Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN rèn kĩ năng viết đoạn văn cho hs lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.92 KB, 26 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh của sáng kiến
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được cái gì qua việc học. Đây được xem là chìa khóa để đổi mới giáo dục với
phương châm “học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự
khẳng định mình”. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện thành cơng việc
chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách
học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm
chất. Kiến thức ở bậc Tiểu học đơn giản, gần với cuộc sống nên học sinh hồn
tồn có thể tự hình thành kiến thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
Điểm mấu chốt là giáo viên phải có năng lực chuyển nội dung kiến thức thành
các hoạt động học tập, biết tổ chức hoạt động học, làm chủ các tình huống để
hướng dẫn học sinh khám phá, tìm hiểu kiến thức; đồng thời biết động viên học
sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập.
Ở bậc Tiểu học, hai môn học chiếm thời lượng chủ đạo là môn Tốn và
Tiếng Việt; trong đó mơn Tiếng Việt có vai trị đặc biệt quan trọng. Bởi mơn
Tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
để học tập và giao tiếp. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn
luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về
con người, xã hội, văn hóa của Việt Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng tình u
tiếng Việt là góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh được thể hiện
thông qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết, Kể
chuyện và Tập làm văn. Trong đó Tập làm văn là phân mơn có tính tích hợp
cao về kiến thức cũng như kỹ năng mà học sinh đã lĩnh hội từ các phân môn
khác. Đặc biệt đối với học sinh lớp 3, bài Tập làm văn của các em là sản phẩm
của sự vận dụng tổng hợp các kiến thức và kỹ năng tiếp thu được trong q
trình học tập. Tập làm văn góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống,
luyện tư duy logic, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ, hình thành nhân


cách của học sinh. Tập làm văn, viết văn là cái đích cuối cùng của việc học
mơn Tiếng Việt. Đối với HS Tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt
mạch lạc đã khó; để nói hay, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó
hơn nhiều. Chưa kể tới việc dạy học Tập làm văn hiện nay ở các trường
1


Tiểu học chỉ mang tính chất đối phó với các kì kiểm tra, chưa thực sự
truyền được cho các em cảm hứng khi viết văn, để các em biết nhìn nhận
cái đẹp ngay từ những điều bình dị trong cuộc sống. Cái khó ấy địi hỏi
người GV phải trăn trở, tìm tịi giúp HS đạt tới. Từ đó, các em được mở
rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ,
hình thành nhân cách.
2. Lý do chọn đề tài
Qua thực tế giảng dạy phân môn Tập làm văn ở Tiểu học trong những
năm qua, tôi nhận thấy: Cùng với sự đổi mới về nội dung, chương trình thì
yêu cầu đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học. Với đặc trưng của phân
môn là thực hành, do đó giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh thực hành
sao cho có hiệu quả, tránh dạy theo lối cũ “làm mẫu” cho học sinh học
thuộc. Đặc biệt, giáo viên phải truyền được cho học sinh “ngọn lửa” đam mê
với việc viết văn. Tuy nhiên, đây là một vấn đề không phải người giáo viên
nào cũng có thể làm tốt được, đặc biệt là trong việc xây dựng hệ thống các
bài tập để rèn luyện các kĩ năng phục vụ để viết văn cho học sinh còn lúng
túng, đơn điệu, nghèo nàn... Mặt khác, học sinh được học viết đoạn văn bắt đầu
từ lớp 2 và được nâng lên một bước ở lớp 3 với những đề tài rộng hơn, mới mẻ và
đòi hỏi nhiều kiến thức thực tế....Đây là một bước chuyển mới, nếu giáo viên
không chuẩn bị cho học sinh một cách chu đáo và nếu khơng có những phương
pháp khoa học, hợp lí trong giảng dạy thì kết quả sẽ khó đạt được như mong muốn.
Trong thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh lớp 3 đa số viết đoạn văn theo
cách trả lời từng câu hỏi gợi ý sau đó lắp ráp một cách máy móc thành đoạn

văn; rất hiếm khi có một đoạn văn chau chuốt và chứa đựng cảm xúc. Học sinh
lúng túng với những chủ đề mới, chưa biết quan sát, chọn lọc chi tiết và sắp
câu, ý thành đoạn văn hồn chỉnh. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa
chọn đề tài:“Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3.”
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của sáng kiến
- Phạm vi áp dụng sáng kiến: Sáng kiến này được áp dụng tại Trường Tiểu
học Thanh Bình cũng có thể áp dụng rộng rãi trong các trường Tiểu học trong
huyện cũng như trong tỉnh về rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3.
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về một số biện pháp rèn kĩ năng viết
đoạn văn trong môn Tiếng Việt lớp 3.

2


4. Mục đích nghiên cứu của sáng kiến
- Đề xuất một số giải pháp giúp các em học sinh viết được những đoạn
văn hay của phân môn Tập làm văn lớp 3 nói riêng, mơn Tiếng Việt nói chung.
- Giúp học sinh có năng lực viết đoạn văn, để từ đó các em sử dụng được
Tiếng Việt làm cơng cụ giao tiếp, tư duy.
- Qua đó, giáo viên tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học Tập
làm văn diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả cao; từ đó nâng cao năng lực chun
mơn và chất lượng dạy học.

3


PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng việc rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3
1. Cơ sở lý luận
Theo GS.TS Lê Phương Nga (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) đã viết

trong cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”: Với học sinh lớp 3,
viết đoạn văn là những bài tập khó nhất, địi hỏi sự sáng tạo nhất, chúng yêu
cầu HS phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về
các đối tượng được kể và các kĩ năng ngơn ngữ đã được hình thành từ trước đó
để tạo lập được đoạn văn. Đây là quá trình chuyển từ ý đến lời, ý và lời có sự
thống nhất nhưng không đồng nhất. Trước hết giáo viên phải luyện cho HS diễn
đạt đúng những điều muốn nói, viết. Tiếp đó, một ý có thể được diễn tả thành
những lời khác nhau. Học sinh pải biết chọn lựa cách diễn đạt nào có hiệu quả
giao tiếp tốt nhất. [1;268] Cuốn sách đã đưa ra được cách dạy bài thực hành
luyện nói và luyện viết của học sinh lớp 3 tuy nhiên không đi sâu vào việc đưa
ra được những giải pháp thiết thực để giúp học sinh viết được đoạn văn hay.
Theo bà Lê Phương Liên (Nguyên Giáo viên khoa Giáo dục Tiểu học –
Đại học Sài Gòn) – tác giả cuốn sách “Luyện kĩ năng viết các kiểu đoạn văn cho
học sinh lớp 2 và 3” cho rằng: Hiện nay,trong q trình giảng dạy Tập làm văn,
giáo viên cịn gặp khó khăn nhiều trong việc rèn kĩ năng viết các kiểu bài làm
văn cho các em. Với học sinh, khi viết, một số em cịn viết sai chính tả, dùng từ,
viết câu chưa chính xác, cịn lặp từ, lặp ý, chưa biết sử dụng hệ thống dấu câu
trong Tiếng Việt, chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ để bài viết thêm phong
phú. Các em cũng chưa biết cách liên kết các câu thành đoạn văn,liên kết các
đoạn thành bài... Một số em chưa phân biệt được cách viết các bài miêu tả, kể
chuyện,.... Từ viết đúng tới viết hay là cả một quá trình rèn luyện của học
sinh.Hoạt động viết cũng có ở phân mơn Chính tả. Nhưng ở Tập làm văn, các
em được rèn viết theo nhiều chủ đề phong phú. Chính vì vậy, nếu ta biết giúp
học sinh viết đúng, viết hay các kiểu bài tập làm văn thì nhất định, năng lực viết
của các em sẽ được phát triển. Trong vai trò người tổ chức, hướng dẫn các em
học tập làm văn, giáo viên cần giúp học sinh có được những "sản phẩm" của
chính mình chứ không phải là "sản phẩm" vay mượn, sao chép. [2;2] Cuốn sách
này của bà đã đề cập đến cách hướng dẫn viết các kiểu bài văn cho học sinh lớp
3, tuy nhiên vẫn chưa chỉ ra được các lỗi học sinh thường gặp khi viết đoạn văn
và cách khắc phục; đồng thời các giải pháp để học sinh viết đúng, viết hay vẫn

