MỤC LỤC
I. Tóm tắt quan hệ quốc tế của Nhật Bản trước và trong chiến tranh lạnh....3
1. Nhật Bản trước thời kỳ “Chiến tranh lạnh”............................................... 3
2. Nhật Bản trong thời kỳ “Chiến tranh lạnh”................................................3
II. Vai trò của Nhật Bản trong quan hệ quốc tế thời hậu “Chiến tranh lạnh”
và hiện nay......................................................................................................... 6
1. Quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ............................................................................8
1.1. Đa phương hóa chính sách đối ngoại và giảm sự phụ thuộc vào Hoa
Kỳ........................................................................................................................8
1.2. Tăng cường hợp tác an ninh với Hoa Kỳ trong bối cảnh mới................9
2. Mối quan hệ giữa Nhật Bản - Đông Nam Á.................................................11
2.1. Thúc đẩy hợp tác toàn diện với ASEAN................................................ 11
2.2. Vấn đề an ninh khu vực Đơng Nam Á và điều chỉnh chính sách của
Nhật Bản................................................................................................... 13
3. Quan hệ Nhật Bản - Nga..............................................................................16
4. Quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc.................................................................. 17
5. Quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc................................................................19
III. Gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản trong các thể chế và tổ chức hợp tác đa
phương..............................................................................................................22
1. Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO)..................................... 26
2. Nhật Bản và Liên Hợp Quốc.......................................................................28
IV. Văn hóa Nhật Bản đóng vai trị quan trọng trong việc nâng tầm Nhật
Bản trong trường quan hệ quốc tế.......................................................................30
V. Tổng kết.............................................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 34
I.
Tóm tắt quan hệ quốc tế của Nhật Bản trước và trong chiến tranh
lạnh.
1. Nhật Bản trước thời kỳ “Chiến tranh lạnh”
Cho đến thời Minh Trị (1868-1912), mối quan hệ của Nhật Bản với phần còn
lại của thế giới chủ yếu được xác định theo trật tự thế giới Đông Á do Trung Quốc
thống trị theo truyền thống. Nhật Bản là một phần của các tuyến đường thương mại
bao gồm phần lớn Đông Nam Á và Đông Á, và hoạt động thương mại này dẫn đến
nhiều trao đổi văn hóa cũng như trao đổi vật chất. Vào thế kỷ thứ mười sáu, Nhật
Bản bắt đầu giao thương với các nước phương Tây, nhưng nhanh chóng nhận thấy
sự bất ổn vì mối liên hệ với Cơ đốc giáo và vì nhu cầu mà nước này tạo ra đối với
kim loại quý. Do đó, chính phủ đã chính thức hạn chế hoạt động ngoại thương với
các thương nhân Hà Lan và Trung Quốc.
Vào thế kỷ 19, châu Á ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người
châu Âu bành trướng và nhiều nước bị đô hộ. Bản thân Trung Quốc đã bị suy yếu
rất nhiều và trật tự thế giới Đơng Á cũ khơng cịn hoạt động. Các nước phương Tây
ráo riết yêu cầu Nhật Bản bắt đầu tham gia bn bán với họ, và cuối cùng Nhật
Bản khơng cịn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý.
Trong những năm 1850 và 60, Nhật Bản đã ký nhiều hiệp ước với các quốc
gia phương Tây. Vào thời điểm đó, chủ nghĩa đế quốc và thuộc địa là những thể
chế chính xác định các mối quan hệ quốc tế, và Nhật Bản đã sớm trở thành một
cường quốc thuộc địa của riêng mình, cai trị cả Đài Loan và Hàn Quốc. Vào đầu
thế kỷ 20, Nhật Bản được các cường quốc phương Tây công nhân là một thế lực
đáng kể và trở thành thành viên của Liên đoàn các quốc gia.
2. Nhật Bản trong thời kỳ “Chiến tranh lạnh”
Nhật Bản quay trở lại cộng đồng quốc tế vào năm 1952, khi đã bị suy giảm
đáng kể về lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Các nước Đài Loan, Trung Quốc, Hàn
Quốc và Triều Tiên đều sở hữu các cơ sở quân sự lớn hơn nhiều so với các cơ sở
trở thành Phòng vệ của Nhật Bản. Với sự gia tăng của xu hướng Chiến tranh
lạnh, các mối
quan hệ quốc tế không được định hướng để tiến hành theo đường lối hịa bình. Một
hiệp ước hịa bình mang tính cấp thiết rất lớn lúc bấy giờ. Do đó, hội nghị hịa bình
San Francisco được triệu tập vào tháng 9 năm 1951 đã phê chuẩn các thỏa thuận đã
được thảo ra trước đó. Theo các điều khoản của hiệp ước diễn ra sau đó, Nhật Bản
đã lấy lại chủ quyền, nhưng cũng mất nhiều lãnh thổ, bao gồm công nhận nền độc
lập của Hàn Quốc và từ bỏ mọi quyền đối với Đài Loan, Pescadores, Kurils và nam
Sakhalin. Nó cũng mất quyền kiểm sốt một số hịn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương
mà nó quản lý như là ủy thác của Liên minh các quốc gia, như Quần đảo Mariana
và quần đảo Marshall.
Hiệp ước mới cũng giúp cho Nhật Bản có quyền tự do tham gia vào các khối
quốc phịng quốc tế do đã cơng nhận “quyền tự vệ tập thể và cá nhân” của Nhật
Bản. Nhật Bản đã áp dụng quyền này thông qua Hiệp ước An ninh Hoa kỳ - Nhật
Bản (1951), theo đó, các lực lượng Hoa Kỳ vẫn ở lại Nhật Bản cho đến khi người
Nhật tự bảo đảm được sự phòng thủ của mình. Nhật Bản đồng ý khơng trao quyền
tương
tự cho một cường quốc thứ ba mà khơng có sự chấp nhận của Hoa Kỳ. Người Mỹ
hứa hẹn sẽ hỗ trợ Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản trong khi các đơn vị quân đội Mỹ
(ngoại trừ các đội không quân và lực lượng hải quân) được rút về Okinawa.
