Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích luận điểm “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VN là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, ý nghĩa lý luận và thực tiển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.16 KB, 10 trang )

Câu 10: Phân tích luận điểm “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VN là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”? Ý nghĩa lý luận và thực tiển?
Trả lời:
Nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế tất yếu khách quan của nền sản xuất lưu thông
hàng hóa đã phát triển. Kinh tế thị trường ra đời như một quá trình lịch sử tự nhiên. Lịch
sử nhân loại đã trải qua các mơ hình kinh tế khác nhau như: Kinh tế tự nhiên; kinh tế tự
cung, tự cấp; kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa giản đơn, sản xuất hàng hóa phát triển kinh tế thị trường). Kinh tế thị trường khơng phải là mơ hình kinh tế riêng có của một
quốc gia nào. Trong bối cảnh thế giới ngày nay kinh tế thị trường đang trở thành mơ hình
kinh tế phát triển có hiệu quả và nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đã và đang phát
triển mơ hình này.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta được xác lập gắn với quá trình
hình thành và phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước đổi mới, nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường được
coi là nền kinh tế và cơ chế chuyên biệt chỉ có ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cùng với sự vận động của quá trình đổi mới tư duy kinh tế, Đảng đã nhìn nhận ngày càng
sáng rõ hơn những mặt tích cực và sự tồn tại khách quan của cơ chế thị trường có định
hướng trong nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ.
Quá trình đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác
định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới qua ba nấc thang nhận thức về nền kinh tế
XHCN, tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nền kinh tế:
Giai đoạn“khởi động”: Là giai đoạn trước Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986): Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp dưới áp lực
của thực tiễn trong thời kỳ cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 trong nền kinh tế đã diễn
ra những đổi mới từng phần theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là công cụ bổ sung
cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô. Thực chất sự thừa
1


nhận đó đã coi thị trường khơng cịn đối lập với CNXH và có thể chấp nhận được trong


q trình xây dựng CNXH - đó là sự thay đổi khởi đầu về tư duy trên lĩnh vực kinh tế.
Những thay đổi đó được thể hiện qua Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IV (8/1979), giai đoạn này là sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng
mang tính đột phá, những tìm tịi chỉ đạo trong thực tiễn như: trong cơng nghiệp có thay
đổi về cơ chế quản lý (nâng cao tính tự chủ, cải tiến quản lý xí nghiệp, phương thức hoạt
động của các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp), Quyết định: 25/CP (1/1981); Quyết định:
146, Quyết định: 196 của Hội đồng Bộ trưởng; trong thương nghiệp: Nghị quyết 26 của
Bộ Chính trị (6/1980) về cải tiến phân phối, lưu thông; Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá V (6/1985) đột phá trong đổi mới về giá - lương - tiền. Q trình
đổi mới từng phần đã có những bước chuyển tích cực trong việc nâng cao tính tự chủ của
doanh nghiệp, nhưng chưa đủ để tạo ra bước ngoặt căn bản trong lý luận và thực tiễn về
quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bởi chưa thừa
nhận sở hữu tư nhân trong nền kinh tế; chưa thừa nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của doanh nghiệp; nền kinh tế cơ bản vận hành theo phân phối hiện vật, phủ nhận quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh.
Giai đoạn xây dựng nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (19862001): Là giai đoạn đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội
dung chính là xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đưa ra những
quan niệm mới về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại
khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch tốn kinh doanh. Đại hội có ý nghĩa như
một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc. Với các vấn đề cụ thể:
2


Một là, thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các loại hình

sở hữu khác nhau, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải chịu sự điều tiết của thị trường. Tạo
điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển;
đẩy mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất kinh doanh.
Hai là, thực hiện cơ chế một giá của thị trường đại bộ phận các hàng hóa, dịch vụ (7
mặt hàng định lượng cuối cùng bán theo giá chỉ đạo của nhà nước được xoá bỏ vào ngày
1/1/1989) từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá trên thị trường.
Ba là, từng bước giảm dần vai trò chỉ huy của nhà nước trong nền kinh tế và tạo
điều kiện để các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tự chủ sản xuất kinh
doanh theo quy luật thị trường.
Bốn là, mở cửa nền kinh tế và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Năm 1988 ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, đó là bước ngoặt quan trọng trong hoạt
động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta được
tiến hành từng bước và ngày càng sâu rộng, với quan điểm của Đảng đa phương hóa các
quan hệ kinh tế đối ngoại, đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại. Tiến trình đó được
thể hiện: Năm 1993 khai thơng quan hệ với WB, IMF; 1995 gia nhập ASEAN, nộp đơn
gia nhập WTO; 1996 tham gia AFTA, ASEM; 1998 gia nhập APEC; 2000 ký hiệp định
thương mại Việt - Mỹ.
Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế tăng
trưởng khá nhanh và vững chắc, tạo những chuyển biến cơ bản trong phát triển kinh tế xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; giữ vững độc lập chủ quyền và an ninh quốc
gia, tạo chuyển biến mạnh trong quá trình CNH, HĐH đất nước, cải thiện đáng kể đời
sống các tầng lớp nhân dân, đạt thành tích ấn tượng về xố đói, giảm nghèo và phát triển
con người.
Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (2001 đến
nay) “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
3


triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của

Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, Đại hội IX của Đảng (4/2001) chính thức đưa ra khái
niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi
mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút
ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VII, VIII.
Nhận thức về mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được
sáng tỏ, được phát triển cả về lý luận và thực tiễn qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Đặc biệt là quan điểm về tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm
bảo vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng”. Ngoài mục tiêu của nền kinh thị trường là lợi nhuận thì mục tiêu phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm phát triển
lực lượng, giải phóng sức sản xuất của xã hội và từng bước xây dựng tiền đề vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Đó là kim chỉ nam cho sự phát triển mơ hình có tính đặc thù mà trong
lịch sử chưa có tiền lệ.
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
tại Đại hội XI được nêu cụ thể hơn:“nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
4