cịn khá ít ỏi và mờ nhạt.
Đã có nhiều tài liệu của các giáo viên nghiên cứu về việc rèn cho học sinh
kĩ năng viết đoạn văn nhưng chưa có một tài liệu chính thống nào nói về vấn đề
4


này. Đặc biệt cũng khơng có bất cứ tài liệu nào đề cập đến việc phát triển kĩ
năng sử dụng từ ngữ để có thể viết được một đoạn văn có nhiều hình ảnh đẹp.
Thực tế cho thấy chưa có một tài liệu chuyên biệt nào nói về vấn đề đó mà chủ
yếu chỉ có những cuốn sách đưa sẵn những bài, đoạn văn hay cho học sinh tham
khảo.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Đặc điểm tình hình của đơn vị
Năm học 2017–2018, Trường Tiểu học Thanh Phong có 402 học sinh
được chia làm 14 lớp. Khối 3 có 53 học sinh được chia làm 2 lớp, trong đó lớp
3B có 26 học sinh.
Năm học 2018–2019, Trường Tiểu học Thanh Bình có 474 học sinh được
chia làm 11 lớp. Khối 3 có 50 học sinh được chia làm 2 lớp, trong đó lớp 3B có
25 học sinh.
Năm học 2019–2020, Trường Tiểu học Thanh Bình có 332 học sinh được
chia làm 17 lớp. Khối 5 có 91 học sinh được chia làm 3 lớp, trong đó lớp 5B có
33 học sinh.
Ở tất cả các năm học, các em học sinh đều ngoan ngỗn, vâng lời thầy cơ,
có ý thức tự giác trong học tập. Hầu hết các bậc cha mẹ đều quan tâm đến con
em mình. Nhiều em u thích học mơn Tiếng Việt nhưng số học sinh có kĩ năng
viết đoạn văn lại rất hạn chế, đặc biệt là ít có đoạn văn hay.
2.2. Thực trạng việc dạy- học viết đoạn văn ở lớp 3
a) Thực trạng việc dạy phân môn Tập làm văn của giáo viên
- Nhiều giáo viên chưa chú ý đến việc truyền cho học sinh niềm đam mê
khi viết văn, chủ yếu khi dạy viết văn trên lớp mới chỉ mang tính chất đối phó

với các kì kiểm tra.
- Giáo viên còn chưa đề cao việc dạy Tiếng Việt trên quan điểm giao tiếp tích hợp nên kết quả đoạn văn của học sinh chưa cao.
b) Thực trạng việc học phân môn Tập làm văn của học sinh
- Học sinh chưa hiểu thế nào là đoạn văn và các kiểu cấu trúc của đoạn
văn. Ví dụ: có học sinh khi thực hiện yêu cầu viết đoạn văn nhưng mỗi câu lại
xuống dòng một lần. Hoặc các ý trong đoạn khơng sắp xếp theo một trình tự nào
khiến đoạn văn trở nên lủng củng.
- Viết câu chưa đúng (về nội dung hoặc hình thức câu). Mặt khác học sinh
chưa chú ý đến việc sử dụng đúng dấu câu, có học sinh khi viết cả 1 đoạn văn
mới có 1 dấu chấm.

5


- Thái độ học sinh khi viết văn còn mang tính chất đối phó, chủ yếu trả lời
câu hỏi theo gợi ý của đề bài. Học sinh ngại quan sát, ngại tìm tịi từ ngữ thích
hợp khi viết văn. Thậm chí có học sinh cịn chép văn mẫu sau đó học thuộc.
- Một số học sinh có năng khiếu chưa viết được câu văn có hình ảnh đẹp;
chưa biết sử dụng từ ngữ gợi tả, gợi cảm; chưa biết chọn lọc chi tiết khi quan sát
và đặc biệt chưa có ý thức sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh khi viết văn.
Qua điều tra về các lỗi khi viết đoạn văn của học sinh trong lớp đầu năm
học 2017-2018 (lớp 3A) và đầu năm học 2018- 2019 (lớp 3B) tôi dạy và đã thu
được kết quả sau :
Đầu năm học 2017-2018
Các lỗi thường gặp
Không biết sắp xếp ý trong đoạn văn
Dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
Chưa biết chọn lọc chi tiết và hình ảnh khi tả, kể
Lặp từ
Chưa biết lồng ghép các biện pháp nghệ thuật so sánh

và nhân hóa.
Viết đoạn văn theo dạng trả lời câu hỏi của đề bài
Đầu năm học 2018-2019

Tỉ lệ
13.3%
16.7%
13.3%
30.0%
26.7%

Các lỗi thường gặp
Không biết sắp xếp ý trong đoạn văn
Dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
Chưa biết chọn lọc chi tiết và hình ảnh khi tả, kể
Lặp từ
Chưa biết lồng ghép các biện pháp nghệ thuật so sánh
và nhân hóa.
Viết đoạn văn theo dạng trả lời câu hỏi của đề bài
Cụ thể kết quả thu được ở các năm học như sau:

Tỉ lệ
17%
15%
33%
15%
20%

Năm học


Tổng số

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

50%

53%
Chưa hoàn thành

SL
%
SL
%
SL
%
2017-2018
26
3
11,5
16
61,5
7
27
2018-2019
25
2
8
17

68
6
24
Với kết quả như trên thực sự là một vấn đề đáng lo ngại, vì thế tơi đã trăn
trở tìm ra những khó khăn học sinh thường mắc phải, chỉ ra nguyên nhân từ đó
rút ra biện pháp tháo gỡ thực trạng trên.
* Nguyên nhân dẫn đến sai lầm của HS
- HS chưa thực sự yêu thích việc viết văn.
6


- Học sinh có ít vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và chưa biết vận dụng
hiểu biết đó để phục vụ cho việc viết đoạn văn.
- Học sinh chưa biết tích hợp khi học các phân mơn của Tiếng Việt để phục
vụ cho việc viết đoạn văn.
- Kĩ năng nói của học sinh cịn yếu.
- HS chưa biết cách viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết về nội dung. Khả
năng tưởng tượng để so sánh và nhân hóa cịn hạn chế
- HS chưa biết chữa những lỗi sai trong đoạn văn.
Trong quá trình làm đề tài này, tơi đã tìm hiểu rất kĩ về đặc điểm tâm sinh
lý của học sinh, khảo sát thông qua chấm bài, trao đổi trực tiếp với học sinh và
các giáo viên dạy lớp 3 khác. Tôi đã phát hiện các sai lầm phổ biến của học sinh
trong viết đoạn văn cũng như nguyên nhân của những sai lầm đó. Từ đó, tôi
mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3.
II. Nội dung của sáng kiến.
1. Các biện pháp mới đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1.1 Biện pháp thứ nhất: Bồi dưỡng tâm hồn, bồi dưỡng tình yêu đối với việc
viết văn cho học sinh.
Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh thực sự yêu thích viết văn, thấy được cái
hay, cái đẹp của việc viết văn qua các tác phẩm văn học.