Trong Hiệp ước hịa bình San Phranxixcơ khơng đưa ra thỏa thuận về việc
bồi thường cho các nạn nhân của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương của Nhật Bản,
nhưng có điều kiện là Nhật Bản nên đàm phán với các nước liên quan. Do đó, việc
Nhật Bản nối lại quan hệ hiệu quả với các nước châu Á chỉ bắt đầu sau khi các
hiệp ước gồm các khoản bồi thường đã được ký kết với các nước này. Các hợp
đồng này đã được ký kết với Myanmar vào năm 1954. Philippines vào năm 1956,
Indonesia vào năm 1958.
Năm 1956, Nhật Bản khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xơ nhưng
khơng có hiệp ước hịa bình chính thức. Nhờ việc khơi phục ngoại giao với Liên
Xô mà Nhật Bản đã được gia nhập vào Liên hợp quốc vào cuối năm 1956 và sau
đó hoạt động tích cực trong các cuộc họp của Liên hợp quốc và các cơ quan
chuyên môn. Nhật Bản cũng trở thành một thành viên đóng góp của các quốc gia
thuộc Kế hoạch Colombo để phát triển kinh tế ở Nam và Đông Nam Á, Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), và Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD). Nhật Bản đi đầu trong việc thành lập Ngân hàng Phát triển Châu
Á vào năm 1965- 66.
Các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc phát triển chậm vì hai nước
này khơng có quan hệ ngoại giao. Năm 1953, một hiệp ước thương mại khơng
chính thức đã được ký kết giữa các nhóm tư nhân Nhật Bản và chính quyền Trung
Quốc. Dần dần, Nhật Bản trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Trung
Quốc. Vào năm 1971, những công khai của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đại lục
năm 1971 đã dẫn đến sự định hướng lại nhanh chóng chính sách Trung Quốc của
Nhật Bản. Các nhà lãnh đạo chính phủ Nhật Bản cho thấy sẵn sàng thỏa hiện quan
hệ với Đài Loan để có được mối quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh. Bắc Kinh
cũng tiết lộ mối quan
tâm mới trong quan hệ chính thức với Nhật Bản, tùy vào việc Nhật Bản thu hồi
hiệp ước với Đài Loan. Năm 1971, đã dẫn đến sự định hướng lại nhanh chóng
chính sách Trung Quốc của Nhật Bản. Cac nhà lãnh đạo chính phủ Nhật Bản cho
thấy sẵn sàng thỏa hiệp quan hệ với Đài Loan để có được mối quan hệ chặt chẽ hơn
với Bắc Kinh. Bắc Kinh cũng tiết lộ mối quan tâm mới trong quan hệ chính thức
với Nhật Bản, tùy thuộc vào việc Nhật Bản thu hồi hiệp ước với Đài Loan. Năm
1972, một năm sau khi Trung Quốc đại lục được gia nhập Liên Hiệp Quốc, Thủ
tướng Tanaka Kakuei đã đạt được thỏa thuận với Bắc Kinh về các bước bình
thường hóa quan hệ. Nhật Bản đồng thời cắt đứt quan hệ với Đài Loan, thay thế đại
sứ quán của họ bằng một văn phòng khơng chính thức.
II.
Vai trị của Nhật Bản trong quan hệ quốc tế thời hậu “Chiến tranh
lạnh” và hiện nay
Có thể nói Chiến tranh Lạnh kết thúc đã tạo ra một diện mạo mới cho các
quan hệ quốc tế, ở đó tồn tại nhiều xu hướng mang tính đa dạng, phụ thuộc lẫn
nhau, bổ sung cho nhau và thậm chí đối lập và loại trừ nhau, nhất là các nước lớn
nhằm dành cho mình một vị trí tối ưu trong hệ thống quan hệ quốc tế đang trong
quá trình cơ cấu lại. Đặc biệt là các xu hướng đó được thể hiện rõ nét trong các
quan hệ song phương và đa phương; trong các quan hệ kinh tế, chính trị và an ninh
quốc tế. Tuy nhiên cơ sở của những xu hướng này khơng phải là tình hình căng
thẳng nảy sinh từ sự đối đầu của hai hệ thống như thời kỳ trước những năm 90; nói
cách khác chính sự chuyển dịch của thế giới “hai cực” đối lập sang một thế giới đa
cực mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đã tạo ra một môi trường quốc tế mới ẩn
chứa nhiều những cơ hội và khơng ít những thách thức.
Nhật Bản rút ra bài học chính từ Chiến tranh vùng Vịnh. Thứ nhất là thời kỳ
hậu Chiến tranh Lạnh sẽ khơng có các loại xung đột vũ trang có thể lôi kéo nhiều
quốc gia vào chiến tranh. Bài học thứ hai là khi Liên hợp quốc đóng một vai trị lớn
hơn trong việc giữ gìn hịa bình, Nhật Bản phải đảm nhận một vai trò nổi bật hơn
trong cơ quan đó. Cuối cùng, Nhật Bản học được rằng, trong một cuộc khủng
hoảng, người lính được tơn trọng hơn chủ ngân hàng. Mặc dù đóng góp tài chính
lớn, Nhật Bản đã vươn lên từ Chiến tranh vùng Vịnh với danh tiếng quốc tế bị suy
giảm.
