
cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong việc
đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức : Tuyển chọn những
người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu
xã hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào
tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức cịn thiếu và yếu để
bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối
10


chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với
những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn
và lợi ích. Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –
công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có
mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều

kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng
dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các
viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và
gắn kết trường đại học và các cơng ty,xí nghiệp.Các cơ
quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu
đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên
luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan. Hàng năm theo định kỳ có những cuộc
gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà
khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo
và trung tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các
hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ
tịch,sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ quốc gia về những ý
kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học
với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục
- đào tạo. Phát triển khoa học - công nghệ,cách tuyển
chon và giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà
khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ
nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét
duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài
khoa học cấp Nhà nước. Liên hiệp các hội khoa học Việt
Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà
khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý
kiến tư vấn,những khuyến nghị xác thực có giá trị với
Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội
viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và
công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thốt
khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.



Vai trị tri thức đối với văn hố - giáo dục
Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hố - giáo dục
của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng
tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người
được nâng cao. Và do đó nền văn hố ngày càng lành
11


mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo
dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,
phồn vinh.



Vai trị của tình cảm và ý chí
Việc nhấn mạnh yếu tố tri thức không đồng nghĩa với
việc phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình
cảm và ý chí. Ngược lại, nếu tri thức khơng biến thành
tình cảm, niềm tin và ý chí của con người thì nó cũng
khơng có vai trị gì đổi với đời sống hiện thực cả. Khơng
có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn
sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí khơng thể
diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc
độ và bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần dũng
cảm, dám nghĩ dám làm, lịng nhiệt tình, chí quyết tâm,
tình u, niềm say mê đối với cơng việc, khả năng sáng
tạo vả vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác
định… đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động thực
tiễn, quy định tính đặc thù và bản sắc riêng của những
hoạt động cụ thể nhất định. Nói một cách khác, tư

tưởng có vai trị khơng kém phần quan trong trong đời
sống xã hội so với khoa học.



Vai trị của tư tưởng
Khi nói đến tính tích cực, năng động của ý thức có nghĩa
là nói đến con người, đến hoạt động có mục đích của
con người. Sức mạnh của ý thức (tư tưởng) tùy thuộc
vào mức độ thâm nhập, phổ biến của nó vào con người,
vào trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn và vào các
điều kiện vật chất và hồn cảnh khách quan, trong đó ý
thức được thực hiện. Tính tích cực của ý thức có thể là
thúc đẩy và cũng có thể là kìm hãm ở một mức độ nhất
định của sự phát triển để tồn tại. Tầm quan trọng của lý
luận cách mạng được Lênin khái qt: “Khơng có lý luận
cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách
mạng”. Những tư tưởng khoa học, lý luận khoa học có
vai trị thúc đẩy sự phát triển tồn tại vì chúng trang bị
12


cho con người những tri thức đúng đắn về các quy luật
khách quan trên cơ sở đó con người vân dụng và hành
động phù hợp.
Việc thực hiện cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng – văn
hóa là một trong những quy luật phổ biến của sự nghiệp
cách mạng của giai cấp vô sản. Các Mác và sau này là
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng cách mạng tư tưởng văn hóa có
vai trị rất quan trọng, góp phần làm biến đổi tồn bộ