Các bước thực hiện biện pháp:
Bước 1:
Khuyến khích học sinh có thói quen đọc sách. Cần thường xuyên đọc thơ,
văn để bồi dưỡng lòng yêu văn học, thấy được sự trong sáng, phong phú và đặc
sắc của ngôn ngữ dân tộc, nâng cao năng lực xúc cảm, trau dồi lịng hướng
thiện.... Giáo viên có thể tìm hiểu thêm về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm để kích thích trí tị mị của học sinh, phân tích cái hay, cái đẹp để học sinh
cảm thụ được tác phẩm một cách toàn diện nhất. Trong các tiết đọc ở thư viện,
giáo viên giới thiệu cho HS những cuốn sách, truyện có những đoạn văn hay để
học sinh tham khảo.
Bước 2:
Yêu cầu học sinh nêu lại những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp hoặc các
biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng ở đoạn văn, đoạn thơ đó. Chỉ ra
đoạn văn đó tại sao lại hấp dẫn người nghe, người đọc?
Bước 3:

7


Từ những đoạn văn hay mà học sinh đã được đọc, giáo viên yêu cầu học
sinh viết lại theo cách hiểu của riêng mình về vấn đề đó vào sổ tay văn học. Tiếp
xúc với nhiều đoạn văn hay, học sinh sẽ học được ở đó cách dùng từ, đặt câu và
sắp xếp ý để cho ra những đoạn văn mang màu sắc của riêng học sinh.
1.2 Biện pháp thứ 2: Giúp học sinh tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống để phục vụ cho việc viết đoạn văn
Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh tích lũy vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống để phục vụ cho việc viết đoạn văn.
Các bước thực hiện biện pháp:
Bước 1: Quan sát
Học sinh cần hiểu được có những cảnh vật, sự vật, con người, sự việc diễn

ra quanh ta tưởng chừng như tất quen thuộc nhưng nếu ta không chú ý quan sát,
nhận xét để ghi nhớ và có cảm xúc thì khó mà làm giàu thêm vốn hiểu biết của
mình. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ quan sát ở nhà từ tiết trước hoặc giáo viên
đưa học sinh đi quan sát trực tiếp.
Ví dụ: Với yêu cầu: Viết đoạn văn kể về cảnh đẹp của quê hương em. thì
giáo viên yêu cầu HS thực hiện quan sát trước ở nhà theo gợi ý của giáo viên. Ví
dụ như:
+ Q hương em có những cảnh đẹp gì? (hồ nước, dịng sơng, đầm sen, cánh
đồng, cây đa,…)
+ Tả chi tiết về một cảnh đẹp mà em thích nhất.
+ Ngắm nhìn cảnh đẹp của q hương, em có những cảm xúc gì?
Khi học sinh quan sát cần thực hiện các bước sau:
- Xác định mục đích quan sát
- Quan sát từ xa đến gần, từ trên xuống dưới hay quan sát theo trình tự
thời gian,…
- Cần biết chọn lọc chi tiết khi quan sát, chú trọng tới đặc điểm riêng,
tập tính riêng của sự vật.
Bước 2: Ghi chép kết quả quan sát theo định hướng của giáo viên
Học sinh ghi lại các kết quả quan sát theo như định hướng của giáo viên
đề ra vào sổ tay văn học.
Bước 3: Sắp xếp các ý trong sổ tay văn học để viết thành đoạn văn
Học sinh sắp xếp lại các ý đã ghi chép được theo cấu trúc đã chọn sau đó
lựa chọn từ ngữ thích hợp, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật tu từ để viết
thành đoạn văn.
8


1.3/ Biện pháp thứ 3: Áp dụng quan điểm tích hợp khi dạy học các
phân môn của Tiếng Việt để phục vụ cho việc viết đoạn văn
Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh tích lũy vốn từ, học cách viết

câu, áp dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa để viết đoạn văn.
Các bước thực hiện biện pháp:
1.3.1 - Khi dạy phân môn Tập đọc – Kể chuyện
Khi dạy Tập đọc, tôi yêu cầu các em nắm chắc từng nội dung đoạn văn và
ý nghĩa nội dung cả bài. Yêu cầu học sinh đọc kĩ những đoạn văn hay sau đó gợi
ý để các em phát hiện ra được tại sao khi đọc những đoạn văn đó người đọc lại
thấy hay, thấy hấp dẫn. Khi dạy kể chuyện cũng vậy tôi dẫn dắt các em nắm
chắc nội dung ý nghĩa câu chuyện, hiểu rõ tâm trạng từng nhân vật.
1.3.2 - Khi dạy Luyện từ và câu
a. Mở rộng vốn từ
Khi dạy bài mở rộng vốn từ, ngoài những từ ngữ đề cập trong hệ thống
bài tập, giáo viên cần tìm thêm nhiều từ ngữ khác ngồi thực tế . Ngoài ta,
phải chú trọng tới dạng bài tập dạy nghĩa từ vì phải hiểu đúng nghĩa của từ mới
có thể sử dụng từ để viết câu.
Ví dụ: Khi dạy bài mở rộng vốn từ về quê hương (Bài 11B – HDH Tiếng
Việt 3 tập 1 – trang 87), ngoài những từ chỉ sự vật ở quê hương mà học sinh tìm
được qua hoạt động 4, giáo viên cho học sinh tìm thêm những từ chỉ sự vật ở
quê hương : đầm sen, cánh đồng, cây đa, bến nước, sân đình … Hoặc yêu cầu
học sinh nêu thêm các từ chỉ tình cảm đối với quê hương : nhớ thương, yêu quý,
thương yêu, tự hào,…
Từ đó học sinh sẽ mở rộng được thêm rất nhiều từ, do vậy khi viết đoạn
văn “Kể về quê hương em” chắc chắn học sinh sẽ viết tốt hơn.
Đồng thời, giáo viên phải phân tích là cho học sinh thấy được tác dụng
của việc sử dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong việc viết văn.
Ví dụ: Nhận xét về cách sử dụng từ được gạch chân trong đoạn văn sau:
“Diệu kì thay, trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình
minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển
nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang
màu xanh lục.”.
(Cửa Tùng – HDH Tiếng Việt 3 tập 1 – Trang 105)