Nhật Bản là một trong số không nhiều các quốc gia thực hiện nhanh chóng
và có hiệu quả những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của họ nhằm thích
nghi với sự biến đổi của tình hình quốc tế sau Chiến tranh lạnh. Nhật Bản đã theo
đuổi một chính sách đối ngoại tích cực hơn trong những năm gần đây, nhận thức rõ
trách nhiệm đi kèm với sức mạnh kinh tế của mình. Thủ tướng Nhật Bản Yasuo
Fukuda nhấn mạnh: “Nhật Bản mong muốn trở thành trung tâm phát triển nguồn
nhân lực cũng như nghiên cứu và đóng trí tuệ để thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong
lĩnh vực hịa hình - xây dựng”.
Nhật Bản cho rằng “mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc, sự bất ổn và không
chắc chắn vẫn tồn tại trong khu vực. Vì vậy, việc duy trì hịa bình và ổn định ở các
khu vực xung quanh Nhật Bản có vai trị lớn hơn đối với an ninh Nhật Bản”.
Về chính sách đối ngoại hiện nay, ơng S. Yoshihide tiếp tục kế thừa di sản
của chính quyền tiền nhiệm, cụ thể là tăng cường quan hệ đồng minh Nhật Bản Mỹ; cải thiện quan hệ với các nước láng giềng (Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc) và
các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương; phát huy vai trị trong các cơ chế đa
phương và sáng kiến khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở;
giải quyết các vấn đề với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
1. Quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ
1.1. Đa phương hóa chính sách đối ngoại và giảm sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ.
Mối đe dọa an ninh giảm và những bài học đau đớn của Chiến tranh vùng
Vịnh đã khiến người Nhật cân nhắc liệu họ muốn tiếp tục đóng vai trò phụ thuộc
vào Hoa Kỳ hay đảm nhận một vai trị độc lập hơn và do đó nổi bật hơn trong các
vấn đề thế giới. Nhật Bản chỉ có thể đạt được mục tiêu nếu họ từ bỏ vị thế hơi dị
thường của mình như một quốc gia có sức mạnh kinh tế khổng lồ nhưng sức mạnh
quân sự khiêm tốn. Mối quan hệ an ninh Mỹ-Nhật. Công chúng Nhật Bản, vốn
thường có xu hướng hịa bình hơn so với giới lãnh đạo chính thống của LDP, lại ít
nhiệt tình ủng hộ tổ chức này hơn. Các phương tiện truyền thơng, theo chủ nghĩa
hịa bình truyền thống, thường xun chỉ trích chính phủ vì đã q phụ thuộc vào
Hoa Kỳ.
Kể từ sau Thế chiến thứ hai, mối quan hệ quan trọng nhất của Nhật Bản là
với Hoa Kỳ. Hiệp ước phòng thủ chung của Nhật Bản với Hoa Kỳ là trọng tâm an
ninh của nước này. Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Nhật Bản và duy trì các căn cứ quân sự
ở Nhật Bản cho một phần mục đích đó. Bất chấp sự thất bại của Nhật Bản và sự
chiếm đóng sau đó của người Mỹ, quan hệ với Hoa Kỳ vẫn thân thiện và gần gũi.
Cả hai quốc gia chính thức duy trì cam kết với Hiệp ước An ninh Tương hỗ, giữ
cho Nhật
Bản dưới "cái ơ" vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và cho phép hàng nghìn binh sĩ Hoa
Kỳ được đồn trú ở đó, đặc biệt là ở Okinawa; tuy nhiên, nhiều người Nhật ủng hộ
việc xác định lại mối quan hệ giữa hai nước và giảm số lượng quân đội Hoa Kỳ.
Các vấn đề kinh tế thường gây căng thẳng cho quan hệ Mỹ-Nhật, khi sự hồi
sinh của Nhật Bản trong những thập kỷ đầu sau chiến tranh đã biến đất nước này từ
một khách hàng thành một đối thủ cạnh tranh của Hoa Kỳ. Một sự thay đổi như
vậy không hề dễ dàng. Các vấn đề thương mại đôi khi đặc biệt gay gắt, tăng cường
bởi những hiểu lầm cơ bản về các giải pháp mà mỗi bên đề xuất. Nhìn vào mối
quan hệ Mỹ - Nhật Và khách quan, các số liệu thống kê về thương mại, đầu tư và
giao lưu nhân dân chứng minh một cách hùng hồn thực tế rằng tầm quan trọng
chung của mỗi quốc gia đối với cái khác đã giảm. Việc này có một vài ngun
nhân.
Ngun nhân chính là do ảnh hưởng tương đối của cả Hoa Kỳ và Nhật Bản
đã giảm trong khi ảnh hưởng tương đối của các nước đang trỗi dậy, đặc biệt là
Trung Quốc, đã tăng. Đặc biệt, việc mở rộng thị trường nhanh chóng ở các cố đơ
mới nổi có nghĩa là một sự thay đổi lớn trong dịng hàng hóa, dịch vụ, tài chính,
cơng nghệ, và con người. Năm 2004, Hoa Kỳ nhượng lại vai trò thương mại lớn
nhất của Nhật Bản đối tác với Trung Quốc. Tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Nhật Bản dành cho Hoa Kỳ gần như đã giảm một nửa trong giai đoạn 20052009, từ 27% xuống 14 và thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc đã tăng gấp 2,5
lần quy mô thương mại của nước này với Nhật Bản. Việc một quốc gia quan tâm
mạnh mẽ đến quốc gia khác với mà nó có một mối quan hệ kinh tế mở rộng. Sự
phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn với các quốc gia như Trung Quốc ở các mức độ khác
nhau phát triển kinh tế và có các hệ thống quản trị khác nhau mang lại nó là một số
thách thức khó khăn.