CNXH”. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ yêu cầu tăng
trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức kinh tế
vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN vừa có nhân tố của kinh tế thị trường vừa có nhân tố định hướng XHCN.
Trong đó, nhân tố kinh tế thị trường đóng vai trị như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã
hội phát triển nhanh, còn nhân tố định hướng XHCN đóng vai trị hướng dẫn, điều khiển,
chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định. Vì thế có thể
khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn có những thuộc tính, những
quy luật chung của kinh tế thị trường, nhưng nhất thiết phải có những đặc điểm riêng biệt
của nó. Biểu hiện là Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách,... và sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất,
giải phóng sức sản xuất; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường
và định hướng phát triển nền kinh tế. Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phối
hợp các hình thức phân phối khác như: phân phối theo vốn, tài năng, tài sản đóng góp vào
sản xuất và thơng qua phúc lợi xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016) tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề
cốt lõi về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội
XII khẳng định:“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang
đầy đủ các đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường như: tự do kinh doanh và cạnh tranh;
mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và
5



quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động lực phát triển;... vận hành với
các cơ chế, cách thức được xác định rõ theo hướng vừa bảo đảm phát triển đồng bộ các
yếu tố thị trường, vừa bảo đảm công bằng xã hội và phát huy vai trị tích cực trong hỗ trợ
phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong dự thảo văn kiện
Đại hội lần thứ XII của Đảng được sự quan tâm rất lớn của các tầng lớp nhân dân. Tuyệt
đại đa số đảng viên, nhân dân, cán bộ, chiến sĩ LLVT đều thống nhất với quan điểm của
Đảng và làm rõ thêm sự phát triển ngày càng hoàn thiện về lý luận và cơ sở thực tiễn của
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta qua các nhiệm kỳ Đại hội. Đại hội XI đã
đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: "Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối", "Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế...”.
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật...”. Sự phát triển lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường định hướng
6



XHCN được xác định trong văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng là: “Nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN hiện đại và hội nhập quốc tế”.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn khác với kinh tế thị
trường ở các nước tư bản chủ nghĩa ở “đối tượng làm chủ sức mạnh nền kinh tế”. Trong
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, giới chủ làm chủ sức mạnh nền kinh tế; còn trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đông đảo nhân dân lao động làm chủ sức mạnh
nền kinh tế. Sự khác biệt đó đã nói rõ tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Để phát huy tính ưu việt này thì định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế của Việt Nam cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước pháp
quyền XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội,
phát huy các nguồn tiềm năng lớn để thúc đẩy, phát triển nền kinh tế-xã hội.
Để giữ đúng định hướng XHCN trong điều kiện nước ta hiện nay, khi kinh tế cịn
nhiều khó khăn, thách thức; kinh tế vĩ mơ ổn định chưa vững chắc; năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp; vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với các nước trong khu vực và trên thế giới... Đảng ta cần tăng cường lãnh đạo quản lý
kinh tế, giải phóng tồn bộ sức sản xuất xã hội, có chính sách phù hợp phát triển các thành
phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng và cạnh tranh
theo pháp luật.
Để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm sự
phát triển ổn định, bền vững giữa các thành phần kinh tế, cần có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cần chú trọng phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý nền
kinh tế thị trường; nguồn lực nhà nước được Nhà nước phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng
7



và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Nhà nước
sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế, chính sách để định hướng, điều
tiết nền kinh tế; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển.
Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một bộ phận của
kinh tế quốc tế, đó là một nền kinh tế “mở”, hiện đại, vận hành theo quy luật của thị
trường, thị trường phân bổ nguồn lực, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo
của Đảng là rất phù hợp với thực tiễn đất nước.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung
cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trị hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đã chứng minh việc lựa chọn mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa
kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan
của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận
thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển
kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ
trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư
duy, quan niệm của Đảng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng
sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
Chủ trương phát triển “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đại và hội
nhập quốc tế” là phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Cơ sở khách quan của chủ
trương này xuất phát từ quá trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN trong
nhiệm kỳ qua vẫn còn hạn chế, bất cập, chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh
doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; chưa thu hút được nhiều

8


nguồn lực, nhiều nguồn đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Việc hồn thiện thể chế kinh tế
cịn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và
đồng bộ, chất lượng khơng cao, chưa đáp ứng được u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực phát triển. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả chưa cao, chưa thể hiện được
vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mơ
cịn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu; nhiều doanh nghiệp phá sản.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn hạn chế trong chuyển giao cơng nghệ và trình
độ quản lý tiên tiến; chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực phát triển...
Phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
đến năm 2020 với mục tiêu: Phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị,
giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bảo đảm an sinh xã
hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Bảo đảm tính cơng khai, minh bạch,
tính dự báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận
lợi cho phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ,
hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các
giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ
nguồn lực cho sản xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường; đồng thời,
sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các cơng cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân

phối lại để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng
9


bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân... (xem thêm
Trang 309)

10



×