9


(Những từ gạch chân là những từ tả màu sắc. Đoạn văn có nhiều từ chỉ
màu sắc cho thấy sự quan sát tinh tế của tác giả về sự thay đổi màu sắc của nước
biển theo thời gian. Nhờ cách sử dụng từ ngữ gợi tả đó mà cảnh biển Cửa Tùng
như hiện ra trước mắt của người đọc với những nét đẹp độc đáo mà mẹ thiên
nhiên ban tặng.)
b. Hướng dẫn viết câu
Để viết được câu đúng, trước hết học sinh phải hiểu được thế nào là một
câu. Về hình thức: đầu câu phải viết hoa, cuối câu có dấu câu. Về nội dung: câu
phải diễn đạt một ý trọn vẹn. Câu phải có đủ bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai (cái
gì ?con gì ? và bộ phận câu trả lời cho câu hỏi Là gì ?/Làm gì ?/ Thế nào ?
Ví dụ : - Em sinh ra và lớn lên ở một vùng nông thôn thanh bình.
Câu chưa đủ ý : Em sinh ra và lớn lên.
Cái khó nhất với học sinh đó là phải viết câu đủ ý. Điều này địi hỏi khi
nói học sinh cũng phải nói cho đủ ý, gãy gọn thì khi viết mới tạo thành câu. Vì
vậy, ngồi kĩ năng viết câu giáo viên còn phải rèn cho học sinh kĩ năng nói thành
câu. Điều này phải được thực hiện ở tất cả các mơn học chứ khơng riêng gì mơn
Tiếng Việt.
b. Khi dạy về so sánh và nhân hóa
Trong văn học có rất nhiều biện pháp tu từ song ở chương trình Tiếng
Việt 3 chỉ đề cập đến hai biện pháp tu từ điển hình đó là: Biện pháp tu từ
nhân hoá và so sánh.
Trước hết, học sinh phải nhận thức được tại sao phải áp dụng biện pháp tu
từ so sánh và nhân hóa vào để viết văn thì mới có được những đoạn văn hay. Vì
vậy, khi dạy so sánh và nhân hóa, giáo viên phải đặc biệt nhấn mạnh tác dụng
của hai biện pháp nghệ thuật này.
+ Tác dụng của biện pháp so sánh: So sánh tạo ra những hình ảnh

cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so sánh đều lấy cái cụ thể so
sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp mọi người
hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả. So sánh
còn giúp cho câu văn hàm xúc, gợi trí tưởng tượng của ta bay
bổng.
Ví dụ: Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc
lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển. (Cửa Tùng –
HDH Tiếng Việt 3 tập 1 – Trang 105)

10


+ Tác dụng của biện pháp nhân hóa: Nhờ có biện pháp nhân hóa mà thế
giới của các sự vật trở nên sống động, gần gũi như thế giới con người, qua đó
biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của người viết.
Ví dụ : Mặt trời gác núi
Bóng tối lan dần,
Anh Đóm chuyên cần
Lên đèn đi gác.
Theo làn gió mát
Đóm đi rất êm,
Đi suốt một đêm
Lo cho người ngủ.
(Anh Đom Đóm – HDH Tiếng Việt 3 tập 1 – Trang 135)
Đối với hai biện pháp tu từ này sách giáo khoa có nhiều loại hình bài tập
song ta có thể quy về hai dạng bài chủ yếu đó là:
+ Tập nhận biết dấu hiệu, tác dụng của hai biện pháp tu từ so sánh và nhân
hố.
+ Viết câu, có sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá.
VD : BT 2 (HDH Tiếng Việt 3 tập 1 – Trang 70): Tìm hình ảnh so sánh

thích hợp với mỗi chỗ trống trong trích đoạn thơ sau:
Lửa đèn
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè
Quả cà chua như cái ….nhỏ xíu
Thắp mùa đơng ấm những đêm thâu
Quả ớt như ngọn lửa…..
Chạm đầu lưỡi – chạm vào sức nóng.
(Phạm Tiến Duật)
- GV hướng dẫn HS như sau:
+ Bước 1: Giáo viên cho HS tìm đặc điểm của quả cà chua và quả ớt, từ
đó tìm những sự vật có điểm tương đồng với hai sự vật này.
+ Bước 2: Chọn sự vật thích hợp để điền vào chỗ chấm.
VD : Quả cà chua như cái lồng đèn nhỏ xíu.
11


Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu.
+ Bước 3: Gợi ý để HS thấy được tác dụng của biện pháp so sánh
VD : Thay vì nói : Quả cà chua chín đỏ ; tác giả sử dụng cách nói : Quả
cà chua như cái lồng đèn nhỏ xíu. Cách nói đó có gì khác biệt? (khiến ta thấy
được nét đẹp lạ, độc đáo, ngộ nghĩnh của quả cà chua; nhờ đó mà người đọc
hình dung được rõ hơn về màu đỏ và hình dáng của trái cà chua chín.)
Khi dạy dạng bài này giáo viên cần chú ý yêu cầu học sinh dựa trên dấu
hiệu nhận biết để viết xong câu có sử dụng biện pháp tu từ khơng chỉ phù hợp ở
dấu hiệu bên ngồi mà cần có nội dung phù hợp thực tế. Khi dạy các bài tập đọc
có những hình ảnh so sánh, nhân hóa đẹp, GV có thể nhấn mạnh để HS thấy
được tác dụng của biện pháp tu từ thay vì chỉ miêu tả thơng thường.
Từ đó học sinh sẽ chú ý đến việc viết câu, đoạn văn, khổ thơ có sử dụng
biện pháp tu từ để tăng giá trị nội dung của bài viết.

VD: Khi viết về nắng và gió thời điểm đầu đơng, thay vì tả thực, tác giả
Nguyễn Ngọc Ký đã áp dụng biện pháp tu từ rất ấn tượng:
Em thương
Em thương làn gió mồ cơi
Khơng tìm thấy bạn vào ngồi trong cây
Em thương sợi nắng đông gầy
Run run ngã giữa vườn cây cải ngồng.
(HDH Tiếng Việt 3 tập 2 – Trang 73)
Nhờ có biện pháp nhân hóa, người đọc hình dung ra làn gió và sợi nắng
giống như những đứa trẻ mồ côi, yếu ớt, nhỏ bé.
1.4 /Biện pháp 4 : Rèn cho học sinh kỹ năng nói
Mục đích của biện pháp: HS có kĩ năng nói thành câu, thành đoạn.
Thơng qua kĩ năng nói, HS sẽ phát triển kĩ năng viết đoạn văn tốt hơn.
Tiến hành biện pháp:
Việc rèn cho HS kĩ năng nói là tiền đề để HS viết được đoạn văn. Ngồi
việc “nói” rèn cho học sinh sự mạnh dạn, tự tin thì học sinh được rèn kỹ năng
sắp xếp từ ngữ, sắp xếp ý cho phù hợp. Mặt khác dựa vào bài nói của học sinh,
giáo viên nắm bắt được ý hiểu nội dung bài viết của học sinh một cách nhanh
nhất. Từ đó, giáo viên có thể sửa, điều chỉnh, bổ sung cho bài không chỉ của
mình học sinh đó mà có thể cho cả lớp. Qua thực tế những học sinh nào chuẩn bị
bài nói tốt thì bài viết sẽ tốt hơn.
12


VD: Tiết 1 - Bài 25C yêu cầu: Em hãy nói những điều em biết về lễ hội ở
quê em. (HDH Tiếng Việt 3 tập 2 – Trang 59). Đến Tiết 3 – Bài 26C yêu cầu:
Viết vào vở một đoạn văn ngắn khoảng 5-6 câu kể về một ngày hội mà em biết.
(HDH Tiếng Việt 3 tập 2 – Trang 72)
Bước 1: Trước khi học sinh viết đoạn văn theo u cầu, học sinh phải nói
được những điều mình sắp viết. Nói đúng theo những hiểu biết vốn có của HS.