1.2. Tăng cường hợp tác an ninh với Hoa Kỳ trong bối cảnh mới
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi việc
củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh Nhật-Mỹ trong
thế kỷ 21” năm 1996 và đưa ra phương châm phòng thủ mới Nhật-Mỹ vào năm
1997. Nhật
Bản ngày càng độc lập và ít lệ thuộc hơn vào Mỹ trong chính sách đối ngoại. Một
mặt, Nhật chủ trương nâng cấp quan hệ an ninh để Nhật có vai trị lớn hơn khơng
phải chỉ ở cùng chung quanh nước Nhật mà ra cả Châu Á-Thái Bình Dương, mặt
khác Nhật tìm cách tách khỏi Mỹ khi tỏ thái độ với một số vấn đề ở châu Á như
thuyết phục các nước G7 bỏ cấm vận với Trung Quốc sau vụ Thiên An Mơn, vấn
đề Campuchia, Nhật hồng thăm Trung Quốc, Nhật tham dự đầy đủ đủ việc chuyển
giao Hồng Kông cho Trung Quốc,...
Điều quan trọng cần lưu ý là một lý do khiến quan hệ Mỹ-Nhật phát triển
theo hướng này là nhờ vào việc cả hai nước đều gặt hái được những lợi ích quan
trọng từ mối quan hệ đồng minh. Theo quan điểm của Hoa Kỳ - người chiến thắng
trong Chiến tranh Lạnh - quan hệ đối tác với Nhật Bản là quan trọng vì Nhật Bản
chia sẻ các giá trị dân chủ của Hoa Kỳ và có sự hiện diện quan trọng như nước thứ
hai trên thế giới nền kinh tế lớn nhất. Nhật Bản cũng đóng vai trò là nền tảng trong
chiến lược triển khai tiền phương của Mỹ ở Đông Á. Nhật Bản không sở hữu vũ
khí hạt nhân hoặc các loại vũ khí tấn công khác, và các lựa chọn an ninh của nước
này bị hạn chế nghiêm ngặt bởi sự thận trọng của nước này. Do đó, sự bảo vệ mà
nó nhận được từ Hoa Kỳ, bao gồm cả chiếc ô hạt nhân của Hoa Kỳ, là khơng thể
thiếu. Nhưng lợi ích của liên minh vượt ra ngoài chỉ Hoa Kỳ và Nhật Bản; nó đã
đóng một vai trị quan trọng trong việc duy trì ổn định khắp Châu Á Thái Bình
Dương. Ngay cả sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, vẫn còn rất ít chỗ để tranh luận
về sự cần thiết của việc duy trì một số đảm bảo rằng an ninh khu vực có thể được
duy trì, do tương lai khơng chắc chắn của Đơng Á đã được trích dẫn trong Tuyên
bố chung Hoa Kỳ-Nhật Bản năm 1996 về An ninh. Bất chấp sự hiện diện áp đảo
của những lợi ích chung quan trọng này, quan hệ Mỹ-Nhật đã và đang có những
dấu hiệu thay đổi rõ ràng. Ở cả hai quốc gia, các thuật ngữ đơn giản như "Nhật Bản
đánh bại", "Nhật Bản vượt qua" và thậm chí "Nhật Bản khơng có gì" đã được ném
xung quanh. Mối quan tâm
của Mỹ đối với Nhật Bản ngày càng mờ nhạt. Ngoài ra, ở Nhật Bản xu hướng coi
Hoa Kỳ là cường quốc bá chủ đang mờ dần.
Mối quan hệ Mỹ-Nhật đã
phát triển do những thay đổi cấu
trúc trong quan hệ giữa các quốc
gia do hệ thống Chiến tranh
Lạnh mang lại và sự sụp đổ sau
đó của nó. Nhưng hệ thống quốc
tế lại đang thay đổi, và mối quan
hệ Mỹ
- Nhật khơng thể thốt khỏi tác
động của sự thay đổi đó. Ngay cả
khi Hoa Kỳ vẫn là siêu cường
duy
nhất, sức mạnh tương đối của nó đã suy giảm. Khơng chỉ có quân đội Hoa Kỳ và
sức mạnh kinh tế suy giảm về mặt tương đối, nhưng "cơ quan đạo đức" của đất
nước cũng đã giảm do thiếu tính hợp pháp cho Chiến tranh Iraq và Lehman Shock.
Nhật Bản đã mất mát trong một hoặc hai thập kỷ và sự mong manh về chính trị của
đất nước do đã thay đổi thủ tướng năm lần — mỗi năm một lần — kể từ khi chính
quyền Koizumi kết thúc, đã hạ giá mạnh cổ phiếu của nó. Nhưng trong bối cảnh
của một hệ thống quốc tế đang thay đổi, Nhật Bản ngày càng độc lập và ít lệ thuộc
hơn vào Mỹ trong chính sách đối ngoại. Quan hệ Nhật-Mỹ hiện đang ở trong một
giai đoạn được coi là bước ngoặt lịch sử, trong đó cả hai nước, cũng như mỗi nước
đang đứng trước những thách thức chung mang tính chất sống cịn và do đó rất cần
sự hợp tác cùng nhau và hành động chung để hóa giải.
2. Mối quan hệ giữa Nhật Bản - Đơng Nam Á
2.1. Thúc đẩy hợp tác tồn diện với ASEAN
Nỗ lực củng cố quan hệ với Đông Nam Á được nâng cao vào cuối thế kỷ 20.