đời sống tinh thần xã hội, xây dựng mối quan hệ tư
tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể
xây dựng đời sống tinh thần làm cho quần chúng nhân
dân trở thành người trực tiếp tham gia vào quá trình
sáng tạo lịch sử một cách tự giác có ý thức, làm chủ mọi
giá trị tinh thần, văn hóa và tạo ra được những điều kiện
đảm bảo sự phát triển tự do của con người. Do đó, cơng
tác tư tưởng – văn hóa nhằm biến tư tưởng văn hóa tiến
bộ thành lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng
chế độ mới, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp
công nhân, những giá trị tốt đẹp nhất trong truyền
thống văn hóa dân tộc, trở thành hệ tư tưởng và các giá
trị nhân văn, khoa học, chiếm vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Tư tưởng xác định lập trường, thái độ cho con người mà
từ đó có những hoạt động thích hợp để cải tạo, xây
dựng xã hội. Nhờ có lịng dũng cảm, lịng nhiệt tình, chí
quyết tâm… mà những cơng việc trở nên dễ dàng hơn.
Trong giai đoạn hiện nay thì vai trị của tư tưởng ngày
càng được khẳng định. Với sự chống phá của các thế lực
thù địch trong và ngoài mà đối tượng chủ yếu là tầng
lớp thanh thiếu niên lợi dụng các phương tiện thông tin
đại chúng, sự sơ hở của hàng rào pháp luật để lưu hành
những ấn phẩm độc hại, bơi nhọ chế độ nếu như khơng
có một tư tưởng tốt thì chắc chắn sẽ bị lơi kéo vào
những hoạt động gây tổn hại đến đất nước. Như vậy,
những tư tưởng khoa học trang bị cho con người những
tri thức đúng đắn về các quy luật khách quan từ đó có
những hành động thích hợp.


13


Ở nước ta, trong hơn 20 năm qua, nhờ có công tác tư
tưởng tốt mà chúng ta đã vượt qua những thử thách
hiểm nghèo, hình thành xác định và phát triển đường lối
đổi mới, nỗ lực tìm tịi các sáng kiến của nhân dân để
khẳng định, cổ vũ và đưa vào cuộc sống, củng cố niềm
tin lý tưởng ngay cả khi cách mạng xã hội chủ nghĩa
lâm vào thoái trào, khơi dậy sức sáng tạo trong nhân
dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa nước ta vượt ra
khỏi mọi thử thách, lập nên những thành tựu rất to lớn
và quan trọng về nhiều mặt, phấn đấu vì mục tiêu dân
giâu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn
minh.
Nhận thức được vai trị to lớn, Đảng ta ln ln coi
trọng tư tưởng, kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác Lênin. Coi tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ
nghĩa Mác Lênin là nền tảng cho hành động. Trong thời
đại ngày nay, vấn đề tư tưởng trong thanh niên là
nhiệm vụ mang đầy thử thách, là một vấn đề quan
trọng cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc.
Kiên định theo lập trường, tư tưởng, thái độ đúng đắn
thì chắc chắn con người sẽ thành cơng., thực tiễn đã
chứng minh như vậy. Xã hội tôn trọng cá nhân, đồng
thời cá nhân hiểu biết đề cao lợi ích xã hội, có thể hy
sinh lợi ích riêng vì lợi ích xã hội thì cần thiết và do vậy,
sẽ đảm bảo cho nhân cách mỗi cá nhân phát triển lành
mạnh trong sự hài hịa với xã hội. Đó là tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Nếu như tư tưởng khoa học có vai trị thúc đẩy sự phát
triển của tồn tại thì tư tưởng phản khoa học – phản ánh
sai lệch các quy luật khách quan, lại kìm hãm sự phát
triển đó. Nếu tư tưởng sai lệch trong mỗi người tồn tại
thì tất yếu sẽ dẫn đến những hành động mù quáng, sai
lầm ảnh hưởng đến xã hội.
Như vậy tư tưởng có vai trị rất quan trọng trong đời
sống xã hội. Nó giúp con người trong việc xác định lập
trường thái độ, tư tưởng đúng đắn. Tuy nhiên đây chỉ là
động lực chứ không thể là định hướng cho hoạt động
thực tiễn. Ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và
14


những yếu tố tình cảm trong sự liên hệ tác động qua lại,
nhưng về cơ bản, ý thức có nội dung tri thức và ln
ln hướng tới tri thức.