Qua phần kể của học sinh, giáo viên nhận biết được học sinh đó có xác định
đúng yêu cầu của bài hay khơng? Kể có đúng nội dung khơng? Cách sử dụng từ
đặt câu thế nào? Từ đó giáo viên phải sửa lỗi cho học sinh, yêu cầu HS về nhà
tìm thêm các tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau về vấn đề định viết sau đó sắp
xếp nội dung cho bài viết tiếp theo.
Bước 2: Thời gian đưa ra yêu cầu “nói” và “viết” cách nhau 1 tuần đủ để
HS tổng hợp những tư liệu, kiến thức từ thực tế, người thân và vận dụng những
hiểu biết vốn có để có thể có thể phác ra một dàn ý chi tiết về đoạn văn của
mình. Sau đó, GV cho HS viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
Bước 3: HS có thể đối chiếu, so sánh bài làm của bạn với mình, thấy bài
của bạn có ý nào hay thì học tập, ý nào chưa hay thì tránh. Mặt khác qua phần
nhận xét của cô giáo học sinh tự điều chỉnh bài của mình.
Chính vì thế giáo viên cần chú ý đến ngơn ngữ nói của học sinh trước khi
rèn kỹ năng viết cho học sinh.
1.5/ Biện pháp thứ 5: Dạy cách viết đoạn văn cho học sinh
Mục đích của biện pháp: HS nắm được một số kiểu cấu trúc của đoạn
văn; biết cách liên kết câu, tạo đoạn.
Các bước tiến hành biện pháp:
Bước 1: Dạy cấu trúc đoạn văn
Ngay từ đầu năm học, GV phải cung cấp có HS các kiểu cấu trúc của
đoạn văn. Với HS lớp 3, chú trọng vào cấu trúc diễn dịch và quy nạp. GV khơng
cần nói tên 2 kiểu cấu trúc này, tránh cho HS thấy trừu tượng khó tiếp nhận.
+Kiểu 1 (diễn dịch): Câu đầu đoạn nêu ý khái quát (giới thiệu được đối
tượng định kể là gì?), các câu cịn lại cụ thể hóa nội dung khái quát của câu đầu
đoạn (nêu các đặc điểm của đối tượng định kể). Câu kết đoạn cần nêu được tình
cảm, cảm xúc của mình với đối tượng được kể.
VD: Nơi dịng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở
đây từng được ngợi ca là “Bà chúa của các bãi tắm”. Diệu kì thay, trong một
ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau
13



đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước
biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển
Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng
biển.
(Cửa Tùng – HDH Tiếng Việt 3 tập 1 – Trang 105)
Kiểu 2 (quy nạp): Ngược lại với kiểu 1, các câu đầu nêu ý cụ thể, câu cuối
cùng khái quát nội dung cụ thể đó thành ý khái quát.
Bước 2: Dạy liên kết câu, tạo đoạn
Khi liên kết các câu tạo thành đoạn văn học sinh thường chỉ chú ý đến dấu
hiệu hình thức bên ngồi (đủ bộ phận câu) mà chưa chú ý đến nội dung giữa các
câu. Tức là học sinh nghĩ gì viết đó sao cho đủ số lượng câu.
GV phải giúp HS hiểu được, tất cả các câu trong một đoạn phải liên kết
với nhau về mặt nội dung (thường là phát triển ý của câu mở đoạn) và cả hình
thức. Sự liên kết này có được nhờ các biện pháp: liên kết về nội dung, lặp từ
ngữ, từ ngữ nối, phép thế … (Các biện pháp liên kết câu này thực tế đến lớp 5
học sinh mới được học kĩ, vì vậy với HS lớp 3 giáo viên rèn cho HS thông qua
việc GV chữa đoạn văn cho HS là chính. Việc làm này sẽ được làm rõ hơn ở
biện pháp 6)
GV xây dựng các bài tập về liên kết câu (hệ thống bài tập này thường dựa
vào kinh nghiệm thực tế mà GV nhận thấy trong khi chấm đoạn văn của HS).
VD: Hai câu sau đã liên kết với nhau chưa? Hãy viết lại để các câu có sự
liên kết.
Từ phía núi, một con đại bàng lao vun vút đến. Gà mẹ túc túc gọi đàn
con.
Có thể sửa thành: Từ phía núi, một con đại bàng lao vun vút đến. Gà mẹ
nhìn lên bầu trời nhận ra sự nguy hiểm đang tới gần, nó vội vàng cất tiếng gọi
đàn con vào chuồng.
Bước 3: Học sinh thực hành viết đoạn văn

GV hướng dẫn HS viết đoạn văn theo trình tự sau:
- Xác định yêu cầu của bài, đọc phần gợi ý của đề bài.
- Dựa vào bài nói của mình ở tiết trước, phác họa ra những ý chính trong
đoạn. Sắp xếp ý cho phù hợp.
- Lựa chọn từ ngữ gợi tả, gợi cảm xúc để tạo câu. Sử dụng hình ảnh so
sánh và nhân hóa sao cho hợp lí.
- Viết thành đoạn văn hồn chỉnh; chú ý liên kết các câu trong đoạn.
14


1.6/ Biện pháp thứ 6: Chữa những lỗi sai trong đoạn văn của học sinh,
hướng dẫn HS viết lại để có đoạn văn hay.
Mục đích của biện pháp: HS nắm được những lỗi sai hoặc viết lại theo
một cách mới để có đoạn văn hay.
Các bước tiến hành biện pháp:
Ở lớp 3 khơng có tiết trả bài riêng, chính vì thế, việc chữa những lỗi sai
cho HS khi viết đoạn hoặc hướng dẫn HS viết theo một cách mới ít nhiều sẽ gặp
khó khăn. Điều này địi hỏi GV phải làm thật tốt 5 biện pháp đã nêu trên để giảm
thiểu lỗi sai của HS khi viết văn. Bản thân tôi sau mỗi tiết tập làm văn viết, tôi
thường dành thời gian chấm bài của tất cả học sinh trong lớp, chỉ ra lỗi sai cụ thể
và yêu cầu HS viết lại vào các buổi 2.
Bước 1: Tổng hợp, phân loại các lỗi sai trong bài làm của HS
Trong quá trình chấm bài, tơi tìm những đoạn văn viết tốt, ghi lại các lỗi
sai của từng HS ra một cuốn sổ tay riêng và phân loại các lỗi sai đó:
+ Lỗi về dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
+ Lỗi về liên kết câu
+ Lỗi nội dung không sát thực tế
+ Lỗi về sắp xếp ý trong đoạn
+ Lỗi không biết chọn lọc chi tiết dẫn đến bài viết lan man, không nêu bật
được đối tượng định kể.

Bước 2: Hướng dẫn HS cách sửa lỗi
Trước khi sửa lỗi, GV sẽ cho HS có đoạn văn viết hay đọc trước lớp để cả
lớp tham khảo. Dựa vào từng lỗi sai, GV trao đổi với HS để tìm ra hướng sửa
lỗi. Cụ thể:
+ Lỗi về dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
VD: Đề bài kể về một người bạn mà em yêu quý
Có học sinh viết như sau:
Trong lớp em chơi rất thân với bạn Hòa. Bạn có nước da ngăm ngăm đen
vì sương gió. Hịa còn là người học rất giỏi và hay giúp đỡ bạn bè…
Tơi sẽ phân tích cho HS nghĩa của từ “sương gió” (thường dùng chỉ sự vất
vả, gian truân của đời người) sau đó để HS tự thấy được mình sử dụng cụm từ
ngữ “da ngăm ngăm đen vì sương gió” là khơng phù hợp ngữ cảnh. Cho HS tự
nêu hướng sửa lỗi, GV giúp đỡ nếu cần thiết.
15