Sự phẫn nộ kéo dài về chiến tranh và thái độ vô cảm của các doanh nhân Nhật Bản
đối với người dân địa phương trong những năm 1960 đã tạo ra các cuộc bạo động
chống Nhật khi Thủ tướng Tanaka công du khu vực vào năm 1974. Sự tức giận đối
với Nhật Bản và cảm giác bị Nhật Bản bóc lột trong khu vực tiếp tục kéo dài đến
những năm 1980, khi đã nỗ lực để cải thiện tình hình. Các quốc gia Đơng Nam Á đặc biệt là Indonesia - đã trở thành nước nhận viện trợ phát triển rộng rãi của Nhật
Bản. Nhật Bản cũng nỗ lực làm việc với Việt Nam và Campuchia. Các lợi ích của
Nhật Bản ở Việt Nam chủ yếu là kinh tế, nhưng ở Campuchia, Nhật Bản đã đóng
một vai trị quan trọng trong việc vạch ra “kế hoạch hịa bình” của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc năm 1991 và giúp thực hiện nó vào năm sau; thơng qua Luật
Hợp tác Hịa bình Quốc tế bởi Chế độ ăn uống, qn đội khơng vũ trang từ Lực
lượng Phịng vệ của Nhật Bản đã tham gia vào hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên
hợp quốc, lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ hai mà các lực lượng Nhật Bản đã mạo
hiểm ở nước ngoài.
Kể từ khi nhậm chức năm 2012, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã đưa ra
nhiều sáng kiến trong hợp tác với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
có những điều chỉnh bước ngoặt trong chính sách an ninh. Tại Đối thoại Shangri-la
năm 2014, ông Abe tiếp tục mở ra cơ hội hợp tác với cam kết tăng cường hỗ trợ
ASEAN duy trì quyền tự do hàng hải, hàng không cũng như đảm bảo khả năng an
ninh của các quốc gia thành viên. Trong tổng thể chính sách đối ngoại của Nhật
Bản, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng ln có vị trí quan trọng, cả về chiến lược địa - chính trị, giúp phục hồi, tăng
trưởng kinh tế của nước này. Điều này được khẳng định qua việc Thủ tướng S.
Yoshihide chọn Đông Nam Á là điểm đến thăm đầu tiên sau khi nhậm chức. Trong
chuyến thăm, Thủ tướng S. Yoshihide nhấn mạnh, Nhật Bản và Hiệp hội các quốc
gia Đơng Nam Á (ASEAN) có thể hỗ trợ lẫn nhau và tăng cường quan hệ tương hỗ
vì hai bên đều có chung mục tiêu đưa vào thực thi các nguyên tắc cơ bản, như
thượng tôn pháp luật, mở cửa và minh bạch ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương.
2.2. Vấn đề an ninh khu vực Đơng Nam Á và điều chỉnh chính sách của Nhật
Bản
Trước đây, vai trò của Nhật Bản ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương chủ
yếu mới chỉ dừng lại ở cung cấp viện trợ để hỗ trợ các nước trong khu vực phát
triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là một cách để Nhật Bản bù đắp, chủ yếu là về kinh
tế và phát triển nói chung, cho những tổn thất to lớn mà nước này đã từng gây ra
trong quá khứ đối với các nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, hiện nay tình hình Nhật
Bản đang có những thay đổi. Dân số Nhật Bản ngày càng già hóa. Kinh tế - xã hội
Nhật Bản bước vào giai đoạn phải có những điều chỉnh căn bản.
Bước vào đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản mở rộng vai trị của mình ra các lĩnh
vực khác, kể cả quốc phòng-an ninh, trong đó nổi bật nhất là việc Nhật Bản đang
dần trở thành nước cung cấp ngày càng nhiều viện trợ cho Đông Nam Á trong một
số vấn đề an ninh, như thực thi pháp luật trên biển và can dự sâu hơn vào các vấn
đề an ninh khác. Nhật Bản cũng có tiếng nói ngày càng mạnh mẽ trong việc duy trì
trật tự, cấu trúc an ninh khu vực và luật pháp quốc tế.
Kể từ khi ông Sin-dô A-bê trở lại nắm quyền Thủ tướng Nhật Bản lần thứ
hai (tháng 12-2012), sự điều chỉnh chính sách của nước này đối với các vấn đề an
ninh khu vực nói chung và Biển Đơng nói riêng ngày càng rõ nét, mạnh mẽ hơn và
đạt được những kết quả tích cực ban đầu. Những điều chỉnh này được dự báo sẽ có
những tác động lâu dài và to lớn. Những thay đổi trong chính sách và sự cam kết
của Nhật Bản ở khu vực rất đáng để các nước trong và ngoài khu vực quan tâm
theo dõi. Để nâng tầm vai trị, vị thế của mình ở Biển Đông, Nhật Bản từng bước
điều chỉnh hàng loạt chính sách đối với nước nước ASEAN ở bốn khía cạnh chủ
chốt:
Một là, nâng cấp vấn đề cứu trợ nhân đạo và giảm nhẹ thiên tai (HA/DR)
trong chiến lược đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, Nhật Bản và
Hoa Kỳ đã từng bước xây dựng các chính sách riêng cho HA/DR tại khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản cũng tiến hành rất nhiều nghiên cứu nhằm đánh
giá và tìm hiểu giáo dục và đào tạo của các nước trong khu vực. Nó cung cấp một
gói từng nước để giúp các nước ASEAN nâng cao nhận thức về biển và hải đảo,
củng cố các
cơ quan thực thi pháp luật và tăng cường khả năng cứu hộ hàng hải. Hoa Kỳ, Nhật
Bản và các nước Đông Nam Á đã tiến hành các cuộc trao đổi và hội thảo khu vực
về các vấn đề liên quan đến HA/DR, chẳng hạn như xây dựng cơ chế và chiến lược
để thúc đẩy vai trò của lực lượng quân sự.