Vai trị của tự ý thức
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh con
người cũng đồng thời tự nhận thức bản thân mình. Đó
chính là tự ý thức. Như vậy tự ý thức cũng là ý thức, là
một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý
thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về
thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về
bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác,
có tư duy, có hành vi, đạo đức và có vị trí trong xã hội.
Những cảm giác của con người về bản thân mình trên
mọi phương diện giữ vai trị quan trọng về hình thành tự

ý thức.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là
tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp hay của một
tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung
của xã hội mình, của giai cấp hay của tầng lớp mình.



Vai trò của tiềm thức
Tiềm thức là những hoạt động tâm lí tự động diễn ra
bên ngồi sự kiểm sốt của chủ thể, song lại có liên
quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lí đang diễn ra
dưới sự kiểm sốt của chủ thể. Về thực chất, tiềm thức
là những tri thức mà chủ thể có từ trước nhưng đã gần
như trở thành bản năng trong tầm sâu của tri thức chủ
thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó tiềm thức có
thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lí và nhận thức
mà chủ thể khơng cần kiểm sốt chúng một cách trực
tiếp. Tiềm thức có vai trị quan trọng trong cả hoạt động
tâm lí hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa
học. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn với
các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. Ở đây tiềm thức
góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lí
khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một

15



cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được sự chính xác
và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.


Vai trị của vơ thức
Vơ thức là những trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều
chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người
mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính tồn của
lý trí.
Vơ thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau
như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, nói
nhịu, trực giác, sự lỡ lời… Mỗi hiện tượng đều có vùng
hoạt động riêng, có vai trị, chức năng riêng, song tất cả
đều có một chức năng chung đó là giải tỏa những ức
chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng, nhất là
những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra
và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó
góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần
của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế q
mức.
Như vậy, vơ thức có vai trò, tác dụng nhất định trong
đời sống và hoạt động của con người. Nhờ vô thức mà
con người tránh được tình trạng căng thẳng khơng cần
thiết khi làm việc quá tải, nhờ vô thức mà chuẩn mực
của con người được đặt ra một cách tự nhiên… Vì vậy
khơng thể phủ nhận vai trị của vơ thức trong cuộc
sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ
và đúng đắn về con người.


2. Vai trò của tri thức khoa học trong cơng cuộc đổi mới của Việt
Nam.


Trong cơng cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là
nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Những
cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học đã giúp
Đảng có một sự định hướng đúng đắn về đuường lối
chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế hoạch
phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nơng
nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học cơng nghệ…Nói đến
vai trò nền tảng và động lực của tri thức Khoa học trong

16






công cuộc đổi mới là nối đến con đường công nghiệp
hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ,
coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp
và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và
lựa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy,
đổi mới quan niệm và đổi mới phương thức phát triển
phù hợp với những đòi hởi phải tiến hành cơng nghiệp
hố đi đơi với hiện đại hố với tốc độ nhanh nhưng vẫn
đảm bảo tính bền vững trong những thập niên đầu của
thế kỷ 21.

Nhìn lại thế kỷ 20 đã qua chúng ta thấy có những đổi
thay to lớn do khoa học - công nghệ mang lại. Trên thế
giới sự xuất hiện các nhóm nước mới cơng nghiệp hố
(NIC) sau chiến tranh thế giới thứ 2 cũng khơng nằm
ngồi ảnh hưởng lan toả của các thành tựu khoa học –
cơng nghệ thơng qua q trình chuyển giao cơng nghệ
tiến bộ bằng các chính sách cơng nghiệp và nông
nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã tận dụng được cơ
hội tiếp thu nhanh chóng các cơng nghệ mới, thay đổi
phương thức sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ
công và tài nguyên chủ yếu để chuyển sang aps dụng
các kỹ thuật cơ khí hố, tự động hoá theo hướng tạo ra
các giá trị gia tăng cao thúc đẩy sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế. Nhờ đi theo con đường cơng nghiệp hố
dự hẳn vào Khoa học-cơng nghệ mà một số nước đã rút
ngán được thời gian cần thỉ\ết để làm tăng gấp đơi thu
nhập bình qn đầu người. Trước kia, nước Anh phải mất
58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giờ đây Braxin chỉ mất 18
năm, Hàn Quốc 11 năm và Trung quốc chỉ trong vòng
10 năm. Ta có thể so sánh Hàn Quốc và Gana vào
những năm 60 và bây giờ. Điểm xuất phát hai nước đều
có mức thu nhập bình qn đầu người như nhau, đều là
các quốc gia chậm phát triển. Vậy mà ngày nay, thu
nhập đầu người của Hàn Quốc đã gấp 6 lần của Gana. vì
sao có sự cách biệt lớn lao như vậy? Đó là do Hàn Quốc
đã thu nhận và sử dụng trí thức Khoa học sáng tạo và
phù hợp với thực tiễn hơn.
Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy: ở
đâu có sự sáng tạo trong công cuộc đổi mới các giải
pháp về Khoa học-công nghệ thì ở đó có sự tiến bộ vượt