Có thể sửa thành: Trong lớp em chơi rất thân với bạn Hịa. Bố Hịa đã
mất từ sớm. Hịa có nước da ngăm ngăm đen vì Hịa thường phải ra đồng làm
việc đỡ mẹ. Hòa còn là người học rất giỏi và hay giúp đỡ bạn bè…
+ Lỗi về liên kết câu
VD: Đề bài kể về một cảnh đẹp trên đất nước ta
Có học sinh viết như sau:
Đất nước ta có mn vàn cảnh đẹp nhưng em ấn tượng nhất là cảnh núi
non hùng vĩ ở khu du lịch Tam Cốc – Bích Động. Người ta đi thuyền để tham
quan. Hai bên bờ sông là những dãy núi cao chọc trời. Khi đi vào Tam Cốc em
thấy rất mát mẻ. Trên mỗi thuyền tham quan đều có hướng dẫn viên du lịch…
Tơi phân tích cho HS thấy ở đây HS đã viết rất tốt câu mở đoạn, các câu
còn lại đều tập trung phát triển ý của câu mở đoạn. Tuy nhiên các câu rời rạc,
chưa có sự liên kết và chưa được sắp xếp ý phù hợp khiến người đọc khơng thể
hình dung ra cảnh mà HS định tả. Tôi đã gợi ý HS kể theo đúng thứ tự như hành

trình mà HS đã được tham quan, khơng nên kể theo kiểu nhớ ra chi tiết nào thì
kể chi tiết đó. Cho HS tự nêu hướng sửa lỗi, GV sẽ giúp đỡ nếu cần thiết.
Có thể sửa thành: Đất nước ta có mn vàn cảnh đẹp nhưng em ấn tượng
nhất là cảnh núi non hùng vĩ ở khu du lịch Tam Cốc – Bích Động. Để tham
quan, du khách sẽ được ngồi trên những chiếc thuyền mộc, từ dưới thuyền ngắm
nhìn phong cảnh núi non hùng vĩ ở hai bên bờ sông. Vừa chèo thuyền, du khách
vừa được nghe hướng dẫn viên du lịch giới thiệu truyền thuyết về những dãy núi
này. Đi hết Tam Cốc là tới Bích Động…
+ Lỗi nội dung không sát thực tế
VD: Đề bài kể về một con vật ni trong nhà.
Có HS viết như sau: Chú mèo nhà em khôn ngoan, nhanh nhẹn lắm. Mới
sinh được một tuần nhưng chú đã dũng cảm đuổi bắt một con chuột cống…
Tơi đã phân tích cho HS thấy chỗ chưa hợp lí nằm ở nội dung của câu văn
không đúng với thực tế: một con mèo mới 1 tuần tuổi khá yếu ớt, thậm chí có
thể chưa mở mắt và chưa đứng vững. Vì vậy, nó chưa thể có kĩ năng đuổi bắt
một con chuột cống. Dùng từ “khôn ngoan, nhanh nhẹn, dũng cảm” để tả một
con mèo con 1 tuần tuổi là khơng hợp lí. Nguyên nhân có lỗi sai này nằm ở việc
HS chưa từng quan sát quá trình lớn lên của một con mèo. Tơi đã gợi ý em về
nhà có thể hỏi thêm cha mẹ hoặc xem những đoạn video trên mạng về q trình
lớn lên của một chú mèo, sau đó viết lại đoạn văn.
+ Lỗi về sắp xếp ý trong đoạn
16


Ví dụ : Khi học sinh viết một đoạn văn ngắn kể lại buổi đầu em đi học. Có
học sinh viết như sau:
“Sân trường thật đơng người, st nữa thì em khóc. Em đến chơi cùng
các bạn. Chúng em vào lớp. Cô giáo gọi tên từng bạn để làm quen. Khi ông đi
về em hơi lo lo và hơi sợ sợ. Em bước ríu cả chân. Ngày đầu tiên đi học, ơng em
đã đưa em đến trường. Em nhìn thấy mấy bạn học mẫu giáo với em đang đứng

chơi dưới gốc bàng. Lúc đó em đã bắt đầu thấy yêu lớp học mới của mình. Em
thấy giọng cơ thật dịu dàng, em nghĩ chắc cô hiền lắm”.
Trước hết, tôi giúp HS thấy được đoạn văn này chưa có câu mở đoạn,
chưa giới thiệu được về đối tượng định kể, người đọc sẽ khơng biết HS đang
muốn kể điều gì. Các câu trong đoạn sắp xếp ý khơng theo một trình tự nào
khiến đoạn văn lủng củng. Tôi gợi ý cho HS sắp xếp lại các ý theo trình tự thời
gian bằng một số câu hỏi gợi ý :
+ Ngày đầu tiên đi học, ai là người đưa em tới trường ?
+ Trên đường đến trường, em thấy cảnh vật hai bên đường thế nào ?
+ Khi bước vào trường, em thấy trường học mới của em có gì đặc biệt ?
+ Buổi đầu đi học, điều gì làm em thấy lạ lùng, bỡ ngỡ ?
+ Điều gì ở trường khiến em thích nhất ?
Sau khi viết lại dựa vào gợi ý và được giáo viên chỉnh sửa đôi chút về từ
ngữ, HS đã trình bày khá tốt đoạn văn của mình:
Đã 3 năm trơi qua nhưng em vẫn nhớ như in ngày đầu tiên em bước vào
lớp 1. Đó là một buổi sáng đầu thu trong xanh. Ông nội đưa em tới trường trên
chiếc xe máy cũ. Cảnh vật hai bên đường như reo vui cùng em. Bước chân vào
trường, em thấy trường mới thật rộng rãi, khang trang. Các anh chị lớp trên
đang chơi đùa ríu rít. Lịng em cảm thấy rất hồi hộp, khơng biết lớp mới của
mình sẽ thế nào. Cơ giáo đón em vào lớp với nụ cười thật tươi. Buổi học đầu
tiên cô cho chúng em giới thiệu về mình và làm quen với các bạn. Giọng cô giáo
sao mà ấm áp, thân thương đến thế ! Ngày đầu tiên đến trường sẽ trở thành một
kỉ niệm đáng nhớ trong cuộc đời của em.
+ Lỗi không biết chọn lọc chi tiết dẫn đến bài viết lan man, không nêu bật được
đối tượng định kể.
VD: Đề bài : Kể về một người hàng xóm mà em yêu quý. Có HS viết như
sau :
Sống bên cạnh nhà em là gia đình nhà bác Xuân. Bác hay cho nhà em
q. Gia đình bác rất tốt, ln đối xử tốt với mọi người. Bác làm việc rất chăm
17