Hai là, điều chỉnh, sửa đổi chính sách viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Cho đến nay, điều lệ sử dụng ODA, ODA của Nhật Bản chủ yếu phục vụ các mục
đích dân sự, như phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu đa tầng,... Nhưng những năm
gần đây, do yêu cầu cấp bách khi tình hình thay đổi, Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi
điều lệ sử dụng ODA để đóng góp cho hịa bình và ổn định của cộng đồng quốc tế
và sử dụng ODA để ohucj vụ lợi ích của Nhật Bản với ba trụ cột sau đã được thực
hiện: Môi trường quốc tế tốt - Giúp các nước đang phát triển trong khu vực cùng
phát triển với Nhật Bản - Thúc đẩy an ninh con người và tăng cường niềm tin vào
Nhật Bản. Các sửa đổi đối với điều lệ sử dụng vốn ODA đã giúp Nhật Bản linh
hoạt hơn trong việc sử dụng viện trợ ODA cho các dự án liên quan đến quốc
phòng. Các nước nhận ODA (liên quan đến lĩnh vực qn sự và quốc phịng ) chỉ
cam kết khơng sử dụng ODA cho mục đích quân sự và các dự án viện trợ tiếp tục
được thực hiện như bình thường. Tuy nhiên, Nhật Bản đang tiếp cận vấn đề này
một cách rất thận trọng để đảm bảo tính hiệu quả và hạn chế sự nhạy cảm của nó.
Ba là, sửa đổi chính sách kiểm sốt xuất nhập khẩu. Nhật Bản đã rà sốt
nhiều quy định trong chính sách kiểm sốt xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng
quốc phòng, kỹ thuật và lưỡng dụng nhằm mở rộng phạm vi xuất khẩu. Triển khai
cơng nghệ, thiết bị cứu hộ, phịng thủ bờ biển,... cho các nước ASEAN.
Bốn là, tăng cường giúp ASEAN xây dựng năng lực an ninh biển. Để thực
hiện chương trình này, Nhật Bản đã đặt ra ba điểm cơ bản: Giúp các nước ASEAN
nâng cao năng lực nhận thức về biển; Tỏ ý sẵn sàng chuyển giao nhiều loại phương
tiện, trang thiết bị và cơng nghệ quốc phịng hiện đại cho các nước ASEAN (trên
cơ sở thỏa thuận cụ thể); Từng bước hỗ trợ các nước ASEAN tăng cường huấn
luyện,
đào tạo… Nhật Bản cũng đã phối hợp Mỹ, Australia và một số nước trong Nhóm
các nước cơng nghiệp phát triển (G7) để thúc đẩy việc xây dựng năng lực an ninh
biển cho ASEAN.
3. Quan hệ Nhật Bản - Nga
Về mặt kỹ thuật, Nhật Bản và Nga vẫn đang chiến tranh. Mặc dù Nhật Bản
đầu hàng Đồng minh vào tháng 9 năm 1945, kết thúc Thế chiến thứ hai, nhưng
Moscow và Tokyo chưa bao giờ ký hiệp ước hịa bình chính thức. Tranh chấp lãnh
thổ đối với bốn hịn đảo giữa đảo Hokkaidō quê hương của Nhật Bản và quần đảo
Kuril của Nga đã làm rạn nứt quan hệ song phương kể từ đó.
Gần đây Nhật Bản tuyên bố bốn hòn đảo Kuril mà nước này tranh chấp
quyền sở hữu với Moscow là “bị Nga chiếm đóng bất hợp pháp”, những căng
thẳng cũ đang bùng phát trở lại ở khu vực Thái Bình Dương.
Hình: Một chiếc xe tăng của Nga trên quần đảo Kuril trong một bức ảnh tập tin. Ảnh: Vladimir Sergeyev / TASS
Vào tháng 3 năm 2022, những mối quan hệ đó thậm chí cịn trở nên lạnh
nhạt hơn. Nga đã đình chỉ các cuộc đàm phán hiệp ước hịa bình với Nhật Bản sau
khi Tokyo áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Moscow vì cuộc xâm lược
Ukraine. Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đã phản ứng bằng cách lên án quyết
định của Nga là "cực kỳ vô lý và không chấp nhận được ." Quan hệ Nhật-Nga
dường như đang ở mức thấp mới.
Nhưng cách đây không lâu, một mối quan hệ hợp tác giữa Moscow và
Tokyo đã xuất hiện như một khả năng khác biệt. Trong hầu hết những năm 2010,
một trong những người tiền nhiệm của Kishida, Shinzō Abe, đã thúc đẩy một "cách
tiếp cận mới" đối với Nga - một cách nhằm giải quyết tranh chấp lãnh thổ lâu đời
của họ và qua đó mở đường cho một hiệp ước hịa bình. Bằng cách cải thiện quan
hệ với Nga, Abe đã tìm cách cho phép Nhật Bản chuyển trọng tâm an ninh của
mình sang một mối nguy đang gia tăng ở miền Nam, Trung Quốc. Thật không may
cho Abe, cách tiếp cận mới của ông cuối cùng sẽ không thành công, phần lớn là do
Nhật Bản thiếu đủ đòn bẩy để thúc đẩy Nga đi đến các điều khoản.
Tuy nhiên, cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga đã gây ra phản ứng
gay gắt từ Hoa Kỳ và hầu hết các đồng minh của họ ở châu Âu và châu Á, theo
thời gian, có thể tạo ra địn bẩy mà Nhật Bản cần để lơi kéo Nga trở lại bàn đàm
phán để giải quyết lãnh thổ của họ. tranh chấp và ký kết hiệp ước hòa bình. Mặc dù
việc Nhật Bản sử dụng địn bẩy đó sẽ làm suy yếu các biện pháp trừng phạt kinh tế
do Mỹ dẫn đầu đối với Nga, nhưng làm như vậy có thể cải thiện vị thế của Mỹ ở
Ấn Độ Dương
– Thái Bình Dương về lâu dài.
4. Quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc
Nhật Bản và Hàn Quốc bình thường hóa quan hệ vào năm 1965. Nhưng kể
từ đó, quan hệ song phương trở nên căng thẳng do những vấn đề lịch sử chưa được
giải quyết bắt nguồn từ thời kỳ thuộc địa và Thế chiến thứ hai. Hai quốc gia đã đạt
được những bước tiến trong những năm 1990, khi chính phủ Nhật Bản đưa ra
những tuyên
bố đột phá xin lỗi về chế độ
thực dân và sự xâm lược
của Đế quốc Nhật Bản cũng
như việc họ tham gia vào
việc điều hành các trạm
“comfort women”- một hệ
thống buộc phụ nữ Hàn
Quốc làm nơ lệ tình dục cho
qn đội Nhật Bản.