bậc. Thử hỏi nếu Việt Nam vẫn giữ nền kinh tế tập trung

17












bao cấp chưa chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần thì hiện giờ đất nước chúng ta sẽ ra sao.
Về Nông nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách
khốn áp dụng trong nơng nghiệp những năm 80 là một
ví dụ điển hình cho thấy vai trị của chính sách trong
việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ lục về lương
thực mà khơng có một yếu tố sản xuất thông thường
nào như: vốn, lao động, vật tư có thể mang lại. Chính
sách mới làm cho người lao động làm việc có trách
nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn. Đảng đẩy mạnh và
khuyến khích nơng dân đưa khoa học-công nghệ vào
sản xuất như: sử dụng các loại giống mới, phân bón,
máy móc sản xuất theo cơng nghệ cao của thế giới;
nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu tư, cải tạo,
nâng cấp hệ thống sông, đê ngăn chặn nước mặn lên

biển. ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và vật liệu mới
trong thiết kế và thi công cơng trình là cho việc thực
hiện cơng trình xảy ra nhanh chóng đáp ứng kịp thời
nhu cầu, lợi ích của bà con nơng dân.
Về cơng nghiệp qua trình sáng tạo và triển khai chính
sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã dẫn tới
sự ra đời của một khu vực kinh tế mới – Khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi rất năng động đang góp phần
tạo ra trên 10% GDP, 30% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Các cơng ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công
nghệ hiện đại mà đã đạt đước những thắng lợi ngồi cả
sự mong đợi. Ví dụ điển hình là cơng ty chế biến sữa
Vinamilk từ tình trạng vơ cùng khó khăn đã vươn lên
sản xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh được với
hàng nhập ngoại.
Trong các ngành, Bưu chính viễn thơng, khia thác dầu
khí và các ngành nghề khác nhờ những quyết định táo
bạo trong đầu tư vào Kỹ thuật công nghệ hiện đại mà
đạt được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn
đinh. Văn hoá-giáo dục được nâng cấp, đầu tư cơ sở một
cách thoả đáng.
Thực tế cho thấy sau 15 năm đổi mới dựa vào tiềm
năng của đất nước và sự trợ giúp của Khoa học - Công
nghệ chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng
gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội
và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình

18





trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản
xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Nền kinh
tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống
của nhân dân dần được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được cơn chấn
động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường. Kinh tế tăng
trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm trong nước tăng
bình quân 7% trong một năm; giá trị nơng - lâm - ngư
nghiệp tăng bình qn 5,7%/ năm. trong đó: Nơng
nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp tăng
8,9%. Công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm 13,5%. Đầu
tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được nhu
cầu trong nước và xuất khẩu. Dịch vụ phát triển với giá
trị trung bình là 6,8%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể:
Năm 1986 là 58,72% thì năm 1990 chỉ cịn 52,8%.
Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn trong giai đoạn 1996 - 2000 đã có đóng góp tích
cực trong phát triển lí luận và tổng kết thực tiễn xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Nhờ
kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho quá trình chuẩn bị
các văn kiện hội nghị trung ương khoá VIII, xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội những năm sau và
đóng góp cho việc chuẩn bị văn kiện Đại hội IX vừa qua.
Khoa học xã hội cịn đóng góp quan trọng và việc xây
dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các