chỉ nên kinh tế nhà bác khá giả. Bác dạy học cho trẻ con không lấy tiền. Cả nhà
em ai cũng quý bác. Cả nhà bác cũng quý nhà em.
Trong lớp cũng có khá nhiều em mắc lỗi tương tự. Tơi phân tích cho HS
hiểu, khi kể về một người cũng giống như khi ta vẽ một bức chân dung về người
ấy. Mỗi người phải có một nét riêng, khác biệt với những người khác. Khi vẽ
phải làm nổi bật lên được nét riêng của từng người cũng giống như khi kể về
một người phải nêu bật được những nét cá tính riêng của người ấy. Việc kể quá
chung chung khiến người đọc khơng thể hình dung được về người hàng xóm mà
HS định kể. Đọc xong đoạn văn nhưng khơng lưu lại được ấn tượng gì sâu sắc.
Với định hướng như vậy, HS của tôi đã viết lại khá tốt và khơng mắc lại những
lỗi đó ở lần viết sau.
Sống bên cạnh nhà em là gia đình nhà bác Xuân. Bác năm nay khoảng 60
tuổi. Bác là một giáo viên đã về hưu. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt bác
luôn ánh lên vẻ hiền từ, dễ mến. Tuy tuổi tác bác đã khá cao nhưng dáng người
bác vẫn rắn rỏi, nhanh nhẹn lắm. Bác thường dạy kèm cho mấy bạn nhà nghèo
trong xóm mà khơng lấy tiền. Mỗi khi nhà em có cơng việc gì, bác lại sang giúp
rất nhiệt tình. Bác thường cho chúng em lúc thì quyển vở, khi là gói kẹo. Cả gia
đình em ai cũng yêu quý bác và coi bác như người thân trong nhà.
Bước 3: HS viết lại để có đoạn văn hay hơn.
Với một số lỗi sai phổ biến của HS, giáo viên có thể hướng dẫn chung cả
lớp sau đó cho HS viết lại đoạn văn. Tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh giáo viên
có thể yêu cầu cụ thể:
* Mức độ 1: Với những HS viết chưa đạt yêu cầu, dựa trên sự hướng dẫn
của GV ở bước 2, GV cho HS viết lại đoạn văn.
* Mức độ 2: Với những HS đã viết được đoạn đúng yêu cầu nhưng đoạn
văn chưa có gì là nổi bật, GV cho HS tập viết câu văn có hình ảnh đẹp.
Ví dụ 1: - Bầu trời cao, xanh thẳm, có vài đám mây đang bay nhởn nhơ bay.
- Viết lại: Trên nền trời trong xanh, những đám mây đủ màu sắc, hình thù đẹp

mắt đang nhởn nhơ bay.
Ví dụ 2: Quê hương em khơng có danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà chỉ có cánh
đồng lúa và những đầm sen thơm ngát.
- Viết lại: Q hương em khơng có danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhưng với
những người con yêu quê tha thiết thì chỉ cần ngắm nhìn cánh đồng lúa thẳng
cánh cò bay và những đầm sen ngào ngạt hương thơm cũng đủ thấy quê hương
mình sao đẹp đến thế!
18


* Mức độ 3: Với những HS đã viết được đoạn đúng u cầu, có một số
hình ảnh đẹp, GV cho gợi ý HS thử tìm những từ ngữ gợi hình, gợi cảm xúc để
thay thế cho một số từ đã sử dụng hoặc viết lại một số câu có sử dụng biện pháp
so sánh, nhân hóa.
Ví dụ 1: Ơng mặt trời nhô lên sau rặng tre đầu làng. Những tia nắng ban mai
chiếu xuống nhân gian. Vạn vật như bừng tỉnh giấc.
- Viết lại: Rặng tre đầu làng cong lưng cõng ông mặt trời ra khỏi tấm chăn mây
ấm áp. Khi những tia nắng ban mai nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, vạn vật như
bừng tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài.
Ví dụ 2: Dịng sơng uốn lượn, chảy vắt ngang qua những cánh đồng. Dịng sơng
là nguồn cung cấp nước chính để những cánh đồng quanh năm xanh tốt.
- Viết lại: Từ xa nhìn lại, dịng sơng như một dải lụa đào vắt ngang lên tấm áo
màu xanh của những cánh đồng. Ngày qua ngày, dịng sơng lặng thầm bồi đắp
những ngày mùa ấm no cho người dân quê em.

2. Những hiệu quả đạt được.
2.1. Hiệu quả đối với giáo viên.
Giáo viên nhận thức được vị trí, vai trị của hoạt động viết đoạn văn trong
phân mơn Tập làm văn của Tiếng Việt lớp 3. Trên cơ sở đó giáo viên đề ra được
các biện pháp thiết thực giúp học sinh lớp mình giảng dạy khơng chỉ biết cách

viết đoạn văn mà cịn có thể viết được đoạn văn hay.
Thông qua bài viết của các em mà giáo viên có thể biết học sinh lớp mình
gặp các sai lầm nào trong quá trình viết đoạn văn. Tạo điều kiện cho giáo viên
uốn nắn kịp thời, có biện pháp thích hợp để giúp học sinh biết sai lầm của mình
và viết tốt hơn trong các bài tiếp theo.
2. 2 Hiệu quả đối với học sinh.
Đề tài này có tác dụng thực tiễn cao trong quá trình rèn kĩ năng viết đoạn
văn cho học sinh lớp 3, việc các em nắm được các sai lầm cơ bản của mình cũng
như biết cách khắc phục, biết cách sử dụng từ ngữ để viết được đoạn văn. Điều
đó thể hiện cụ thể tại lớp tôi chủ nhiệm. Đầu năm học thông qua đợt khảo sát, số
lượng học sinh gặp các lỗi khi viết đoạn văn cịn khá đơng. Tuy vậy, hiện nay tỷ
lệ học sinh mắc các lỗi này chiếm số lượng rất nhỏ.
Cụ thể:
Kết quả cuối năm 2017-2018
Tôi ra một đề văn: Viết đoạn văn ngắn từ 7 đến 10 câu kể lại một trận thi
đấu thể thao mà em từng được xem. Số lượng HS mắc các lỗi khi viết đoạn văn
đã giảm đáng kể.
19


Các lỗi thường gặp
Không biết sắp xếp ý trong đoạn văn
Dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
Chưa biết chọn lọc chi tiết và hình ảnh khi tả, kể
Lặp từ
Chưa biết lồng ghép các biện pháp nghệ thuật so sánh
và nhân hóa.
Viết đoạn văn theo dạng trả lời câu hỏi của đề bài

Tỉ lệ

5%
9%
12 %
10 %
15 %
15 %

Kết quả cuối năm 2018-2019
Tôi ra một đề văn: Viết đoạn văn ngắn từ 7 đến 10 câu kể về một cảnh
đẹp trên đất nước ta. Số lượng HS mắc các lỗi khi viết đoạn văn đã giảm hơn
hẳn ở năm so với đầu năm:
Các lỗi thường gặp
Tỉ lệ
Không biết sắp xếp ý trong đoạn văn
5%
Dùng từ không đúng ngữ nghĩa, không hợp ngữ cảnh
7%
Chưa biết chọn lọc chi tiết và hình ảnh khi tả, kể
9%
Lặp từ
10%
Chưa biết lồng ghép các biện pháp nghệ thuật so sánh
11%
và nhân hóa.
Viết đoạn văn theo dạng trả lời câu hỏi của đề bài
12%
Cụ thể kết quả cuối năm học 2017-2018 và cuối năm học 2018-2019 như
sau:
Năm học


2017-2018
2018-2019

Tổng số

26
25

Hồn thành tốt

SL
10
9

%
38,4
36

Hồn thành

SL
16
16

%
61,6
64

Chưa hồn thành


SL
0
0

%
0
0

- Nhìn vào kết quả trên cho thấy có sự biến đổi rõ rệt giữa 2 lần kiểm tra:
100% các em hoàn thành và hồn thành tốt, khơng có học sinh chưa hồn thành,
chất lượng bài kiểm tra có đúc rút kinh nghiệm cao hơn hẳn so với bài kiểm tra
chưa vận dụng kinh nghiệm.
- Qua quá trình hướng dẫn học sinh những biện pháp rèn kĩ năng viết
đoạn văn như trên, tôi thấy trong giờ dạy tập làm văn các em làm bài tự tin, tích
cực hơn, có hứng thú học tập và u thích giờ học hơn. Đó là kết quả thực tế tạo
niềm tin vững chắc cho tôi khi hoàn thiện sáng kiến này.
20