Hình: Vấn đề "Phụ nữ mua vui" trong thế chiến thứ II là một rào cản tỏng
quan hệ giữa Nhật Bản và Hàn Quốc (Ảnh: Yohap)
Vào cuối năm 2018, quan hệ giữa
Seoul và Tokyo đã đạt đến một trong
những giai đoạn tồi tệ nhất khi Tòa án
Tối cao Hàn Quốc yêu cầu hai công ty
Nhật Bản bồi thường cho những người
lao động Hàn Quốc bị cưỡng bức. Phán
quyết này đã thách thức quan điểm của
chính phủ Nhật Bản rằng Hiệp định Yêu
sách năm 1965 đã giải quyết tất cả các
yêu sách "hoàn toàn và cuối cùng." Cùng
thời điểm đó, Tổng thống Hàn Quốc lúc
bấy giờ là Moon Jae-in đã rút lui khỏi
một thỏa thuận song phương năm 2015
để giải quyết vấn đề “phụ nữ thoải mái”
trong thời chiến mà ơng Moon gọi là
thiếu sót. Nhật Bản đã trả đũa bằng cách
áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu
đối với các hóa chất được sử dụng bởi
các nhà sản xuất chất bán dẫn của Hàn
Quốc và loại
quyết tái xuất hiện từ những kỷ nguyên
bỏ Hàn Quốc
gay gắt trong lịch sử chung của họ. Tuy
khỏi
“danh
nhiên, các nhà lãnh đạo hiện tại của hai
sách trắng” các
quốc gia Đơng Á đã thể hiện thiện chí
đối tác thương
muốn xây dựng lại quan hệ. Và trong bối
mại được ưu
tiên. Hàn Quốc
đáp trả bằng
các biện pháp
đối phó tương
tự, loại Nhật
Bản khỏi danh
sách trắng của
chính họ và đe
dọa chấm dứt
thỏa thuận chia
sẻ
thông
tin
quân sự song
phương.
Mối
quan hệ giữa
Nhật Bản và
Hàn Quốc đã
trở nên tồi tệ
trong
những
năm gần đây
sau khi những
tranh
chấp
chưa được giải
cảnh Triều Tiên hùng biện về hạt nhân và các mục tiêu mở rộng của Trung Quốc
trong khu vực, chuyến đi gần đây của Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Jin tới
Nhật Bản được coi là dấu hiệu đầu tiên đáng hoan nghênh về sự tan băng trong
căng thẳng song phương.
Hình: Tổng thống Mỹ Joe Biden đứng giữa gặp Tổng thống Yoon Suk-yeol của Hàn Quốc, bên trái và Thủ tướng
Fumio Kishida của Nhật Bản tại hội nghị thượng đỉnh NATO ở Madrid, Tây Ban Nha. Ngày 29 tháng 6 năm 2022.
(Kenny Holston / The New York Times)
5. Quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2022, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP) có hiệu lực. RCEP có tầm quan trọng kinh tế đáng kể vì đây là quan hệ đối
tác kinh tế tồn diện đầu tiên ở Đơng Á bao gồm ba nước lớn trong khu vực: Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Hình: Thủ tướng Fumio Kishida (Nguồn: The Japan Times)
Ngày 20 tháng 8 năm 2020, báo Nhật Bản đưa tin rằng Nhật Bản sẽ xem xét
tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh giữa Thủ tướng Fumio Kishida và nhà lãnh đạo
Trung Quốc Tập Cận Bình, nhật báo kinh doanh Nikkei dẫn lời Bộ trưởng Ngoại
giao Nhật Bản Yoshimasa Hayashi cho biết trong một cuộc phỏng vấn hôm thứ
Sáu.
Mối quan hệ Trung-Nhật từ lâu đã vướng vào tranh chấp lãnh thổ đối với
một nhóm đảo nhỏ khơng có người ở trên Biển Hoa Đông, di sản của sự xâm lược
trong thời chiến của Nhật Bản và sự cạnh tranh trong khu vực. Cuộc gặp có thể
diễn ra dưới hình thức hội đàm trực tiếp hoặc trò chuyện qua điện thoại, nhưng
nhiều khả năng nó sẽ là hội nghị trực tuyến vào mùa thu này, Nikkei cho biết.
Tháng 10 năm ngối, Kishida và ơng Tập đã đồng ý tìm kiếm mối quan hệ
“mang tính xây dựng và ổn định” trong thời gian tới kỷ niệm 50 năm quan hệ song
phương vào tháng tới trong cuộc điện đàm đầu tiên kể từ khi nhà lãnh đạo Nhật
Bản nhậm chức.
Hôm thứ Năm, Chính phủ Nhật Bản cho biết cố vấn an ninh quốc gia hàng
đầu của họ và người đồng cấp Trung Quốc đã đồng ý trong cuộc đàm phán rằng
các nước sẽ tiếp tục đối thoại hướng tới xây dựng quan hệ song phương mang tính
xây dựng và ổn định, bất kể căng thẳng gia tăng về Đài Loan.
Trong cuộc họp kéo dài khoảng bảy giờ vào thứ Tư tại thành phố Thiên Tân
của Trung Quốc, Takeo Akiba, Tổng thư ký Ban Thư ký An ninh Quốc gia Nhật
Bản, đã phản đối người đứng đầu chính sách đối ngoại của Trung Quốc Dương
Khiết Trì về các cuộc tập trận quy mô lớn gần đây của Bắc Kinh gần Đài Loan,
theo một người Nhật. quan chức chính phủ.
