Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Hướng dẫn soạn bài : NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.24 KB, 3 trang )

NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
(Hồi hương ngẫu thư)
Hạ Tri Chương
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Hạ Tri Chương (659 - 744), người Vĩnh Hưng, Việt
Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang). Ông
đỗ tiến sĩ năn 695, học tập và làm quan ở kinh đô Trường
An trên 50 năm. Ông là bạn vong niên với Lí Bạch. Hạ
Tri Chương tính tình phóng khoáng, thích uống rượu,
làm thơ, tác phaamt còn để lại 20 bài, trong đó có bài
Hồi hương ngẫu thư nổi tiếng.
2. Tác phẩm
Hồi hương ngẫu thư là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt,
được xây dựng dựa trên một cái tứ độc đáo. Bài thơ thể
hiện tình yêu quê hương ngậm ngùi mà sâu sắc của nhà
thơ.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Ngày xưa, nỗi nhớ quê hương thường thể hiện qua
nỗi sầu của người xa xứ. Song qua tiêu đề, có thể nhận
thấy, bài thơ này đã thể hiện tình yêu quê hương một
cách hoàn toàn khác: tình quê lại thể hiện ngay khi mới
đặt chân về đến quê nhà, ngay khi tưởng là được hạnh
phúc và vui mừng nhất.
2. Nhận biết về phép đối trong hai câu thơ đầu và nêu
tác dụng của nó:
Hai câu đầu của bài thơ này có hình thức tiểu đối:
Thiếu tiểu li gia / lão đại hồi, Hương âm vô cải / mấn
mao tồi. Hai câu đối, mỗi câu hai vế, mỗi vế có hai bộ
phận đối nhau rất chỉnh. Lí gia đối với đại hồi, hương âm
đối với mấn mao là chỉnh cả ý lẫn lời ; thiếu tiểu đối với


lão, vô cải đối với tồi tuy có hơi chênh về lời song về ý
rất chỉnh (thiếu tiểu: còn nhỏ ; lão: về già ; vô cải: không
thay đổi ; tồi: chỉ sự thay đổi). Xét về ý nghĩa ngữ pháp,
thiếu tiểu và lão đều là chủ ngữ cũng như vô cải và tồi
đều là vị ngữ, hai câu đối đọc lên nghe rất hài hoà.
Hình thức tiểu đối trong hai câu này đã giúp nhà thơ
thể hiện những ý nghĩa rất khái quát trong một lượng câu
chữ ít ỏi. Câu thơ đầu nói về quãng thời gian gần suốt cả
cuộc đời xa quê đồng thời hé lộ tình cảm quê hương của
nhà thơ. Câu thơ thứ hai dùng một yếu tố thay đổi (mái
tóc) để làm nổi bật yếu tố không thay đổi (tiếng nói quê
hương). Nói hương âm vô cải là đã động đến phần tinh tế
trong sâu thẳm tâm hồn (người thấy tiếng nói quê hương
không thay đổi qua mấy chục năm trời hẳn là người luôn
nghĩ về quê hương).
3. Nhìn vào bảng sau, đánh dấu x vào ô mà em cho là
hợp lí.
Phương
thức
biểu đạt
Tự sự Miêu
tả
Biểu
cảm
Biểu
cảm qua
tự sự
Biểu
cảm qua
miêu tả

Câu 1
Câu 2
Gợi ý:
a) Với câu 1, có thể nêu ra ba đáp án:
a1. Tự sự
a2. Biểu cảm
a3. Biểu cảm qua tự sự
b) Về câu thứ hai, cũng có thể nêu ra ba đáp án:
b1. Miêu tả
b2. Biểu cảm
b3. Biểu cảm qua miêu tả.
Tuỳ từng cách giải thích (căn cứ và dấu hiệu ngôn ngữ
hoặc căn cứ vào tình cảm và mục đích biểu hiện của bài
thơ) mà có thể đưa ra cách lựa chọn theo ý kiến của
mình.
4. Sự khác nhau về giọng điệu trong việc biểu hiện
tình cảm quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới.
Gợi ý: có thể nêu ra những nhận xét sau:
- Giọng điệu của câu đầu (khi nói về những thay đổi
của thời gian và của con người) tuy có vẻ khách quan
nhưng đã hàm chứa cái phảng phất buồn.
- Hai câu sau thiên về tự sự và biểu cảm về sự xuất
hiện của đám trẻ nhỏ. Đám trẻ nhìn mà không biết,
không hiểu. Đó là một sự ngỡ ngàng. Nhưng chua chát
hơn, bọn trẻ coi nhà thơ như là một vị khách lạ từ xa tới.
Đó là một hiện thực, một hiện thực quá trớ trêu. Tác giả
chấp nhận điều đó và không khỏi không xót xa. Xa quê
lâu quá nay trở về trở thành kẻ lạ lẫm trên chính miền
quê mà không lúc nào nguôi thương nhớ. Giọng thơ ở hai
câu này tuy có chút hóm hỉnh song không giấu nổi nỗi

buồn sâu kín bên trong. Cũng nhờ thế mà người đọc càng
nhận ra cái tình đối với quê hương thật tha thiết và sâu
nặng của nhà thơ.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Đọc chậm rãi, chú ý phép đối trong hai câu thơ đầu. Câu
thơ cuối cần lên giọng, thể hiện sự ngạc nhiên của lũ trẻ,
đồng thời cũng là sự hẫng hụt trong tình cảm của nhà
thơ.
2. So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần
Trọng San.
Gợi ý: so sánh về các mặt sau:
- Về chi tiết tóc mai rụng, bản của Phạm Sĩ Vĩ dịch
thành tóc đà khác xưa (chưa thể hiện được cụ thể nội
dung trong nguyên tác). Trong khi đó bản dịch của Trần
Trọng San lại dịch thành sương pha mái đầu (cũng chưa
đạt).
- Ở câu thứ ba và thứ tư, bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ
chưa dịch được tiếng cười hồn nhiên của đám trẻ con khi
chúng đưa ra câu hỏi với tác giả. Đồng thời cũng không
dịch được sát ý thơ tương kiến, bất tương thức (gặp nhau,
không biết nhau). Trong khi đó, bản dịch của Trần trọng
San, ở hai câu này dịch sát với nguyên tác hơn.

×