III.Khả năng áp dụng của sáng kiến
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học trên
trong thực tế với học sinh lớp 3, tôi nhận thấy các em học sinh của lớp mình dạy
có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn hơn, biết
thực hiện làm một đoạn văn theo trình tự các bước một cách độc lập và thành
thói quen tốt. Nhiều đoạn văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề,
sai lỗi về chính tả, dùng từ đặt câu... đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử
dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho bài văn
trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em cịn biết làm văn có
cảm xúc hơn, câu văn chau chuốt hơn... .
-Để áp dụng được sáng kiến kinh nghiệm trên thì mỗi học sinh phải tạo

cho mình một tâm thế tốt, phải tích cực học tập chủ động trong việc lĩnh hội ,
tiếp thu kiến thức mới, có hứng thú say mê với mơn tập làm văn. Tích cực đọc
sách, tài liệu tham khảo. Với giáo viên không ngừng học hỏi chuyên môn, tích
cực tham gia các lớp bồi dưỡng do ngành tổ chức, ln có tinh thần tự học hỏi
để nâng cao kiến thức. Giáo viên tự học phải tâm huyết với nghề có phương
pháp giảng ln đổi mới, gây hứng thú cho học sinh. Giáo viên phải luôn áp
dụng phương pháp dạy học tích cực chủ động sáng tạo. Trong dạy học giáo viên
phải lấy học sinh là trung tâm, là chủ thể của hoạt động dạy học. Tổ chức các
hoạt động phải luôn phong phú đa dạng. Với nhà trường cần trang bị đầy đủ đồ
dùng dạy học.
-Theo cá nhân tôi, sáng kiến “ Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho
học sinh lớp 3” có thể áp dụng đại trà cho toàn bộ học sinh lớp 3 toàn trường và
toàn huyện.

21


KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Thông qua một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh ở
trường tôi đang công tác giúp các em mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy,
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho các em. Với
học sinh lớp 3, các em vừa bắt tay vào làm văn khơng thể đã có được những
dịng văn hay mà là kết quả của cả một quá trình rèn luyện lâu dài, liên tục,
bền bỉ. Với tinh thần đó, việc rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh vừa để
nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn
luyện của các em. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học
sinh lớp 3 nói riêng và phân mơn Tập làm văn nói chung có vai trị rất quan
trọng trong trường Tiểu học.
Bài học kinh nghiệm:

Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn, qua q trình nghiên cứu và
ứng dụng, tơi đã có được một số kinh nghiệm, đó là:
 Bồi dưỡng tâm hồn, bồi dưỡng tình yêu đối với việc viết văn cho học sinh.
 Giúp học sinh tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống để phục vụ cho
việc viết đoạn văn
 Áp dụng quan điểm tích hợp khi dạy học các phân môn của Tiếng Việt để
phục vụ cho việc viết đoạn văn
 Rèn cho học sinh kỹ năng nói
 Dạy cách viết đoạn văn cho học sinh
 Chữa những lỗi sai trong đoạn văn của học sinh, hướng dẫn HS viết lại
để có đoạn văn hay.
Bên cạnh đó, bản thân người giáo viên cần phải có sự sáng tạo, lịng
nhiệt tình và phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ các biện pháp. Cụ thể là:
- Giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lí của học sinh.
- Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của đoạn
văn ngay từ tiết học đầu tiên của môn học.
- Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân
môn thuộc phân môn Tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt Tập làm văn cần dạy
tốt các phân mơn khác.
Những bài học trên đây có thể chưa đầy đủ song nếu tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể sẽ mang
lại hiệu quả thiết thực cho việc nâng cao chất lượng dạy và học trong các
trường Tiểu học.
22


2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên
- Giáo viên cần nắm được các lỗi cơ bản khi viết đoạn văn, từ đó có các
biện pháp giúp đỡ các em.

- Giáo viên cần chủ động, tích cực trong việc rèn kĩ năng viết đoạn văn
cho HS, cần giúp các em nhận ra và sửa lỗi một cách cụ thể.
- Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy học
Tập làm văn. Tăng cường việc đọc tài liệu, các thơng tin tham khảo có liên quan
đến bài dạy trong phân môn Tập làm văn.
- Kết hợp việc dạy học với nhiều hình thức như tổ chức cho các em được
tham quan dã ngoại, hoạt động ngoài giờ, giúp học sinh có thêm kinh nghiệm
thực tế trong q trình làm bài Tập làm văn.
* Đối với học sinh
- Các em cần tạo cho mình một tâm thế, sự chủ động, tích cực trong việc
học tập phân mơn Tập làm văn nói riêng, các mơn học khác nói chung.
- Học sinh cần rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn thì các em sẽ dễ dàng nhận
thấy cái hay cái đẹp chứa đựng trong các yếu tố ngôn ngữ đối với cách dùng từ,
đặt câu. Từ đó, các em sẽ biết cách dùng từ sao cho đúng, hay để miêu tả hình
ảnh, sự vật một cách sinh động, gợi cảm như chúng đang hoạt động, đang nảy
nở, đang sinh sôi và phát triển.
* Đối với nhà trường
Ban giám hiệu nên động viên, khuyến khích kịp thời những giáo viên có
sáng kiến mới, có sự lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh để
mang lại hiệu quả cao. Thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh. Học sinh phải ln ln đóng vai trị chủ động của tiếp thu kiến thức.
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ chuyên môn trong việc tổ chức và
triển khai các hoạt động chun mơn trong đó có nhận xét, đánh giá việc đổi
mới dạy học của giáo viên trong tổ. Nếu công việc này được làm thường xun,
có kế hoạch thì chắc chắn sẽ có tác dụng và hiệu quả cao.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề, hội thảo tập trung vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, lấy đó là một trong những tiêu chí nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học. Qua đó, giáo viên được nghe thêm, học hỏi thêm về môn
Tiếng Việt nói chung và việc dạy viết đoạn văn cho học sinh nói riêng thơng qua
các tiết chun đề, sinh hoạt chuyên môn, học bồi dưỡng thường xuyên.

23


Với giới hạn và phạm vi của đề tài mới chỉ áp dụng ở đối tượng học sinh
lớp 3 tại trường Tiểu học Thanh Bình nên trong quá trình thực hiện sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của đồng nghiệp và Hội đồng
chấm sáng kiến kinh nghiệm các cấp để tơi có thể hồn thiện hơn các phương
pháp dạy học của mình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Bình, tháng 12 năm 2019
Xác nhận của Ban Lãnh đạo
Người viết

Lê Thị Hằng

24


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh của sáng kiến………………………………….…….……… 1
2. Lí do chọn đề tài……………………………………………..……….. 2
3. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến………………………..…….…... 2
4. Mục đích của sáng kiến………………………………………..……....3
PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của việc dạy và học rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học
sinh lớp 3
1. Cơ sở lý luận…………………………………..…………………….....4
2. Cơ sở thực tiễn………………………….…………………………….. 5

II. Nội dung sáng kiến…………………….…………………………….
1. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề…………….………..8
2. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn…………….……19
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến……….…………………….......21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.…………………………………………………………… 23
2. Kiến nghị…………………….……………………………………… 23

25


×