Cuộc hội đàm của họ diễn ra khi Tokyo và Bắc Kinh chuẩn bị kỷ niệm 50
năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao, mặc dù khơng bên nào có tâm trạng tổ
chức một lễ kỷ niệm lớn sau khi quan hệ song phương xấu đi nhanh chóng gần đây
về vấn đề Đài Loan.
Với cuộc hội đàm cấp cao mới nhất được tổ chức theo yêu cầu của Trung
Quốc, hai nước được cho là đã thảo luận về việc hàn gắn quan hệ và đặt nền móng
cho cuộc gặp thượng đỉnh giữa Kishida và ông Tập.
Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở các khu vực bao quanh
Đài Loan để đáp lại chuyến thăm vào đầu tháng này tới hòn đảo của Chủ tịch Hạ
viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi, quan chức cấp cao thứ ba của nước này. Akiba nhắc lại
sự phản đối của Nhật Bản về việc Trung Quốc bắn tên lửa đạn đạo, 5 trong số đó
rơi trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản trong cuộc tập trận và nhấn mạnh
tầm quan trọng của hịa bình và ổn định trên eo biển Đài Loan, theo quan chức này.
Yang, một thành viên của Bộ Chính trị ra quyết định của Đảng Cộng sản, cho biết
Đài Loan là “một phần lãnh thổ không thể xâm phạm của Trung Quốc,” và câu hỏi
của Đài Loan liên quan đến “nền tảng chính trị của quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản
và lịng
tin cơ bản và thiện chí giữa hai theo chính phủ Trung Quốc. Ông cho biết lịch sử
2.000 năm giao lưu giữa hai nước và kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao
năm nay đã dạy cho cả hai bên rằng “chung sống hịa bình và hợp tác hữu nghị là
sự lựa chọn đúng đắn duy nhất”. Yang cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải "loại bỏ
sự can thiệp bên trong và bên ngoài, và cùng nhau xây dựng mối quan hệ Trung
Quốc- Nhật Bản đáp ứng các u cầu của kỷ ngun mới", theo chính phủ Trung
Quốc.
Ngồi căng thẳng về việc Đài Loan tự trị, Trung Quốc khơng có dấu hiệu
dừng các tàu tuần dun liên tục xâm nhập vào vùng biển của Nhật Bản xung
quanh quần đảo Senkaku do Tokyo kiểm soát, nơi cũng bị Bắc Kinh tuyên bố chủ
quyền, gọi chúng là Điếu Ngư.
III.
Gia tăng ảnh hưởng của Nhật Bản trong các thể chế và tổ chức hợp
tác đa phương
Các tổ chức quốc tế có liên quan rõ ràng đối với các cuộc tranh luận lâu năm
liên quan đến sự tham gia của Nhật Bản với phần còn lại của thế giới. Nhiều thách
thức mà
Các chính sách đối ngoại của giới tinh hoa Nhật Bản đã phải đối mặt kể từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấp nhận các tổ chức quốc tế, ở nhiều mức độ
khác nhau và vì các động cơ khác nhau. Như nhau đúng khi thế kỷ XXI bắt đầu và
các nhà lãnh đạo Nhật Bản xem xét cách tốt nhất để quản lý một môi trường an
ninh và kinh tế đang phát triển nhanh chóng và thay đổi kỳ vọng đối với chính sách
đối ngoại của Nhật Bản từ bên trong và bên ngoài Nhật Bản. Ngoài những tình
huống khó xử và thách thức vốn có trong mơi trường quốc tế đang thay đổi, việc
tái cơ cấu nội bộ kinh tế và chính trị của Nhật Bản là kiên định đưa Nhật Bản tham
gia sâu hơn vào các cam kết và mạng lưới quốc tế.
Người Nhật đóng vai trị tích cực trong các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế được thành lập nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng
quốc tế. Những người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau tham gia các tổ chức quốc tế
này và dựa trên các kỹ năng và đặc điểm của họ để tạo ra một môi trường nơi mọi
người trên thế giới có thể tận hưởng hịa bình, an ninh và thịnh vượng. Có nhiều tổ
chức quốc tế để giải quyết các vấn đề tồn cầu; ví dụ, xóa đói giảm nghèo, biến đổi
khí hậu, nhân quyền, các vấn đề nhân đạo, lương thực, năng lượng, bảo vệ người tị
nạn, ngăn ngừa xung đột / xây dựng hịa bình, y tế, giáo dục, việc làm và trao
quyền
cho phụ nữ. Cần có những cá nhân có năng lực với kiến thức chun mơn, đam mê
và khả năng đóng góp cho thế giới ngồi khn khổ của các quốc gia để các tổ
chức
quốc tế có thể thực hiện một cách thành thạo nhiệm vụ của mình và hồn thành đầy
đủ các vai trị mà họ mong đợi. Ngồi việc đóng góp tài chính cho các tổ chức
quốc
tế giải quyết cơng việc thơng qua ngân sách thường xun và đóng góp tự nguyện,
Nhật Bản cịn đóng góp về trí tuệ và nhân lực thơng qua vai trị tích cực của đội
ngũ
nhân viên Nhật Bản.
Hiện nay, khoảng 800 công dân Nhật Bản đang làm nhân viên chuyên nghiệp
trong các cơ quan liên quan đến LHQ trên khắp thế giới. Số lượng nhân viên Nhật
Bản đã tăng hơn 100 người kể từ năm 2000, cho thấy sự mở rộng đóng góp về trí
tuệ
và nhân sự của Nhật Bản. Tuy nhiên, so với số lượng nhân viên chuyên nghiệp của
các nước thành viên G7 khác, vượt q 1.000 người, thì sự đóng góp của nhân sự
Nhật Bản vẫn chưa đủ.