văn bản dưới luật, các chính sách và hiệp định quốc tế,
trong đó có hiệp định thương mại Việt - Mỹ, khoa học xã
hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức
xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội như: Vấn đề
tồn cầu hố, quốc tế hố, cơng nghiệp hố - hiện đại
hố… Các vấn đề tơn giáo, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy văn
hoá phát triển lành mạnh với phương châm “Hồ nhập
nhưng khơng hồ tan”. Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá
thế giới chúng ta khơng qn giữ gìn và phát huy nền
văn hố đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Giáo dục
ngày càng được chú trọng. Các quốc gia phát triển đã
rút ra một điểm quan trọng là: Giáo dục là con đường
ngắn nhất để phát triển để tiến tới nền kinh tế trí thức
hay cịn gọi là nền kinh tế chất xám. ở Việt Nam từ năm

19


III.

1997 đến nay, nhân lực Khoa học - Công nghệ cả nước
đã tăng 1,5 lần. Cán bộ Khoa học - Cơng nghệ có trình
độ đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ xung
thêm khoảng 20 nghìn người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ
đã tăng lên gần 13 nghìn vào năm 2000. Trình độ, năng
lực cán bộ trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, xây
dựng, giao thơng vận tải, cơng trình điện, bưu chính
viễn thơng, thăm dị và khai thác dầu khí đạt mức trung
bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm 2000 chính

phủ đã bố trí khoản ngân sách riêng để hàng năm chủ
động gửi sinh viên cán bộ Khoa học - Công nghệ có
năng lực đi đào tạo dài hạn tại các nước có nền Khoa
học tiên tiến.
• Khoa học - Cơng nghệ đã có khả năng làm chủ và thích
nghi nhiều cơng nghệ tiên tiến của nước ngồi trong các
lĩnh vực như viễn thơng, khai thác dầu khí, năng lượng…
Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với
đất nước do thực tiễn đặt ra được các lực lượng Khoa
học - Công nghệ nghiên cứu và giải quyết như: Cơ sở
khoa học cho các phương án phòng chống thiên tai, các
phương pháp sản xuất Vacxin phịng bệnh…
• Rõ ràng, quan niệm về vai trò nền tảng và động lức
phát triển của Khoa học – Công nghệ đối với sự phát
triển vừa có cơ sở thực tiễn trong nước vừa hợp với xu
thế phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tương đối
của các yếu tố lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên
đang chuyển dần sang các yếu tố tri thức Khoa học –
Công nghệ.
Kết luận:
Vật chất và ý thức ta thấy rằng chúng cũng có tính độc lâp
và tác động qua lại với nhau.Nếu ta áp dụng những tri thức
khoa học để cải biến thế giới nó sẽ cho ta những kết quả như
ý muốn, những tri thức sai lầm ln đưa ta đến thất bại.Vai
trị của tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước
thế kỉ 21 – thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên
tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh

tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật Khoa học-Công nghệ
của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri
thức mà không qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa chọn

20


hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó
để đưa tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động
chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho
một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó là
của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào trong mọi lĩnh
vực hoạt động kinh tế và xã hội. Đất nước Việt Nam đã đi qua
chiến tranh thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không
thể chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển đất nước?
Nhất định chúng ta sẽ làm được và làm tốt bởi mang trong
mình sức mạnh đồn kết dân tộc và bản tính thơng minh lao
động sáng tạo của con người Việt Nam. Những thắng lợi bước
đầu của công cuộc đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Và bây giờ
nhiệm vụ của chúng ta là: Tìm hiểu những tri thức mới, cập
nhật và làm chủ những tiến bộ khoa học của lồi người.
Nguồn tham khảo:


Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, năm 2006




Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
năm 2006



Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa
học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004



Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006



Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, năm 2006

21


22




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×